Bạn đang đọc Suối Nguồn (The Fountainhead): Chương 04 part 2
Anh đã gửi cho cô một bức điện vào cái đêm anh tốt nghiệp đại học và đã quên cô kể từ khi đó. Giờ đây anh lại muốn gặp cô – cái ước muốn này trở nên sâu sắc và cấp bách ngay khi tên cô vang lên trong trí nhớ của anh. Anh nhảy lên một cái xe buýt để đi một đoạn dài đến Greenwich Village[2]. Anh trèo lên nóc cái xe không một bóng người[3], ngồi ngay cái ghế phía đầu xe và chửi thề mỗi khi đèn giao thông chuyển sang màu đỏ. Điều này luôn xảy ra khi anh nghĩ đến Catherine và anh lờ mờ băn khoăn không biết mình bị làm sao.
Anh đã gặp cô cách đây một năm ở Boston, nơi cô sống với bà mẹ góa của mình. Ở lần gặp gỡ đầu tiên đó, anh thấy Catherine là người chất phác và tẻ nhạt, cô chẳng có điểm gì đặc biệt ngoại trừ nụ cười đáng yêu – lẽ ra chẳng đủ là lý do để anh muốn gặp lại cô. Thế mà anh đã gọi điện cho cô vào tối hôm sau. Trong vô vàn những cô gái mà anh biết trong quãng đời sinh viên của mình, cô là người duy nhất mà anh chẳng tiến xa hơn ngoài một vài nụ hôn. Anh có thể có bất kỳ cô gái nào mà anh gặp và anh biết điều đó; anh biết rằng anh có thể có Catherine; anh muốn cô; cô yêu anh và chấp nhận điều đó một cách đơn giản, cởi mở, không sợ hãi hay xấu hổ, chẳng đòi hỏi gì ở anh, chẳng mong chờ gì ở anh; nhưng chẳng hiểu tại sao anh chưa từng lợi dụng điều này. Anh đã tự hào về những cô gái mà anh tháp tùng vào thời gian đó, những cô gái đẹp nhất, nổi tiếng nhất, ăn mặc đỏm dáng nhất và anh từng thích thú với sự ghen tỵ của các bạn cùng trường. Anh từng xấu hổ về sự luộm thuộm vô tâm của Catherine cũng như về một thực tế là chẳng có chàng trai nào buồn nhìn đến cô đến lần thứ hai. Nhưng anh chưa bao giờ hạnh phúc như khi anh đưa cô đến các buổi khiêu vũ của hội sinh viên. Anh có nhiều cuộc tình cuồng nhiệt, khi mà anh thề thốt rằng anh không thể sống thiếu cô gái này hay cô gái khác; những lúc như vậy, anh quên bẵng Catherine trong nhiều tuần liền; vậy mà cô không bao giờ nhắc anh. Anh luôn quay trở lại với cô, đột ngột và khó hiểu, như là đêm nay.
Mẹ cô, một giáo viên phổ thông nhỏ nhắn và hiền lành, đã qua đời vào mùa đông năm ngoái. Catherine đã đến sống với ông chú ở New York. Một số thư của Catherine được Keating trả lời lập tức; một số khác phải hàng tháng sau. Cô thì luôn luôn trả lời thư của anh ngay lập tức và không bao giờ viết thư trong những khoảng thời gian mà anh im lặng. Cô chỉ kiên nhẫn chờ đợi. Khi Keating nghĩ về cô, anh từng cảm thấy chẳng có gì có thể thay thế được cô. Sau đó, khi ở New York, mặc dù có thể dễ dàng bắt xe buýt hoặc gọi điện thoại, nhưng anh lại quên cô suốt cả tháng.
Anh chưa bao giờ nghĩ – khi anh đang vội vàng tìm đến cô như bây giờ – rằng đáng lẽ anh nên báo trước về cuộc viếng thăm của mình. Anh chưa từng băn khoăn xem liệu anh có gặp cô ở nhà hay không. Anh luôn quay lại tìm cô kiểu như thế này và cô luôn ở đó. Đêm nay cũng vậy.
Cô mở cửa căn hộ tầng trên cùng của ngôi nhà tồi tàn, giả đá nâu. “Chào anh, Peter,” cô nói như thể cô vừa gặp anh ngày hôm qua.
Cô đứng trước mặt anh, quá nhỏ bé, quá gầy gò trong bộ quần áo của mình. Chiếc váy ngắn màu đen bay lật phật quanh vòng eo thon nhỏ; cổ áo sơ mi kiểu nam giới trễ nải, bị kéo lệch một bên làm lộ ra cái xương ức mỏng; cổ tay áo quá dài che lấp đôi bàn tay mảnh mai. Cô nghiêng đầu nhìn anh; mái tóc màu hạt dẻ lòa xòa đằng sau gáy, nhưng trông nó như thể được cắt ngắn ngang vai, suôn thẳng, nhẹ nhàng và bồng lên như một vầng hào quang bao quanh khuôn mặt cô. Đôi mắt cô màu xám, to và cận thị; miệng cô nở một nụ cười chậm rãi, tinh tế, và sung sướng; đôi môi rạng rỡ.
“Chào em, Katie,” anh nói.
Anh cảm thấy yên ổn. Anh thấy mình chẳng có gì phải sợ hãi – trong căn nhà này hay bất kỳ nơi nào khác bên ngoài kia. Anh đã chuẩn bị để giải thích rằng mình bận rộn đến mức nào ở New York; nhưng dường như mọi sự giải thích giờ đều trở nên không quan trọng.
“Đưa mũ cho em,” cô nói, “anh cẩn thận cái ghế đó nhé, nó không chắc chắn lắm đâu, chúng ta có những cái tốt hơn ở phòng khách, anh vào đi.”
Phòng khách – anh nhận thấy – thật khiêm nhường nhưng không hiểu sao lại sang trọng và có thẩm mỹ một cách đáng kinh ngạc. Anh để ý những quyển sách; những giá sách rẻ tiền cao đến tận trần phòng, đựng đầy những tập sách quý; những tập sách không được sắp xếp cẩn thận, có vẻ là đang được đọc. Anh thấy trên một cái bàn ngăn nắp, tồi tàn, một bản khắc của Rembrandt[4] đã ngả màu vàng, có lẽ là được tìm thấy ở một cửa hàng đồ cũ nào đó bởi đôi mắt của một người am hiểu nghệ thuật – người này chắc chắn là chưa từng có ý định chia tay với bản khắc này mặc dù giá cả của nó hiển nhiên là sẽ đỡ đần cho cuộc sống của người đó rất nhiều. Anh băn khoăn không biết chú cô làm việc trong lĩnh vực nào; nhưng anh chẳng bao giờ hỏi.
Anh đứng lơ đãng nhìn căn phòng. Anh cảm thấy sự hiện diện của cô sau lưng mình và tận hưởng cảm giác yên ổn mà hiếm khi anh có. Sau đó anh quay lại và nắm lấy cánh tay cô rồi hôn cô. Đôi môi cô chạm vào môi anh khẽ khàng và chờ đợi; cô không hề có vẻ sợ sệt hoặc phấn khích; cô quá hạnh phúc để có thể chấp nhận nụ hôn theo bất kỳ cách nào ngoài việc coi nó như một điều hiển nhiên.
“Chúa ơi, anh nhớ em quá!” anh thốt lên và lập tức hiểu rằng anh quả thực đã rất nhớ cô, nhớ hàng ngày kể từ lần cuối cùng anh gặp cô; mà hơn thế, có lẽ anh đã nhớ cô vào chính những lúc mà anh không hề nghĩ đến cô.
“Anh chẳng thay đổi gì nhiều,” cô nói. “Trông anh gầy đi một chút. Như thế hợp hơn đấy. Anh sẽ rất hấp dẫn khi anh 50 tuổi, Peter ạ.”
“Nghe không giống một lời khen nhỉ – nếu mà anh suy diễn.”
“Sao ạ? Ồ, anh cho là em nghĩ bây giờ anh không hấp dẫn phải không? Ồ, không, anh rất hấp dẫn.”
“Em không nên nói thẳng như thế với anh.”
“Tại sao không? Anh biết anh hấp dẫn. Nhưng em đang tưởng tượng trông anh sẽ thế nào khi 50 tuổi. Tóc mai của anh sẽ bạc, và anh sẽ mặc một bộ ple xám – tuần trước em nhìn thấy một bộ như thế trong một cửa hàng và em nghĩ bộ đó sẽ rất hợp – và anh sẽ là một kiến trúc sư vô cùng vĩ đại.”
“Em thực sự nghĩ vậy sao?”
“Vâng.” Cô không tâng bốc anh. Dường như cô không nhận ra rằng những lời như vậy có thể mang hàm ý tâng bốc. Cô chỉ tuyên bố một thực tế chắc chắn đến nỗi không cần phải nhấn mạnh nữa.
Anh chờ đợi những câu hỏi mà anh tin chắc là sẽ đến. Nhưng thay vào đó, họ bất chợt nói chuyện về những ngày bên nhau ở Stanton, và anh cười vang, vòng tay qua đầu gối để ôm cô. Bờ vai gầy của cô dựa hẳn vào vòng tay của anh; đôi mắt cô dịu dàng và mãn nguyện. Anh nói về những bộ đồ bơi cũ của họ, về những vệt chỉ bung ra trên tất của cô, về cửa hàng kem yêu thích của họ ở Stanton, nơi họ đã có nhiều buổi tối mùa hè bên nhau – rồi anh nghĩ một cách mơ hồ rằng chuyện này thật buồn cười; anh có nhiều thứ thích đáng hơn để nói và hỏi cô; chẳng ai lại đi nói chuyện kiểu này khi đã hàng tháng trời không gặp nhau. Nhưng dường như với cô, chuyện này là bình thường; cô dường như chẳng biết đến khoảng thời gian họ xa nhau.
Cuối cùng anh là người hỏi trước:
“Em có nhận được điện của anh không?”
“À, em có. Cảm ơn anh.”
“Thế em không muốn biết là anh sống như thế nào ở thành phố này à?”
“Tất nhiên rồi. Anh sống như thế nào ở thành phố này?”
“Xem này, em không thực sự quan tâm đến chuyện này.”
“Ồ, nhưng em quan tâm mà! Em muốn biết mọi thứ về anh.”
“Thế tại sao em không hỏi?”
“Anh sẽ kể cho em khi anh muốn.”
“Những chuyện này chẳng quan trọng gì với em, đúng không?”
“Cái gì cơ?”
“Chuyện anh làm gì ấy mà.”
“Ồ… có chứ, Peter. À, không, không nhiều lắm.”
“Em thật là dễ thương quá nhỉ!”
“Nhưng mà, anh thấy đấy, thực sự là việc anh làm gì đâu có quan trọng. Chỉ có anh thôi.”
“Anh cái gì cơ?”
“Anh – ở đây. Hay anh – ở trong thành phố. Hay là anh ở nơi nào đó trên thế giới. Em không biết nữa. Chỉ vậy thôi.”
“Em biết không, em thật ngốc nghếch, Katie ạ. Em vụng quá.”
“Em vụng?”
“Ừ, vụng lắm. Em không thể nói với một người đàn ông một cách không ngượng ngùng rằng em thật sự điên lên vì anh ta như vậy.”
“Nhưng đúng vậy mà.”
“Nhưng em không thể nói như vậy được. Đàn ông sẽ không còn để ý đến em đâu.”
“Nhưng em không muốn đàn ông để ý đến em.”
“Em muốn anh để ý đến em, có phải không?”
“Nhưng anh để ý đến em mà, đúng không?”
“Anh để ý,” anh nói và ghì chặt cô trong đôi tay mình. “Quỷ tha ma bắt. Anh còn ngốc hơn cả em.”
“Ồ, thế là mọi chuyện hoàn toàn ổn” cô nói và lùa các ngón tay vào mái tóc anh, “phải không anh?”
“Mọi việc luôn luôn ổn – thế mới buồn cười… Nhưng mà này, anh muốn kể cho em về những chuyện đã xảy ra với anh vì chúng rất quan trọng…”
“Em rất muốn nghe.”
“Em biết đấy, anh đang làm việc cho hãng Francon & Heyer và… Ồ, khỉ thật, có khi em cũng chẳng biết thế nghĩa là thế nào!”
“Có chứ. Em tra trong quyển Ai là Ai trong ngành Kiến trúc. Có vài lời rất tốt về hãng này. Và em đã hỏi chú em. Chú ấy nói họ là những đỉnh cao trong ngành.”
“Đúng thế đấy. Francon – ông ấy là nhà thiết kế vĩ đại nhất ở New York, ở cả nước Mỹ và có thể trên toàn thế giới. Ông ấy đã xây mười bảy tòa nhà chọc trời, tám nhà thờ lớn, sáu nhà ga tàu hỏa và có Chúa mới biết còn có những cái gì khác nữa… Tất nhiên, em biết đấy, ông ấy là một gã ngốc già nua và là một tên lừa đảo trơ tráo, lúc nào cũng thích chõ mũi vào mọi thứ…”
Anh dừng lại, miệng há hốc và nhìn cô chằm chằm. Anh đã không định nói như vậy. Anh chưa từng cho phép bản thân nghĩ như vậy.
Cô đang nhìn anh với ánh mắt trong sáng.
“Vâng?” cô hỏi. “Rồi sao ạ…?”
“À… thì…” – anh lắp bắp và anh biết rằng anh không thể nói lái đi được, không phải với cô – “thì đấy, anh thực sự nghĩ về ông ta như thế. Anh không tôn trọng ông ta một chút nào cả. Nhưng anh lại sung sướng được làm việc cho ông ta. Em thấy không?”
“Em có” cô nói khẽ “Anh đầy tham vọng mà, Peter.”
“Em không khinh bỉ anh vì chuyện đó chứ?”
“Không. Anh muốn như thế mà.”
“Chắc chắn rồi, anh muốn thế. Mà, thực ra thì nó cũng không tệ đến thế đâu. Đấy là một hãng khổng lồ – hãng tốt nhất trong thành phố. Anh đang làm việc tốt và Francon rất hài lòng về anh. Sự nghiệp của anh đang tiến triển thuận lợi. Anh nghĩ là sau này, anh sẽ có thể có bất cứ vị trí nào anh muốn ở đó… Nhưng mà, tối nay, anh đã cướp việc của một người khác; anh ta không hề biết là rồi anh ta sẽ sớm trở nên vô dụng, vì… Ôi Katie! Anh đang nói cái gì thế này?”
“Không sao đâu, anh yêu. Em hiểu mà.”
“Nếu em hiểu, thì em đã chửi anh bằng những lời lẽ mà anh xứng đáng được nhận; và em sẽ ngăn anh lại.”
“Không, Peter à. Em không muốn thay đổi anh. Em yêu anh, Peter.”
“Cầu Chúa phù hộ cho em!”
“Em biết điều đó.”
“Em biết điều đó? Và em nói về điều đó như thế này á? Chỉ như là em nói, ‘Xin chào, thật là một buổi tối đẹp tuyệt’ sao?”
“Ồ, tại sao không? Tại sao lại phải lo lắng về điều đó chứ? Em yêu anh.”
“Phải, đừng lo lắng về chuyện đó! Đừng bao giờ lo lắng về chuyện đó!… Katie… Anh sẽ không bao giờ yêu bất kỳ ai khác nữa đâu…”
“Em cũng biết thế.”
Anh ôm cô chặt hơn, bồn chồn, lo sợ rằng cơ thể nhỏ bé đến không trọng lượng của cô sẽ biến mất. Anh không biết tại sao sự hiện diện của cô lại làm cho anh thú nhận những điều mà anh không thú nhận cả với chính mình. Anh không biết tại sao cái thắng lợi mà anh định mang đến đây để khoe khoang lại hoàn toàn tan biến. Nhưng điều đó chẳng sao cả. Anh có cảm giác kỳ lạ về sự tự do (sự hiện diện của cô luôn xóa bỏ cho anh một áp lực mà anh không thể định nghĩa nổi): anh một mình – anh là chính mình. Giờ đây điều duy nhất có ý nghĩa đối với anh là cảm giác về cái váy sợi bông thô ráp của cô đang cọ cọ vào cổ tay anh.
Sau đó anh hỏi cô về cuộc sống của cô ở New York và cô vui vẻ kể về người chú của cô.
“Chú ấy thật tuyệt vời, Peter à. Chú ấy thật sự tuyệt vời. Chú ấy rất nghèo, nhưng chú ấy đã nhận nuôi em và chú ấy tốt bụng đến nỗi đã nhường phòng đọc sách của chú ấy cho em và giờ thì chú phải làm việc ở đây, trong phòng khách này. Anh phải gặp chú ấy, Peter ạ. Hiện giờ chú ấy đang đi xa, một chuyến giảng bài ở các nơi, nhưng anh phải gặp chú ấy nhé, khi chú ấy quay về.”
“Tất nhiên rồi, anh rất muốn.”
“Anh biết không, em từng muốn đi làm và tự lập nhưng chú ấy không để em làm vậy. ‘Cháu yêu của chú,’ chú ấy nói, ‘không phải ở tuổi mười bảy. Cháu không muốn làm cho chú thấy xấu hổ vì mình đấy chứ? Chú không ủng hộ chuyện trẻ con đi làm’. Thật là một ý nghĩ thú vị, phải không anh? Chú ấy có rất nhiều ý tưởng thú vị – em không hiểu hết chúng, nhưng mọi người nói rằng chú ấy là một người cực giỏi. Chú ấy làm như thể em giúp chú bằng cách để chú trông nom em; em thì nghĩ rằng chú ấy thật tốt khi làm thế.”
“Thế em làm gì suốt cả ngày?”
“Lúc này thì chẳng có gì mấy. Em đọc sách. Về kiến trúc. Chú em có hàng đống sách về kiến trúc. Nhưng khi chú ở đây thì em đánh máy các bài giảng cho chú ấy. Em thực sự không nghĩ rằng chú thích em làm như vậy, chú thích người đánh máy của chú hơn, nhưng em thích làm việc này và chú để em làm. Và chú trả cho em số tiền lương của cô ấy. Em không muốn nhận nhưng chú buộc em phải nhận.”
“Thế chú em làm gì để kiếm sống?”
“Ồ, nhiều việc lắm, em không biết nữa, em không biết hết được. Chú ấy dạy lịch sử nghệ thuật – đấy là một việc; hình như chú là giáo sư.”
“À thế khi nào em sẽ đi học đại học?”
“À,… thật ra thì…, anh biết không, em không nghĩ là chú em sẽ đồng ý chuyện này. Em đã nói với chú rằng em luôn có kế hoạch đi học và em muốn tự lập theo cách của em nhưng hình như chú ấy nghĩ rằng việc đó không phải là dành cho em. Chú chẳng nói gì nhiều, chỉ là: ‘Chúa làm ra con voi để làm việc và con muỗi để bay loăng quăng; người ta không nên làm trái với quy luật tự nhiên; tuy nhiên, nếu cháu muốn thử thì, cháu yêu của chú…’ Nhưng chú ấy không thực sự phản đối, điều đó tùy thuộc vào em, chỉ là…”
“Nào, em đừng để chú ấy ngăn cản em.”
“Ồ, chú ấy không muốn cản em đâu. Chỉ là, em đang nghĩ, em chưa bao giờ đạt kết quả cao khi học trung học và, anh biết đấy, môn toán của em thực sự rất tồi và do đó em băn khoăn… nhưng mà, cũng chẳng cần phải vội, em có rất nhiều thời gian để quyết định chuyện này.”
“Nghe này, Katie, anh không thích như thế đâu. Em luôn có kế hoạch đi học đại học. Nếu ông chú quý hóa của em…”
“Anh không nên nói như vậy. Anh không biết chú ấy. Chú ấy là người đàn ông tuyệt vời nhất đấy. Em chưa từng gặp ai giống như chú ấy. Chú ấy vô cùng tốt bụng, vô cùng thân thiện. Và chú ấy rất hài hước, lúc nào cũng nói đùa, chú ấy rất giỏi chuyện này; những thứ mà anh nghĩ là nghiêm trọng dường như không còn nghiêm trọng khi có chú ấy; trong khi thực ra chú ấy là người rất nghiêm túc. Anh biết đấy, chú dành hàng giờ nói chuyện với em, chú không hề biết mệt mỏi và chú không thấy chán ngán vì sự ngu xuẩn của em, chú kể cho em mọi chuyện về các cuộc đình công và điều kiện sống ở những căn nhà ổ chuột và những người nghèo trong các nhà máy, luôn luôn là về những người khác mà chẳng bao giờ về bản thân chú cả. Một người bạn của chú ấy có nói với em rằng chú ấy có thể là một người rất giàu có nếu chú muốn vì chú rất giỏi, nhưng chú sẽ không làm vậy; chú ấy không quan tâm đến tiền.”
“Chẳng có người nào như vậy.”
“Hãy chờ cho đến khi anh gặp chú ấy. À mà chú ấy cũng muốn gặp anh đấy. Em đã kể về anh cho chú ấy. Chú ấy gọi anh là chàng Romeo thước kẻ[5].
“Thế à, ông ấy nói thế à?”
“Nhưng anh không hiểu rồi. Chú ấy có ý tốt thôi. Chú ấy hay nói kiểu thế về mọi thứ. Chú ấy và anh sẽ có nhiều điểm chung đấy. Có thể chú ấy sẽ giúp được anh. Chú ấy cũng biết đôi chút về kiến trúc. Anh sẽ quý chú Ellsworth.”
“Ai?” Keating hỏi.
“Chú em ấy mà.”
“Em nói lại đi,” Keating hỏi, giọng anh hơi khàn đi – “tên chú em là gì?”
“Ellsworth Toohey. Sao ạ?”
Đôi bàn tay anh rơi thõng xuống. Anh ngồi nhìn cô trân trối.
“Có chuyện gì vậy, Peter?”
Anh nuốt nước bọt. Cô nhìn thấy cổ họng anh giật lên. Rồi anh nói, giọng đanh lại:
“Nghe này, Katie, anh không muốn gặp chú em.”
“Nhưng tại sao?”
“Anh không muốn gặp chú ấy. Không phải là thông qua em… Em biết đấy, Katie, em không biết anh. Anh là loại người chuyên lợi dụng người khác. Anh không muốn lợi dụng em. Không bao giờ. Đừng để anh làm vậy. Không phải với em.”
“Lợi dụng em thế nào? Có chuyện gì vậy? Tại sao?”
“Là thế này: Anh sẽ bán tháo bản thân để được gặp Ellsworth Toohey – thế đấy.” Anh cười cay nghiệt. “Em nói ông ấy biết đôi chút về kiến trúc, phải không? Đồ ngốc! Ông ấy là nhân vật quan trọng nhất trong ngành kiến trúc. Có lẽ giờ thì chưa phải nhưng ông ấy sẽ, chỉ một vài năm nữa – hỏi Francon ấy, con chồn già ấy biết đấy. Ông ấy đang trên đường trở thành Napoleon của tất cả những nhà phê bình kiến trúc, chú Ellsworth của em ấy, đấy rồi em xem. Thứ nhất, không có nhiều người quan tâm đến việc viết về nghề nghiệp của bọn anh, do vậy ông ấy là người thông minh khi đón đầu được thị trường. Em phải xem các sếp trong văn phòng anh ngồi nghiền ngẫm từng dấu phẩy mà ông ấy viết. Em nghĩ ông ấy có thể giúp anh ư? Thực lòng, ông ấy có thể đẻ ra anh và ông ấy sẽ; anh sẽ gặp ông ấy một ngày nào đó khi anh sẵn sàng gặp ông ấy, như là anh đã gặp Francon, nhưng không phải ở đây, không phải là thông qua em. Em hiểu không? Không phải là qua em!”
“Nhưng, Peter, sao lại không?”
“Vì anh không muốn như thế! Vì như thế thật kinh tởm và anh ghét nó, anh ghét tất – cả công việc của anh, cả cái ngành kiến trúc của anh, cả những gì anh đang làm lẫn những gì anh sẽ làm! Anh muốn em tránh xa chuyện này ra. Em là tất cả những gì mà anh thực sự có. Katie, em phải tránh xa ra!”
“Xa cái gì cơ?”
“Anh không biết!”