Đọc truyện Sushi Cho Người Mới Bắt Đầu – Chương 7
Ashling tỉnh dậy lúc mười hai giờ ngày Chủ nhật, với cảm giác thư thái và chỉ hơi chếnh choáng. Cô nằm trên ghế sofa hút thuốc cho đến khi xem hết tập phim The Dukes of Hazzard. Rồi cô ra ngoài đi mua bánh mì, nước cam, thuốc lá và báo – một tờ lá cải rẻ tiền và thêm một tờ khổ lớn để làm đối trọng với tờ lá cải.
Sau khi tự nhồi đến mức sáp phát ngáy vì những câu chuyện ngoại tình được thêm mắm thêm muối, cô quyết định đi dọn dẹp căn hộ của mình. Việc này chủ yếu bao gồm công đoạn mang khoảng hai chục chiếc đĩa còn vương vãi đồ ăn thừa và cốc nước uống dơ từ phòng ngủ ra bồn rửa trong bếp, nhặt một cốc kem Haagen Daz rỗng lên khỏi nơi nó nằm lăn lóc dưới gầm ghế và mở toang các cửa sổ. Cô cũng chỉ lau chùi lấy lệ, nhưng cô xịt dung dịch lau sàn Mr. Sheen ra quanh phòng và ngay lập tức mùi hương của nó làm cô cảm thấy tự hào vì sự chỉn chu của mình. Cô thận trọng ngửi bộ vỏ chăn, ga gối. Tuyệt, kiểu gì cũng phải được thêm một tuần nữa.
Rồi, cho dù cô biết chắc nó không thể biến đi đầu được, cô kiểm tra để chắc chắn rằng bộ vest mà cô vừa cho đi giặt khô về chưa bị ăn trộm mất. Nó vẫn được treo trong tủ quần áo của cô, cạnh một cái áo sạch. Mai là một ngày trọng đại. Một ngày cực kỳ trọng đại. Không phải thứ Hai nào cô cũng bắt đầu một công việc mới. Thực ra là đã tám năm rồi và cô thấy hồi hộp khủng khiếp. Nhưng cũng phấn khích nữa, cô khăng khăng tự nhủ, cố không đếm xỉa đến cảm giác nôn nao trong bụng.
Giờ thì sao? Hút bụi, cô quyết định, bởi vì nếu làm tử tế đây sẽ là bài tập tuyệt vời cho phần eo. Lôi ra chiếc Dyson màu đỏ tươi và xanh vỏ chanh của mình. Thậm chí đến tận bây giờ cô vẫn không thể tin nổi là mình đã bỏ ra ngần ấy tiền cho một món đồ gia dụng. Khoản tiền mà lẽ ra cô đã có thể dễ dàng tiêu vào vài chiếc túi xách hay mấy chai rượu vang. Kết luận duy nhất mà cô có thể rút ra là cuối cùng thì cô cũng trưởng thành. Điều này thật nực cười vì trong thâm tâm, cô vẫn mới mười sáu tuổi và đang cố quyết định xem mình sẽ làm gì sau khi ra trường.
Cô bật công tắc và hăm hở cúi xuống, vặn vẹo mạnh từ phần eo, bắt đầu đi dọc sàn gian phòng treo mủ áo bên ngoài. Cũng thật may cho người hàng xóm còn đang rất chếnh choáng của cô ở căn hộ phía dưới (Joy) là công việc này không kéo dài cho lắm – căn hộ của Ashling nhỏ đến mức lố bịch.
Nhưng cô yêu nó biết bao. Nỗi lo sợ lớn nhất của cô về việc mất việc là cô sẽ không còn khả năng thanh toán tiền vay thế chấp. Ashling đã mua căn hộ này ba năm trước, khi cuối cùng cô cũng hiểu rằng Phelim và cô sẽ không đứng chung tên mua một ngôi nhà thôn quê với những khóm hồng quanh cửa ra vào. Việc làm này của cô mang ít nhiều yếu tố đánh liều được ăn cả ngã về không – một cách tự nhiên, cô đã hy vọng rằng Phelim sẽ sầm sầm chạy tới khi khoản tín dụng đang được rót về và hổn hển đồng ý đăng ký mua ngôi nhà liền kề ba phòng ngủ trong một khu ngoại ô cách xa trung tâm. Nhưng tim cô trĩu nặng vì thất vọng khi anh ta không làm vậy, và vụ mua bán cứ thế diễn ra. Tại thời điểm ấy, đó có vẻ như là một sự thừa nhận thất bại. Nhưng giờ thì không. Căn hộ này là nơi nương náu, là cái tổ và cũng là ngôi nhà đầu tiên thực sự là của cô. Cô đã sống trong các phòng trọ suốt từ khi mười bảy tuổi, ngủ trong những chiếc giưòng của người khác, ngồi trên những chiếc sofa lồi lõm mà chủ nhà mua về vì rẻ tiền chứ không phải vì mức độ thoải mái.
Ashling không có lấy một mẩu đồ đạc nào khi cô mới chuyển tới đây. Ngoài mấy thứ thiết yếu như một cái bàn là và một đống khăn tắm xơ xác, mấy tấm khăn trải giường và vỏ gối không đồng bộ, tất cả đều phải mua sắm mới từ đầu. Chuyện đó làm Ashling lên một cơn tam bành hiếm hoi. Cô cáu điên lên và giận dữ đến sôi tiết với ý nghĩ phải chuyển mục đích sử dụng số tiền mua quần áo của hết tháng này sang tháng khác vào việc sắm sửa tất cả những thứ ngu xuẩn kia. Ghế chẳng hạn.
“Nhưng chúng ta không thể ngồi phệt xuống sàn được,” Phelim đã gào lên.
“Em biết,” Ashling thừa nhận. “Em chỉ không nghĩ ra là sẽ như thế này…”
“Nhưng em là người có óc tổ chức ghê lắm cơ mà.” Anh ta ngỡ ngàng. “Anh cứ đinh ninh em sẽ rất tuyệt với những việc như thế này. Nói thế nào nghỉ? Nghê thuật xây tổ ấm.”
Trông cô hoang mang và ủ ê đến nỗi Phelim phải dịu dàng nói, “Ôi, em yêu, để anh giúp nhé. Anh sẽ mua cho em một món nội thất nào đó.” “Em cá là một chiếc giường,” Ashling khinh khỉnh nói.
“À, nhân tiện em nhắc đến nó…” Phelim rất thích chuyện ân ái với Ashling. Mua cho cô một chiếc giường không có gì là khó khăn. “Liệu anh có đủ khả năng không nhỉ?”
Ashling nhẩm tính. Giờ đầy sau khi cố đã sắp xếp lại vấn đề tài chính của Phelim, anh chàng đã trở nên rủng rỉnh hơn nhiều. “Em nghĩ thế,” cô sưng sỉa nói. “Nếu anh mua nó bằng thẻ tín dụng của mình.” Cay đắng và bực bội, cô đăng ký vay tiền ngân hàng, rồi tự mua cho mình một chiếc sofa, một chiếc bàn, một tủ đựng quần áo và vài chiếc ghế. Và cô dứt khoát ngần ấy là quá đủ rồi. Suốt hơn một năm liền cố nhất định không chịu mua rèm cửa. “Mình chỉ cần không lau rửa cửa sổ là xong,” cô nói. “Như vậy sẽ không ai có thể nhìn vào trong.” Và cô chỉ chịu kiếm cho mình một tấm rèm cho bồn tắm sau khi những vũng nước trên sàn phòng tắm của cô bắt đầu thấm xuống căn hộ của Joy bên dưới. Nhưng rồi đến một lúc nào đó những ưu tiên của cô đã thay đổi. Mặc dù cô hoàn toàn không phải mẫu người trang trí nhà kiểu Ninja giống như Clodagh, nhưng hiển nhiên là cô có quan tâm. Tới mức độ cô sở hữu không chỉ một mà là hẳn hai bộ vỏ chăn ga gối (một bộ mang phong cách hiện đại màu chàm và một bộ trắng tinh mang hơi hướng Thiền đạo với tấm chăn có họa tiết vuông in lõm). Mới rồi cô còn dốc túi bỏ ra bốn mươi bảng cho một chiếc gương mà cô thậm chí còn không cần đến, chỉ vì cô nghĩ trông nó cũng xinh. Đã đành là lúc đó cô đang ở thời kỳ tiền kinh nguyệt và đầu óc cô không được minh mẫn lắm, nhưng dù sao vẫn thật khó hiểu. Và hiển nhiên là sự thay đổi vĩ đại trở nên trọn vẹn vào cái ngày cô xỉa ra hai trăm bảng cho chiếc máy hút bụi này.
Có tiếng gõ cửa. Joy, mặt trắng bệch như một hồn ma, lách vào trong.
“Xin lỗi, tớ mải dọn dẹp quá,” Ashling chợt nhận ra. “Tớ làm cậu mất giấc à?”
“Không sao đâu. Đằng nào tớ cũng phải về Howth thăm mẹ nữa.” Joy làm vẻ mặt đau khổ. “Tớ không thể lần lữa mãi được, tớ đã làm thế bốn Chủ nhật rồi còn gì. Nhưng làm sao mà tớ chịu nổi chứ? Kiểu gì bà cũng lại làm một bữa tối toàn thịt nướng, rồi cố nhồi nhét bắt tớ ăn cho mà xem, rồi bà sẽ dành cả buổi chiều mà cật vấn tớ, xác định xem tớ có hạnh phúc không. Cậu biết các bà mẹ như thế nào rồi đấy.”
Chà, có và không, Ashling thầm nghĩ. Cô quá quen với những câu hỏi “Có hạnh phúc không?” Chỉ có điều Ashling mới là người thường quan tâm đên mức độ hạnh phúc của mẹ cô, thay vì điêu ngược lại.
“Giá kể bà ăn bữa trưa ngày Chủ nhật vào một khoảng thời gian văn minh hơn thì tốt,” Joy phàn nàn.
“Kiểu như tối thứ Ba chứ gì,” Ashling cười nhăn nhở. “Mà này, tớ đoán là cả ngày nay cậu cũng chưa gặp Ted đúng không.”
“Chưa thấy đâu cả. Tớ đoán là đêm qua cậu ta gặp may và đang nhất định không chịu rời phòng ngủ của cô nàng tội nghiệp đó.”
“Đêm qua cậu ta xuất sắc đến bất ngờ. Vậy cậu có định cho tớ biết chuyện gì đã xảy ra với Nửa-người-nửa-lửng không hay để tớ phải bức cung bằng bạo lực đây?”
Nét mặt Joy tức khắc tươi hẳn lên. “Anh ta đã qua đêm với tớ. Bọn tớ cũng không thực sự làm chuyện kia nhưng tớ đã thổi kèn cho anh ta và anh ta nói sẽ gọi điện cho tớ. Tớ băn khoăn không biết anh ta có gọi hay không nữa.”
“Một cánh én nhỏ chẳng làm nên mùa xuân,” Ashling cảnh báo với vẻ khôn ngoan từng trải.
“Không thấy là cậu đang nói với ai sao? Đưa cho tớ” Joy cúi người về phía bộ bài tarot “ – để tớ xem chúng nói gì nào. Nữ hoàng à? Nó có nghĩa là gì nhỉ?”
“Sự sinh nở. Cậu nhớ phải uống thuốc đấy nhé.”
“Ôi dào. Mà đêm qua cậu xoay sở thế nào? Có gặp anh chàng tử tế nào không?”
“Không.”
“Cậu sẽ phải cố gắng nhiều hơn đi. Cậu đã ba mươi mốt rồi, đám đàn ông tốt sẽ nhanh chóng biến mất cho mà xem.”
Mình không cần một người mẹ nữa, Ashling tự nhủ. Một khi có Joy bên cạnh.
“Cậu cũng đã hai mươi tám,” Ashling trả miếng.
“Ừ, và tớ ngủ với hàng tấn đàn ông.” Joy gặng hỏi với giọng dịu dàng hơn. “Cậu không thấy cô đơn à?”
“Tớ vừa mới ra khỏi một mối quan hệ kéo dài năm năm – cũng phải mất một thời gian mới vượt qua được chuyện như vậy.”
Phelim cũng không phải là người tàn nhẫn nhưng việc anh ta không có khả năng cam kết lâu dài đã để lại tác động kiểu như chính sách tiêu thổ kháng chiến[Hủy diệt mọi thứ trước khi rút quân đi để gây khó khăn cho kẻ địch] đối với thái độ của Ashling về tình yêu. Từ khi anh ra đi, nỗi cô đơn như một cơn gió lạnh lẽo gào rú thổi qua lòng cô, nhưng cô hoàn toàn không đủ sẵn sàng cho việc gắn bó với một người đàn ông mới. Và phải thừa nhận rằng cô cũng không hẳn chìm ngập trong những lời săn đón.
“Đã gần một năm rồi, đến lúc cậu quên hẳn Phelim được rồi đấy. Công việc mới, khởi đầu mới. Tớ đọc ở đâu đó là có tới một trăm năm mươi phần trăm mọi người gặp nửa kia của mình trong công việc. Cậu có nhìn thấy anh chàng quyến rũ nào khi đi phỏng vấn không?”
Ngay lập tức Ashling nghĩ tới Jack Devine. Một tay khó chịu. Một kẻ tàn phá thần kinh lão luyện.
“Không.”
“Chọn một quân bài đi,” Joy thúc giục.
Ashling tách bộ bài ra và giơ một quân lên.
“Tám thanh gươm, có nghĩa là gì nhỉ?” Joy hỏi.
“Thay đổi,” Ashling miễn cưỡng thừa nhận. “Sự xáo trộn.”
“Tốt, lẽ ra phải từ lâu rồi mới đúng. Được rồi, tớ phải đi đây. Tớ chỉ lên xoa tượng Phật Di lặc để cầu là mình không bị nôn trên xe bus thôi… Mà thật ra, quỷ tha ma bắt Phật đi. Có cho mình vay tiền đi taxi được không?”
Ashling đưa cho Joy tờ mười bảng và hai túi nhựa đựng rác to đùng, hai cái túi kêu leng keng đến mức làm cô phát ngượng. “Vứt chúng vào máng đổ rác hộ tớ nhé, cám ơn.”
***
Ở Malones Aparthotel cách đó một phần tư dặm, báo Chủ nhật đang nặng trĩu trên tay Lisa. Cô đã đọc tất các báo của Ireland – chậc, cả mấy trang xã hội nữa cơ đấy. Và chúng mới vớ vẩn làm sao! Dường như chúng chẳng có gì khác ngoài những tấm ảnh mấy cha chính trị gia béo nứt béo trương, sặc mùi giả lả mị dân và tham nhũng. Hừ, những thứ như thế này sẽ không có chỗ trong tạp chí của cô.
Cô châm thêm một điếu thuốc khác và ủ rũ thơ thẩn quanh phòng. Người ta thường làm gì mỗi khi không làm việc nhỉ? Họ gặp gỡ bạn bè, tới quán rượu, hoặc phòng tập thể dục, hoặc đi mua sắm, hoặc trang trí nhà cửa, hoặc đi chơi với chàng của mình. Cô nhớ những điều đó biết bao.
Cô thèm khát một cái tai biết cảm thông và nghĩ tới việc gọi điện cho Fifi, người gần nhất với một người bạn thân mà cô có. Nhiều năm trước, họ đã cùng là nhân viên tập sự ở tờ Siveet Sixteen. Khi Lisa chuyển sang trang Chuyên đề của tờ Girl, cô xoay xở cho Fifi công việc của trợ lý biên tập trang sắc đẹp. Khi Fifi kiếm được công việc làm cây viết chính cho trang Chuyên đề của tờ Chic, cô mách cho Lisa biết khi họ đang kiếm một trợ lý tổng biên tập. Khi Lisa rời đi để trở thành trợ lý tổng biên tập của tờ Femme, Fifi đảm nhiệm luôn vị trí trợ lý tổng biên tập tờ Chic của Lisa. Mười tháng sau khi Lisa trở thành tổng biên tập của Femme, Fifi cũng trở thành tổng biên tập của Chic. Từ trước tới giờ lúc nào Lisa cũng có thể rên rỉ với Fifi – cô ta hiểu rõ những rủi ro và khó khăn trong cái nghề được coi là hào nhoáng của họ, trong khi tất cả những người khác đều khó chịu vì ghen tị.Nhưng điều gì đó đang ngăn Lisa không cầm điện thoại lên. Cô nhận ra mình đang xấu hổ. Và cả điều gì đó giống như cay cú. Mặc dù sự nghiệp của hai người vẫn gần như phát triển song hành, nhưng Lisa luôn là người tiến xa hơn trên đường đua. Sự nghiệp của Fifi là cả một cuộc vật lộn trong khi Lisa luôn thăng tiến vùn vụt qua các bậc thang. Cô đã trở thành tổng biên tập trước Fifi gần một năm, và mặc dù Chic và Femme đang ở trong một cuộc cạnh tranh gần như trực diện, lượng phát hành của Femme vẫn nhiều hơn khoảng trên một trăm nghìn bản. Lisa đã sung sướng chắc mẩm rằng vụ thăng tiến sang tờ Manhattan sẽ đẩy vọt cô về phía trưóc đến nỗi Fifi sẽ hoàn toàn không thể đuổi kịp cô được nữa. Nhưng thay vào đó cô lại bị tống sang Dublin và thế là Fifi bỗng, mặc nhiên, trở thành ngưòi dẫn đầu.
Oliver, Lisa thở hổn hển, hạnh phúc đột nhiên len lỏi trỗi dậy trong lòng. Mình sẽ gọi cho anh ấy. Nhưng cảm giác sung sướng như một làn sóng mật ong ấm áp ngay lập tức biến thành acid. Trong giây lát cô đã vụt quên khuấy đi mất. Mình không nhớ anh ta, cô tự răn mình. Mình chỉ đang buồn và chán nản.
Cuối cùng, cô gọi điện cho mẹ – có lẽ bởi vì đó là một ngày Chủ nhật nên làm thế sẽ mang tính truyền thống – nhưng sau đó cô cảm thấy tồi tệ khủng khiếp. Đặc biệt khi Pauline Edwards rất khát khao muốn biết tại sao Oliver lại phải gọi cho bà để tìm số điện thoại của Lisa ở Dublin.
“Bọn con đã ly thân.” Bụng Lisa quặn lại với những cảm xúc sôi sục. Cô không muốn nói đến chuyện này – và tại sao mẹ lại không gọi điện cho cô nếu quả thật bà ấy lo lắng đến thế? Tại sao bao giờ cô cũng phải gọi cho bà ấy?
“Nhưng tại sao các con lại phải ly thân, hả con yêu?”
Lisa cũng chưa hoàn toàn hiểu tại sao. “Thì thế đấy,” cô nói cộc lốc, chỉ mong cho qua chuyện này thật nhanh.
“Các con đã thử cái trò tư vấn đó chưa?” Pauline ngập ngừng hỏi, chỉ sợ cơn thịnh nộ của Lisa lại trút xuống đầu mình.
“Tất nhiên.” Lisa nói với vẻ cộc cằn bực bội. Hừ, họ đã đi nghe một buổi tư vấn, nhưng Lisa đã quá bận để đi nghe thêm bất kỳ buổi nào sau đó.
“Các con sẽ ly dị sao?”
“Con nghĩ là như vậy.” Trong thực tế, Lisa cũng không biết nữa. Ngoại trừ những câu mà họ đã hét vào nhau giữa cơn giận dữ – “Tôi sẽ ly dị anh!” “Không, cô không thể vì tôi mới là người ly dị cô” – thì chưa có gì cụ thể được bàn bạc. Thực ra thì cô và Oliver hầu như không nói gì với nhau kể từ khi ly thân nhưng, không hiểu sao, cô muốn nói như vậy để làm mẹ mình đau khổ.
Pauline thở dài buồn bã. Anh trai Lisa là Nigel đã ly dị năm năm trước. Bà sinh lũ con của mình khi đã khá lớn tuổi, nên bà không sao hiểu nổi cung cách trong thế giới của chúng.
“Người ta bảo hai phần ba số cuộc hôn nhân kết thúc bằng ly dị,” Pauline thừa nhận, và bỗng nhiên Lisa chỉ muốn hét lên rằng cô sẽ không ly dị và mẹ cô là một mụ già khốn kiếp khi gợi ra điều đó.
Nỗi lo lắng của Pauline dành cho con gái giằng xé với nỗi sợ của bà đối với cô. “Có phải là bởi vì các con… khác nhau?”
“Khác nhau, là sao hở mẹ?” Lisa gắt gỏng.
“Thì, vì nó là người… da màu?”
“Da màu”
“Đó là từ không chuẩn,” Pauline vội vã sửa lại, rồi rụt rè ướm thử. “Da đen?”
Lisa tặc lưỡi và thở dài nặng nề.
“Người Mỹ gốc Phi?”
“Trời đất ơi, mẹ, anh ấy là người Anh!” Lisa biết là cô đang tàn nhẫn, nhưng thật khó có thể thay đổi những thói quen cả đời này.
“Nếu vậy thì là người Anh gốc Mỹ-Phi chăng?” Pauline tuyệt vọng nói. “Dù có là gì đi nữa, nó cũng rất đẹp trai.”
Pauline nói câu này thường xuyên chỉ để chứng tỏ rằng bà không hề có thành kiến. Mặc dù tim bà đã gần như ngừng đập vì hoảng sợ khi bà gặp Oliver lần đầu tiên. Giá kể bà được cảnh báo trước rằng bạn trai của con gái bà là một người da đen cao sáu bộ, bảnh bao, lực lưỡng. Người da màu, người Mỹ gốc Phi, mặc xác từ nào đúng hơn. Bà chẳng có gì phản đối họ cả, chẳng qua là vì quá bất ngờ thôi.
Và một khi đã quen với anh ta, bà có thể bỏ vấn đề màu da qua một bên và nhận ra rằng anh ta thực sự là rất đẹp trai. Đấy là nói một cách khiêm tốn.
Một hoàng tử khổng lồ bằng gỗ mun, với làn da mịn màng bóng láng phủ căng trên đôi gò má cao, đôi mắt hình quả hạnh nhân và những lọn tóc bện mỏng uốn lượn rủ xuống tận quai hàm. Anh ta bước đi uyển chuyển như đang nhún nhảy và từ cơ thể anh ta toát ra mùi nắng. Pauline cũng nghi ngờ – mặc dù bà không bao giờ có thể diễn đạt ý nghĩ đó rõ ràng một cách có chủ ý – răng “súng ống” của anh thuộc hàng cực khủng[Nguyên văn là “hung like a donkey” – nghĩa là “lủng lẳng như một con lừa”, cách nói lóng rất tục tĩu, để ám chỉ về kích thước của cơ quan sinh dục nam (!).]
“Nó có người khác à?”
“Không.”
“Nhưng biết đâu đấy, Lisa con yêu. Một anh chàng đẹp trai như nó.”
“Thế càng tốt.” Nếu bà cứ nói mãi đến chuyện này, thế nào cuối cùng nó cũng trở thành sự thật cho mà xem.
“Con sẽ không thấy cô đơn chứ, con yêu?”
“Con sẽ không có thời gian để mà cô đơn,” Lisa gắt. “Con còn cả một sự nghiệp để nghĩ đến.”
“Mẹ không hiểu con lại cần sự nghiệp làm gì. Mẹ chẳng có sự nghiệp gì hết mà cũng đâu có sao chứ.”
“Ôi, thật vậy sao?” Lisa gầm lên. “Lẽ ra mẹ nên làm việc gì đó sau khi bố bị chấn thương lưng và chúng ta phải sống nhờ vào trợ cấp thương tật của bố.”
“Nhưng tiền không phải là tất cả. Chúng ta đã rất hạnh phúc đấythôi.”
“Con thì không.”
Pauline chìm vào im lặng. Lisa có thể nghe thấy tiếng thở của bà qua điện thoại.
“Mẹ nên dập máy thì hơn,” cuối cùng Pauline nói. “Gọi thế này chắc tốn nhiều tiền của con lắm.”
“Xin lỗi, mẹ,” Lisa thở dài. “Con không có ý đó. Mẹ đã nhận đượcgói bưu phẩm con gửi chưa?”
“Ô rồi con ạ,” Pauline hồi hộp trả lời. “Kem thoa mặt và son môi. Tuyệt lắm, cám ơn con.”
“Mẹ đã dùng đến chúng chưa?”
“À…” Pauline bắt đầu.
“Mẹ chưa dùng,” Lisa buộc tội.
Lisa gửi cho Pauline cơ man nào là nước hoa và mỹ phẩm đắt tiền mà cô kiếm được trong quá trình làm việc. Cô khát khao muốn thấy bà được tận hưởng chút xa hoa. Nhưng Pauline nhất định không chịu từ bỏ những thứ Pond’s và Rimmel của mình. Thậm chí có lần bà còn nói, “Ôi, những thứ của con quá tốt đối với mẹ, con yêu ạ.”
“Chúng chẳng có gì là quá tốt đối với mẹ cả,” Lisa đã nổi điên. Pauline không thể nào hiểu nổi cơn giận dữ của Lisa. Tất cả những gì bà biết, là bà khiếp sợ những ngày mà ngưòi đưa thư gõ cửa nhà mình và vui vẻ thông báo, “Lại một gói bưu phẩm của cô con gái trên London gửi về này.” Sau đó, không sớm thì muộn Pauline sẽ phải trả lời điện thoại để trình bày báo cáo tiến độ.
Trừ khi đó là một gói sách. Lisa vẫn thưòng gửi cho mẹ mình những bản đọc thử của Catherine Cookson và Josephine Cox, với niềm tin sai lầm rằng bà sẽ thích những thứ tâm lý lãng mạn kiểu Lọ Lem thời nay đó. Cho đến một hôm Pauline nói, “Cuốn sách mà con gửi cho mẹ mới tuyệt làm sao chứ, con yêu, cái cuốn về một tên ác ôn ở East End có thói quen đóng đinh nạn nhân của mình vào bàn bi-a ấy.” Hóa ra là người trợ lý của Lisa đã đóng gói nhầm sách, và nó đánh dấu một bước khởi đầu mới trong cái sự đọc của Pauline Edwards. Giờ đây bà mê mải với những cuốn hồi ký về dân gangster và tiểu thuyết trinh thám giật gân của Mỹ, càng nhiều cảnh tra tấn càng tốt, còn những tác phẩm của Catherine Cookson thì được gửi cho mẹ của ai đó.
“Mẹ chỉ mong con có thể về thăm chúng ta, con gái yêu. Đã lâu lắm”
“Ừm, vâng,” Lisa ậm ừ nói lảng. “Con sẽ về sớm thôi.”
Đừng hòng nhé! Cứ mỗi lần về thăm là ngôi nhà nơi cô đã lớn lên dường như lại càng trở nên nhỏ bé hơn và cực kỳ tồi tàn đến, phát sợ.
Trong những căn phòng chật chội chất đống các món đồ nhếch nhác rẻ tiền, cô cảm thấy mình trở nên bóng nhoáng và xa lạ, với những chiếc móng tay giả và đôi giày da trơn loáng, bối rối nhận ra rằng có lẽ chiếc túi xách của cô còn đắt tiền hơn cả chiếc sofa Dralon mà cô đang ngồi lên. Nhưng mặc dù bố mẹ cô hết xuýt xoa lại tấm tắc đầy vẻ kính cẩn trước vẻ lộng lẫy của cô, kỳ thực là họ sợ đến rúm người khi ở bên con gái mình.
Lẽ ra cô có thể ăn mặc giản dị trong những lần về thăm bố mẹ, để cố thu hẹp khoảng cách. Nhưng cô cần càng nhiều thứ càng tốt, để ốp lên người như một bộ áo giáp, đó là cách để cô không bị hút lại, bị tống khứ về với quá khứ của mình.
Cô căm ghét tất cả những chuyện đó, rồi căm ghét chính mình. “Tại sao bố mẹ không qua đây thăm con nhỉ?” Lisa hỏi. Nếu như họ đã không chịu đi chặng đường có nửa tiếng tàu hỏa từ Hemel Hempstead tới London thì chuyện họ sẽ bay sang Dublin càng khó hơn.
“Nhưng tình hình sức khỏe bố con không được tốt và…”
***
Khi Clodagh tỉnh giấc sáng Chủ nhật cô vẫn còn thấy hơi chếnh choáng nhưng vô cùng sảng khoái. Tạm thời cô có thể yên tâm rúc vào người Dylan và phớt lờ sự cương cứng của anh với một lương tâm trong sạch.
Khi Molly và Craig xuất hiện, Dylan ngái ngủ xua chúng đi, “Xuống dưới nhà đập phá các thứ đi, để mẹ và bố chợp mắt thêm một chút.” Thật kinh ngạc là chúng bỏ đi thật, thế là Clodagh và Dylan cứ nằm gà gật trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê.
“Người em thơm thế,” Dylan vùi mặt vào tóc Clodagh và nói líu ríu. “Như bánh quy ấy. Thật ngọt ngào… ngọt ngào…”
Một lát sau cô thì thầm nói với anh, “Em sẽ cho anh một triệu bảng nếu anh làm cho em ít đồ ăn sáng.”
“Em muốn ăn gì đây?”
“Cà phê và hoa quả.”
Dylan xuống nhà và Clodagh nằm duỗi thẳng cẳng như một con sao biển thỏa mãn trên giường cho đến khi anh quay lên, một tay cầm chiếc cốc, tay kia cầm quả chuối. Anh đặt quả chuối vào giữa háng và để nó chúc xuống dưới, rồi khi Clodagh ngước nhìn, anh giả vờ thở hổn hển và xoay ngoắt quả chuối lên, như một người đang run rẩy vì cương cứng. “Tại sao thưa bà Kelly,” anh thốt lên. “Bà thật là quyến rũ!”
Clodagh bật cười, nhưng lại nhận ra cảm giác tội lỗi quen thuộc đang bắt đầu trườn vào không một chút thương xót.
Sau đó họ ra ngoài ăn trưa, tới một trong những nơi khiến bạn không cảm thấy mình là những kẻ bị ghét bỏ vì mang theo hai đứa trẻ con. Dylan đi kiếm một cái đệm cho Molly ngồi lên và trong lúc Clodagh vật lộn giằng một con dao ra khỏi tay Molly cô thoáng nhìn thấy Dylan đang ngọt ngào tán gẫu với một cô phục vụ bàn – một cô nàng nai tơ mới lớn mặt đang đỏ lựng vì được ở cạnh một người đàn ông đẹp trai đến thế.
Người đàn ông đẹp trai đó là chồng cô, Clodagh nhận ra, vậy mà đột nhiên, thật lạ lùng, cô hầu như không biết anh ta. Choáng váng vì cảm giác thoắt ẩn thoắt hiện thật mơ hồ khi biết một ai đó rõ đến nỗi bất thình lình cô chợt nhận ra mình hoàn toàn không biết anh ta. Dường như sự quen thuộc đến nhàm chán đã che mờ đi vẻ quyến rũ của mái tóc vàng rực của anh, cả nụ cười làm da anh gợn sóng thành những lớp dấu ngoặc đơn quanh khóe miệng, đôi mắt màu nâu vàng nhạt hầu như lúc nào cũng tràn ngập ánh nắng. Cô ngạc nhiên và hoang mang trưóc vẻ đẹp của anh.
Hôm qua Ashling đã nói câu gì ấy nhỉ? Hâm nóng lại cảm giác say đắm.
Trong đầu cô hiện ra một hình ảnh: cô đang thở hổn hển vì khát khao, háng cô căng lên vì ham muốn, được đặt nằm ngửa ra trên cát… Cát? Không, chờ chút đã, đó không phải Dylan, đó là Jean-Pierre, anh chàng ngưòi Pháp quyến rũ đến rụng rời chân tay, người đã lấy đi đời con gái của cô. Lạy Chúa, cô thở dài, lần đó mới kỳ diệu làm sao. Mười tám tuổi, du lịch bụi dọc khu nghỉ mát Riviera của Pháp, anh là người đàn ông quyến rũ nhất mà cô từng bập mắt vào. Mà cô thì có những tiêu chuẩn rất cao, cô thậm chí còn chưa bao giờ chịu hôn mấy anh chàng mà cô đi chơi cùng khi ở nhà. Nhưng ngay phút đầu tiên nhìn thấy ánh mắt u sầu đến tê tái, cái miệng hờn dỗi đầy quyến rũ và thứ ngôn ngữ cơ thể mang đặc phong cách xứ Gô loa ấy của Jean-Pierre, cô đã quyết định rằng anh chính là người đàn ông sẽ được nhận phần thưởng cao quý, chính là sự trinh trắng của cô.
Quay lại với Dylan, thuở say đắm ban đầu. À đúng rồi. Cô nhớ cảm giác gần như phát khóc khi cô cầu xin anh làm chuyện đó với mình. “Em không thể chịu được nữa, ôi xin hãy cho nó vào luôn đi!” Năm trườn trên băng ghế sau chiếc xe của anh, để mặc cho hai đầu gối mở tách ra… Không, khoan đã, đó cũng không phải là Dylan. Lần đó là Greg, chàng cầu thủ bóng đá người Mỹ có suất học bổng một năm ở Trinity.[ Đây là trường Trinity thuộc Đại học Tổng hợp Dublin của Ireland, không phải trường Trinity thuộc Đại học Cambridge ở Anh.].Thật tệ là cô lại gặp anh chỉ đúng ba tháng trước khi anh phải về nước. Đó là một anh chàng cầu thủ đẹp trai, kiêu bạc, người lực lưỡng đầy cơ bắp, và vì lý do nào đó cô cảm thấy ở anh có một sức quyến rũ không thể nào cưỡng nổi.
Tất nhiên cô cũng đã cảm thấy như vậy với cả Dylan. Cô lục lọi trong quá khứ của mình để tìm kiếm những ký ức cụ thể và rũ bụi lôi ra kỷ niệm sâu đậm nhất. Lần đầu tiên cô nhìn thấy anh. Ánh mắt của họ – đúng theo nghĩa đen – gặp nhau giữa một căn phòng xô bồ và trước khi cô kịp tìm hiểu điều đầu tiên về anh, cô đã biết tất cả những gì cô cần biết.
Nhiều hơn Clodagh năm tuổi, anh khiến cho tất cả những chàng trai khác trông giống những cậu nhóc mặt đầy tàn nhang, vắt mũi chưa sạch. Từ anh toát lên một vẻ tự tin lịch lãm và đĩnh đạc khiến anh trở nên cực kỳ hấp dẫn. Anh mỉm cười, anh bỏ bùa mê, bản thân sự có mặt của anh cũng đủ khiến cho ngưòi ta cảm thấy ấm áp, phấn chấn – và yên tâm: cho dù công việc kinh doanh của anh mới chỉ bắt đầu cô đã có niềm tin sắt đá rằng Dylan sẽ luôn làm mọi chuyện đâu vào đấy. Và anh mới ngon lành làm sao!
Khi ấy cô mới hai mươi tuổi, choáng ngợp trước vẻ đẹp của chàng trai tóc vàng và mê muội với vận may của mình. Anh thích hợp với cô đến nỗi hoàn toàn không còn phải nghi ngờ gì về việc anh chính là người cô sẽ lấy làm chồng. Thậm chí khi bố mẹ cô khăng khăng rằng cô vẫn còn quá trẻ để hiểu cả suy nghĩ của chính mình, cô đã không thèm đếm xỉa đến lời khuyên của họ. Dylan là người dành cho cô, cũng như cô là người dành cho Dylan.
“Của con này, Molly!” Anh quay lại với tấm đệm mà cô nàng mới lớn đã tranh nhau đưa nó cho anh. Đến lúc này Clodagh mới để ý là Molly đã đổ được nửa lọ muối vào trong bát đường.
Sau bữa trưa họ lái xe ra bãi biển. Đó là một ngày đầy nắng và lộng gió, vừa đủ ấm để cởi bỏ giày và lội nghịch trong làn sóng. Dylan nhờ một người đàn ông đang dắt chó đi dạo chụp hộ bức ảnh bốn người đang chụm sát vào nhau trên bãi cát sạch sẽ và vắng vẻ, mỉm cười rạng rỡ trong khi gió thổi tung những lọn tóc vàng nhạt phủ lòa xòa trên mặt họ, Clodagh túm chặt lấy một bên váy để giữ nó khỏi dính vào đôi chân ướt của cô.