Bạn đang đọc Suối Nguồn (The Fountainhead): Phần 4 – Chương 03 a
III.
Roark và Wynand đứng trên đỉnh đồi phóng tầm mắt ngắm cả dải đất dốc xuống tạo thành một hình vòng cung dài thoai thoải. Một vài cái cây trụi lá, đứng thành một hàng kéo từ trên đỉnh đồi xuống đến bờ hồ nước; những cành cây tạo thành những khối hình học cắt vào bầu trời. Bầu trời mang một màu xanh lơ pha lẫn xanh lục, trong suốt và mong manh, càng làm cho không gian trở nên lạnh lẽo hơn. Cái lạnh đã tẩy sạch mọi thứ màu sắc của trái đất, để lại vạn vật ở trạng thái không màu. Nó cho thấy rằng những màu sắc kia không tồn tại, cái tồn tại thực sự chính là một màu nâu chết của mặt đất; và chính cái màu nâu đất ấy là nguyên tôsarn sinh ra mọi màu sắc khác trên mặt đất này. Màu nâu ấy không phải là một màu nâu hoàn toàn mà hàm chứa trong nó màu xanh của lá cây rồi sẽ mọc lên, màu tía mệt mỏi của lửa rồi sẽ trào lên, và màu xám của quặng vàng rồi sẽ được khai thác. Trái đất giống như phác thảo của một câu chuyện vĩ đại, giống như khung sắt của một tòa nhà, rồi sẽ được lấp đầy và hoàn thiện; nó đang giữ trong mình tất cả sự tráng lệ của tương lai dưới một vẻ đơn giản trần trụi.
“Anh nghĩ nên xây ngôi nhà ở chỗ nào?” Wynand hỏi.
“Ở ngay đây,” Roark trả lời.
“Tôi đã hy vọng anh sẽ chọn chỗ này.”
Wynand đã tự lái xe từ thành phố đến đây, và họ đã đi bộ khoảng hai tiếng xuyên qua các đường mòn trên khu đất mới của ông, xuyên qua những lối đi nhỏ bị bỏ hoang, xuyên qua một cánh rừng, qua một cái hồ và tới ngọn đồi này. Bây giờ, Wynand đang đợi trong khi Roark đứng ngắm nhìn cả một vùng thôn quê trải rộng dưới chân anh. Wynand tự hỏi không biết người đàn ông này đang thu vào tay mình những đường nối nào từ các điểm khác nhau của phong cảnh này.
Khi Roark quay lại phía ông, Wynand hỏi:
“Bây giờ tôi có thể nói chuyện với anh được chưa?”
“Tất nhiên rồi,” – Roark mỉm cười và thích thú bởi sự tôn trọng mà anh đã không yêu cầu.
Giọng Wynand rõ ràng và giòn tan, như màu sắc của bầu trời phía trên họ; giọng nói ấy cũng tỏa ra một ánh sáng xanh như của đá băng:
“Tại sao anh nhận việc này?”
“Bởi vì tôi là một kiến trúc sư làm thuê.”
“Anh hiểu ý tôi mà.”
“Tôi không chắc là tôi hiểu.”
“Anh không căm ghét tôi đến tận xương tủy à?”
“Không. Tại sao tôi lại phải căm ghét ông?”
“Anh muốn tôi nói về nó trước?”
“Về cái gì?”
“Đền Stoddard.”
Roark mỉm cười.
“Vậy là ông có kiểm tra các thông tin về tôi từ hôm qua.”
“Tôi đã đọc các bài báo cũ của chúng tôi.” Ông ngừng lại chờ đợi, nhưng Roark không nói gì cả. “Đọc tất cả.” Giọng ông khàn đi, nửa thách thức, nửa như thanh minh. “Tất cả những gì chúng tôi nói về anh.” Sự bình thản trên khuôn mặt Roark làm ông nổi cáu. Ông tiếp tục nói một cách chậm chạp và nhấn mạnh từng từ: “Chúng tôi đã gọi anh là một thằng ngốc bất tài, một kẻ tập tọng, một gã lang băm, một gã lừa đảo, một thằng khùng…”
“Đừng tự tra tấn mình nữa.”
Wynand nhắm mắt lại như thể Roark vừa đánh ông. Một lát sau, ông nói:
“Anh Roark, anh không biết nhiều về tôi. Nhưng anh nên biết điều này: tôi không xin lỗi. Tôi không bao giờ xin lỗi vì bất kỳ hành động nào của tôi.”
“Điều gì làm ông nghĩ đến chuyện xin lỗi? Tôi đâu có yêu cầu điều đó.”
“Tôi ủng hộ tất cả những từ vừa rồi. Tôi ủng hộ mọi từ ngữ được in trên tờ Ngọn cờ.”
“Tôi không đòi hỏi ông chối bỏ tờ báo.”
“Tôi biết anh nghĩ gì. Ngày hôm qua, anh biết là tôi không hề biết gì về vụ Đền Stoddard. Tôi đã quên mất tên kiến trúc sư của công trình đó. Anh đã kết luận rằng tôi không phải là người đứng đầu chiến dịch chống lại anh. Anh đúng, không phải là tôi, lúc ấy tôi đi vắng. Nhưng anh không hiểu rằng chiến dịch này theo đúng tinh thần chủ đạo và hợp lý của tờ Ngọn cờ. Nó tuân thủ đúng chức năng của tờ Ngọn cờ. Không có ai chịu trách nhiệm về nó ngoài tôi. Nếu tôi có mặt trong thành phố vào lúc đó, tôi cũng sẽ làm như vậy.”
“Đó là đặc quyền của ông.”
“Anh không tin là tôi cũng sẽ làm như vậy à?”
“Không.”
“Tôi chưa yêu cầu anh ca tụng và tôi chưa yêu cầu anh thương hại tôi.”
“Tôi không thể làm điều ông đang yêu cầu.”
“Anh nghĩ là tôi đang yêu cầu anh điều gì?”
“Tát vào mặt ông.”
“Tại sao anh không làm việc đó?”
“Tôi không thể giả vờ tức giận khi tôi không cảm thấy tức giận,” Roark nói. “Đó không phải là sự thương hại. Nó còn tàn nhẫn hơn bất kỳ việc gì tôi có thể làm. Chỉ có điều tôi không làm điều đó để trở nên tàn nhẫn. Nếu tôi tát vào mặt ông, ông có thể sẽ tha thứ cho tôi về ngôi Đền Stoddard.”
“Anh là người đang tìm kiếm sự tha thứ ư?”
“Không. Ông ước gì tôi tìm kiếm. Ông biết rằng cần có một hành động tha thứ. Ông không biết rõ ai sẽ là người hành động. Ông mong rằng tôi sẽ tha thứ cho ông – hoặc yêu cầu một khoản tiền, hai việc này cũng như nhau cả thôi, và ông tin rằng việc đó sẽ làm cho vụ việc này kết thúc. Nhưng ông thấy đấy, tôi chẳng có gì liên quan đến vụ này nữa cả. Tôi không phải là một trong những người tham gia vào hành động. Bây giờ thì tôi làm gì hay cảm thấy thế nào về chuyện này cũng chẳng có gì là quan trọng. Ông không hề nghĩ đến tôi. Tôi không thể giúp ông. Tôi không phải là người mà bây giờ ông đang lo sợ.”
“Người đó là ai?”
“Bản thân ông.”
“Ai cho anh quyền nói những điều này?”
“Chính ông.”
“Được rồi, nói tiếp đi.”
“Ông muốn nghe phần còn lại à?”
“Nói tiếp đi.”
“Tội nghĩ ông thấy đau khi biết rằng ông đã làm tôi phải đau khổ. Ông ước gì ông đã không làm như vậy. Tuy thế, có một điều còn làm ông sợ hãi hơn. Đó là việc nhận ra rằng tôi không hề đau khổ.”
“Tiếp đi.”
“Việc nhận ra rằng lúc này tôi không hề tốt bụng hay rộng lượng, mà chỉ đơn giản là dửng dưng. Việc này làm cho ông hoảng sợ, bởi vì ông biết rằng những chuyện như Đền Stoddard luôn luôn cần có một sự trả giá… và ông thấy tôi không phải trả giá cho nó. Ông ngạc nhiên khi tôi chấp nhận xây nhà cho ông. Ông nghĩ rằng sự chấp nhận của tôi đòi hỏi sự can đảm ư? Ông cần sự can đảm lớn hơn nhiều khi thuê tôi. Ông thấy đấy, tôi nghĩ về chuyện Đền Stoddard như thế này này. Tôi đã hết nợ với nó rồi. Nhưng ông thì chưa.”
Wynand để những ngón tay ông rơi thỏng xuống, lòng bàn tay mở ra. Vai ông chùng xuống một chút với vẻ thư giãn. Ông nói rất giản đơn:
“Được rồi. Anh nói đúng. Tất cả.”
Rồi ông đứng thẳng lên, nhưng với một dáng vẻ cam chịu im lặng, như thể cơ thể ông cố tình để cho cơ thể mình có thể bị tấn công.
“Tôi mong là anh biết rằng anh đã trừng phạt tôi theo cách của anh,” ông nói.
“Đúng vậy. và ông đã chịu đựng điều đó. Vậy là ông đã hoàn thành điều ông mong muốn. Chúng ta hòa nhé và hãy quên chuyện Đền Stoddard đi, được không?”
“Hoặc là anh rất khôn ngoan hoặc là tôi đã để lộ mình quá nhiều. Dù thế nào đi nữa thì anh cũng đã thắng. Chưa từng có ai làm cho tôi để lộ mình được.”
“Tôi có nên tiếp tục làm điều ông muốn?”
“Anh nghĩ bây giờ tôi mong muốn điều gì?”
“Sự thừa nhận cá nhân từ phía tôi. Đến lượt tôi nói ra, phải không?”
“Anh luôn thành thật một cách đáng sợ đúng không?”
“Tại sao lại không? Tôi không thể thừa nhận với ông rằng ông đã làm tôi phải đau lòng. Nhưng thay vào đó, tôi sẽ thừa nhận rằng ông đã mang lại cho tôi sự sung sướng – như thế cũng được phải không? Vậy là được rồi. Tôi rất vui vì ông thích tôi. Tôi nghĩ ông biết đây là một ngoại lệ đối với tôi, cũng như chấp nhận bị trừng phạt là một ngoại lệ với ông. Thông thường, tôi không quan tâm liệu người ta có thích tôi hay không. Lần này thì tôi có quan tâm. Tôi rất vui mừng.”
Wynand cười to.
“Anh ngây thơ và tự phụ như một ông hoàng vậy. Khi anh ban vinh hạnh cho người khác, thực ra anh chỉ đang tự tôn vinh bản thân anh. Cái quái gì làm cho anh nghĩ rằng tôi thích anh?”
“Nào, ông không muốn tôi giải thích rõ điều đó đâu. Ông vừa mới chỉ trích tôi vì đã làm ông trở nên lộ liễu đấy thôi.”
Wynand ngồi xuống một thân cây đổ. Ông không nói gì nhưng cử chỉ của ông như một lời mời – và một mệnh lệnh. Roark ngồi xuống cạnh ông. Khuôn mặt anh điềm tĩnh nhưng vẫn còn bóng dáng một nụ cười – một nụ cười vui thích và cảnh giác – như thể rằng mỗi từ ngữ mà anh nghe thấy không phải là một sự hé lộ, mà là sự xác nhận.
“Anh đi lên từ bàn tay trắng phải không?” Wynand hỏi. “Anh xuất thân từ một gia đình nghèo.”
“Đúng vậy. Sao ông biết điều đó?”
“Chỉ như một tiền đề tất yếu… thật khó hình dung việc đưa cho anh một cái gì đó: một lời khen, một ý tưởng hay một cơ đồ. Tôi cũng bắt đầu từ đáy. Cha anh làm gì?”
“Luyện thép.”
“Cha tôi là phu khuân vác ở bến tàu. Khi còn nhỏ, anh đã làm đủ loại việc lặt vặt, đúng không?”
“Đủ loại. Chủ yếu trong nghề xây dựng.”
“Tôi thì tồi hơn thế. Tôi làm bất cứ việc gì. Anh thích nhất công việc nào?”
“Bắt đinh tán nung nóng, trên các rầm thép.”
“Tôi thích đánh giày trên phà qua sông Hudson. Đáng ra tôi phải căm ghét cái công việc này, nhưng tôi lại không hề cảm thấy điều đó. Tôi không nhớ gì về những người xung quanh, tôi chỉ nhớ thành phố. Thành phố… luôn ở đó, bên bờ biển, mênh mông và chờ đợi, như thể có một sợi cao su buộc chặt tôi với thành phố đó. Sợi dây này có thể giãn ra và đưa tôi đi xa tới những bờ bến khác, nhưng rồi nó sẽ luôn co lại và tôi sẽ quay về. Nó cho tôi cảm giác rằng tôi sẽ không bao giờ trốn thoát khỏi thành phố này… và thành phố này cũng sẽ không bao giờ trốn thoát khỏi tôi.”
Giọng nói của Wynand làm cho Roark biết rằng ông rất hiếm khi nói về thời thơ ấu của mình. Những từ ngữ ấy rạng ngời và ngập ngừng, chưa hoen ố vì bị sử dụng quá nhiều, giống như những đồng xu chưa qua tay nhiều người.
“Anh đã bao giờ không nhà cửa và chết đói thực sự chưa?” Wynand hỏi.
“Một vài lần.”
“Anh có bận tâm về điều đó không?”
“Không.”
“Tôi cũng không. Tôi bận tâm đến những chuyện khác. Khi còn nhỏ, đã bao giờ anh muốn gào lên khi xung quanh anh toàn những sự vô lý đần độn, anh biết anh có thể làm những gì và có thể làm tốt đến thế nào, nhưng lại không có quyền lực để làm những việc đó? Không có quyền lực để làm nổ tung những cái đầu đất sét xung quanh? Phải tuân lệnh – điều này đã tồi tệ rồi – đằng này phải tuân lệnh những kẻ dốt nát hơn anh! Anh có bao giờ cảm thấy điều đó không?”
“Có.”
“Anh có dồn sự tức giận vào trong, tích trữ nó, và anh quyết định rằng nếu cần, anh có thể để mình nổ tung thành ngàn mảnh nhưng một ngày nào đó, nhất định anh sẽ phải cai trị tất cả mọi người và tất cả mọi thứ xung quanh anh?”
“Không.”
“Không ư? Anh để ình quên đi à?”
“Không. Tôi ghét sự bất tài. Có lẽ đó là cái duy nhất tôi thực sự ghét. Nhưng nó không làm tôi muốn thống trị người khác hay muốn dạy dỗ họ bất kỳ điều gì. Nó làm tôi muốn được làm công việc của tôi theo cách của chính tôi, và để bản thân tôi bị nổ tung thành ngàn mảnh nếu cần.”
“Và anh đã bị nổ tung thành ngàn mảnh?”
“Không. Những thứ đã xảy ra đều không đáng kể.”
“Anh có sợ phải nhìn lại phía sau không? Hay nhìn vào bất cứ chuyện gì?”
“Không.”
“Tôi thì có. Có một đêm. Tôi bị đánh và tôi bò tới một cánh cửa… tôi còn nhớ cái vỉa hè đó… nó ở ngay dưới mũi tôi… tôi vẫn có thể nhìn thấy nó… những đường vân trên đá và các chấm trắng… tôi đã phải tập trung để biết cái vỉa hè đấy đang di chuyển… tôi không thể cảm nhận được liêu tôi đang di chuyển hay đang đứng yên – nhưng tôi có thể biết nhờ cái vỉa hè ấy… tôi phải nhìn thấy các đường vân và chấm trắng đó thay đổi… tôi phải bò tới những họa tiết tiếp theo của vỉa hè hay là cái vết nứt tiếp theo cách đó mười xăng-ti-mét[124]… phải rất lâu… tôi biết có máu dưới bụng tôi…”
Giọng nói của ông không có dấu hiệu của sự tự thán; nó giản dị, khách quan, chỉ hơi có bóng dáng của sự băn khoăn. Roark nói:
“Tôi muốn được giúp ông.”
Wynand mỉm cười một cách từ tốn, không phải với vẻ vui mừng.
“Tôi tin là anh có thể. Tôi thậm chí tin rằng điều đó là thích hợp. Hai ngày trước đây tôi có lẽ sẽ giết bất kỳ kẻ nào dám nghĩ về tôi như một đối tượng cần tới sự giúp đỡ… Dĩ nhiên anh biết, không phải tôi căm ghét cái buổi tối đó trong quá khứ của tôi. Tôi cũng không khiếp sợ khi nhớ về nó. Nó là thứ làm tôi ít khó chịu nhất khi nhắc lại. Những thứ khác thậm chí không thể bàn tới được.”
“Tôi biết. Ý tôi đã nói đến những thứ khác đó.”
“Chúng là cái gì? Anh kể tên chúng ra.”
“Đền Stoddard.”
“Anh muốn giúp đỡ tôi việc đó à?”
“Đúng vậy.”
“Anh là một thằng ngốc chết tiệt. Anh không thấy rằng…”
“Ông không thấy rằng tôi đang làm việc đó rồi sao?”
“Bằng cách nào?”
“Bằng việc xây ngôi nhà này cho ông.”
Roark nhìn thấy những nếp nhăn chéo trên trán Wynand. Đôi mắt của Wynand dường như trắng hơn thường lệ, cứ như thể là màu xanh lơ đã biến mất khỏi tròng mắt, chỉ còn như hai hình bầu dục trắng, tỏa sáng trên gương mặt. Ông nói:
“Và nhận được tờ séc béo bở cho vụ này.”
Ông nhìn thấy nụ cười rộng trên gương mặt Roark, sau khi nó bị nén lại trong khoảnh khắc. Nụ cười ấy đã nói lên rằng sự lăng mạ đột ngột của Wynand là bằng chứng của sự đầu hàng – còn hùng hồn hơn bất cứ bài diễn thuyết nào về sự tự tin. Và việc Roark phải nén cười đã nói rằng anh sẽ không giúp Wynand vượt qua khoảnh khắc đầu hàng đó.
“Ồ, tất nhiên rồi,” Roark nói một cách bình thản.
Wynand đứng dậy và nói. “Đi thôi. Chúng ta đang lãng phí thời gian. Tôi có nhiều việc quan trọng hơn phải làm ở văn phòng.”
Họ không nói gì trên đường về thành phố. Wynand lái xe với tốc độ chín mươi dặm một giờ[125]. Tốc độ cao làm cho cảnh vật hai bên đường nhòe đi, chỉ còn như hai bức tường đặc chạy dọc hai bên cửa sổ. Họ như đang bay dọc một hành lang dài, khép kín và câm lặng.
Ông dừng xe trước cửa tòa nhà Cord và để Roark xuống xe. Ông nói:
“Anh có thể quay lại khu đất đó bất cứ lúc nào, bao nhiêu lần cũng được, anh Roark. Tôi không phải đi cùng anh. Anh có thể lấy các bản điều tra và mọi thông tin anh cần ở văn phòng tôi. Xin đừng gọi điện cho tôi cho đến khi nào cần thiết. Tôi sẽ rất bận rộn. Khi nào anh hoàn thành những bản vẽ đầu tiên, hãy báo cho tôi biết.”