Bạn đang đọc Suối Nguồn (The Fountainhead): Chương 03 part 1
Peter Keating nhìn ngắm các đường phố ở New York. Anh thấy mọi người ăn mặc vô cùng đẹp đẽ.
Anh dừng lại một chút trước tòa nhà trên Đại lộ Năm, nơi văn phòng của hãng Francon & Heyer và ngày làm việc đầu tiên đang chờ đợi anh. Anh nhìn những con người đang vội vã đi lướt qua mình. Bảnh bao – anh nghĩ – bảnh bao khủng khiếp. Anh ngán ngẩm liếc nhìn bộ quần áo của mình. Anh có rất nhiều thứ phải học ở New York.
Khi không thể trì hoãn thêm được nữa, Keating tiến đến cửa ra vào. Đó là một mái vòm kiểu Doric[1] thu nhỏ, từng xăng-ti-mét của nó được tính toán theo những tỷ lệ chính xác tuyệt đối mà các nhà thiết kế Hy Lạp cổ đại đã đặt ra[2]; giữa những cột đá cẩm thạch hoàn hảo là cái cửa quay lấp lánh những tấm niken, phản chiếu những dòng xe ô-tô vùn vụt ngang qua. Keating đi xuyên qua cái cửa quay, rồi qua hành lang cẩm thạch bóng loáng, đến một cái thang máy mạ vàng và sơn mài đỏ để lên tầng ba mươi. Anh tiến tới một cái cửa gỗ gụ. Anh nhìn thấy tấm biển đồng thau mảnh mai với những con chữ tinh xảo:
FRANCON & HEYER, KIẾN TRÚC SƯ.
Phòng lễ tân của Văn phòng kiến trúc Francon & Heyer trông như một phòng khiêu vũ tân thời và ấm cúng trong một biệt thự kiểu thực dân. Những bức tường trắng bạc được nối với nhau bởi những tấm trụ bổ tường phẳng; các trụ này có xẻ rãnh và uốn thành những hình xoắn ốc; chúng đỡ những trán tường nhỏ được tách thành hai phần, một phần có hình những nửa chiếc bình Hy Lạp ôm sát vào tường. Những hình khắc các ngôi đền Hy Lạp tô điểm thêm cho cả căn phòng – mặc dù những hình khắc này quá nhỏ để người ta có thể nhìn rõ chúng, nhưng chúng vẫn làm nổi bật những cái cột, những trán tường và những phiến đá ốp.
Mặc dù điều này thật phi lý nhưng kể từ lúc bước chân qua cửa, Keating có cảm giác anh đang đứng trên một băng chuyền. Cái băng chuyền ấy đưa anh đến chỗ người tiếp tân đang ngồi bên tổng đài điện thoại, phía sau hàng lan can trắng của một cái bệ vòng cung kiểu Floren. Tiếp đó, nó chuyển anh đến ngưỡng cửa của một phòng vẽ thiết kế lớn. Anh nhìn thấy những cái bàn dài và bằng phẳng, một rừng cần treo xoắn hạ từ trên trần nhà xuống, đầu này của những cái cần treo là những bóng đèn có ánh sáng xanh lá cây; những tập bản vẽ thiết kế khổng lồ, tầng tầng lớp lớp các ngăn kéo màu vàng, giấy tờ, hộp thiếc, gạch mẫu, hồ dán và những quyển lịch của các công ty xây dựng mà hầu hết đều có hình phụ nữ khỏa thân. Người kiến trúc sư trưởng sẵng giọng với Keating trong lúc gần như không thèm nhìn anh. Ông ta có vẻ vừa buồn chán lại vừa hưng phấn. Ông ta vẩy ngón tay cái về hướng phòng thay đồ, hất cằm về phía cửa một tủ để đồ và đứng gõ nhịp bằng gót và ngón chân; trong khi đó, Keating mặc một cái áo đồng phục bờ-lu màu ngọc trai xám lên cơ thể cứng đơ và lúng túng của mình. Francon đã khăng khăng chọn loại đồng phục đó. Cái băng chuyền dừng lại ở một chiếc bàn nằm trong góc phòng thiết kế. Tại đó Keating thấy mình đứng cạnh một bộ các bản vẽ mặt bằng cần được vẽ chi tiết. Cái lưng còm nhom của người vẽ thiết kế chính quay về phía Keating; anh ta rõ ràng là đã quên mất sự tồn tại của Keating.
Keating lập tức chúi mũi vào công việc; ánh mắt anh tập trung còn cổ họng thì cứng lại. Anh không nhìn cái gì khác ngoại trừ ánh sáng màu ngọc trai mờ của tấm giấy vẽ trước mặt mình. Những đường kẻ đều đặn mà anh vẽ làm chính anh ngạc nhiên, vì anh cảm thấy chắc chắn rằng bàn tay mình đang nghuệch ngoạc những nét zích-zắc qua lại trên tờ giấy. Anh cứ đi theo các đường kẻ mà không biết chúng dẫn đến đâu và tại sao. Anh chỉ biết rằng bản phác thảo này là một công trình vĩ đại của ai đó mà anh không bao giờ có thể chất vấn hoặc vươn lên ngang tầm. Keating băn khoăn không biết tại sao anh từng dám nghĩ rằng mình là một kiến trúc sư triển vọng.
Rất lâu sau đó, anh để ý thấy những nếp nhàu trên tấm áo đồng phục xám đang dính chặt vào hai bả vai của người ngồi bàn bên cạnh. Keating nhìn quanh mình, lúc đầu còn thận trọng, rồi sau đó là với cảm giác tò mò, liền đó là sự thích thú, và cuối cùng là sự khinh thường. Khi đạt đến trạng thái cuối cùng này, Peter Keating trở lại chính mình. Anh cảm thấy yêu mến đồng loại. Anh chú ý đến đôi má vàng vọt, cái mũi ngộ nghĩnh, một cái mụn cơm trên chiếc cằm lẹm và cái bụng dán chặt vào cạnh bàn. Anh yêu thích những hình ảnh này. Những gì mà những người thế kia có thể làm, anh cũng có thể làm được và sẽ làm tốt hơn. Anh mỉm cười. Peter Keating cần đồng loại.
Khi nhìn lại bản vẽ, anh thấy những lỗi thiết kế đang hiện rõ mồn một trên mặt bàn. Đây là thiết kế mặt bằng của một biệt thự và anh nhận thấy những hành lang xoắn xuýt đã cắt nát không gian thành các khoảng không vô nghĩa; tất cả dãy phòng dài, hình chữ nhật chắc chắn sẽ phải chịu cảnh thiếu ánh sáng. Lạy Chúa – Keating nghĩ – người ta chắc chắn sẽ đánh trượt mình với những lỗi thế này, ngay kỳ học đầu. Sau những giây phút này, anh tiếp tục công việc của mình một cách trôi chảy, dễ dàng, chuyên nghiệp – và vui vẻ.
Trước giờ ăn trưa, Keating đã làm quen với cả phòng; anh chưa có một người bạn cụ thể nào nhưng những nắm đất vô hình đã được vung ra, sẵn sàng cho tình bạn nảy nở trên đó. Anh đã mỉm cười với những đồng nghiệp xung quanh mình và nháy mắt đồng lõa với họ mà chẳng vì cái gì cụ thể. Anh đã tận dụng mỗi lần đi lấy nước ở bình lạnh để mơn trớn những người mà anh ta đi ngang qua với ánh mắt dịu dàng và vui vẻ. Đôi mắt sáng của anh dường như lần lượt nhấc từng người ra khỏi phòng, ra khỏi vũ trụ, như thể người đó là mẫu vật quan trọng nhất của nhân loại, và như thể người đó là người bạn thân thiết nhất của Keating. Một anh chàng thông minh và một đồng nghiệp tốt – có vẻ như đấy là những gì mà người ta nghĩ về Keating.
Keating chú ý đến một anh chàng cao, tóc vàng ở bàn bên cạnh; anh ta đang vẽ mặt đứng ột tòa nhà văn phòng. Keating nghiêng người dựa vào vai của anh ta với sự tôn trọng thân mật và nhìn các vòng hoa nguyệt quế đắp nổi trên các trụ tường xẻ rãnh, cao tới ba tầng.
“Với một ông già thì vẽ thế cũng khá đấy chứ!” Keating nói với vẻ ngưỡng mộ.
“Ai cơ?” người kia hỏi.
“À, Francon,” Keating trả lời.
“Francon quái gì,” anh ta nói một cách bình thản. “Ông ta thậm chí không thiết kế đến một cái cũi chó từ tám năm này.” Anh ta vẩy ngón tay cái qua vai, hướng vào cái cửa kính đằng sau họ.
“Ông ta làm hết!”
“Cái gì?” Keating hỏi khi quay đầu ra sau.
“Ông ta!” cậu thanh niên nói. “Stengel. Ông ta làm tất cả những thứ này.”
Qua tấm kính, Keating nhìn thấy một đôi vai xương xẩu nhô lên phía trên mép bàn; một cái đầu nhỏ, hình tam giác, đang cúi xuống một cách chăm chú. Anh nhìn thấy hai đốm sáng trống trong những mắt kính hình tròn.
Vào cuối buổi chiều, một sự hiện diện dường như đánh thức tất cả các cửa phòng đóng kín và Keating biết qua những lời thì thầm quanh mình rằng Guy Francon đã đến văn phòng và đã vào phòng làm việc của ông ở tầng trên. Nửa tiếng sau, cánh cửa kính mở ra và Stengel bước ra. Một mớ bìa các tông lớn đong đưa giữa các ngón tay của ông ta.
“Này, cậu kia.” ông ta nói, đôi mắt kính dừng lại ở khuôn mặt của Keating. “Cậu đang vẽ cái này hả?” Ông ta lăn tấm bìa về phía trước. “Mang nó lên cho sếp duyệt đi. Cố mà lắng nghe những gì ông ta nói và cố mà tỏ ra thông minh. Đằng nào thì cả hai điều này đều chẳng quan trọng.”
Ông ta thấp và đôi tay dường như thõng xuống tận mắt cá chân; hai cánh tay đung đưa như những sợi dây trong ống tay áo dài; đôi bàn tay lớn và hiệu quả. Mắt Keating đanh lại, tối sầm lại; trong một phần mười giây, nó tụ lại thành một tia nhìn sắc lẻm vào hai mắt kính trắng. Sau đó Keating mỉm cười và nói một cách nhẹ nhàng: “Vâng, thưa ngài.”
Anh cầm tấm bìa bằng mười đầu ngón tay, đi lên cầu thang bọc vải màu đỏ thẫm để tới văn phòng của Guy Francon. Tấm bìa vẽ phác bằng màu nước một biệt thự bằng đá granit xám với ba lớp cửa sổ mái, năm ban công, bốn đoạn tường hõm, mười hai trụ nhà, một cột cờ và hai con sư tử ở lối vào. Ở góc tấm bìa, được viết tay rõ nét là dòng chữ: “Biệt thự của ông bà James S. Whattles. Francon & Heyer, Kiến trúc sư.” Keating khẽ huýt sáo: James S. Whattles là nhà triệu phú chuyên sản xuất kem cạo râu.
Văn phòng của Guy Francon được đánh xi. Không phải, Keating nghĩ, không phải được đánh xi mà là được đánh véc-ni; cũng không phải, không phải là được đánh véc-ni mà được phủ bằng dung dịch nung chảy từ các tấm gương. Anh nhìn thấy chính bóng của mình được tách rời ra như một đàn bướm, chúng bay theo anh ngang qua phòng, lướt trên các tủ gỗ Chippendale[3], qua những chiếc ghế kiểu thời vua James đệ nhất của Anh[4] rồi qua bệ lò sưởi kiểu vua Louis XV. Anh kịp để ý đến cả một bức tượng La Mã cổ đại thật ở góc phòng, các bức ảnh màu nâu đỏ vẽ đền Parthenon, nhà thờ lớn Rheims[5], cung điện Versailles và tòa nhà Ngân hàng quốc gia Frink với ngọn đuốc vĩnh cửu.
Anh thấy bóng đôi chân mình tiến thẳng lại phía mình từ cạnh của cái bàn lớn bằng gỗ gụ bóng loáng. Guy Francon ngồi phía sau bàn. Khuôn mặt ông vàng vọt còn đôi má thì hõm xuống. Trong một khoảnh khắc, ông nhìn Keating như thể ông chưa từng gặp anh, rồi ông nhớ ra và nở một nụ cười rộng rãi.
“Nào, nào, nào, Kittredge, chàng trai của tôi, đây rồi, vậy là mọi thứ đã an bài và chúng ta đã là một nhà! Rất vui được gặp anh. Ngồi xuống, cậu bé, ngồi xuống; anh có cái gì đây ? Nào, không phải vội, không phải vội. Ngồi xuống đi. Anh thấy ở đây thế nào?”
“Thưa ngài, tôi e là tôi quá vui mừng,” Keating nói với vẻ bất lực chân thành và hơi trẻ con. “Tôi nghĩ là tôi có thể tỏ ra chuyên nghiệp trong công việc đầu tiên của mình, nhưng bắt đầu ở một nơi như thế này thì… tôi đoán là tôi hơi sốc một chút… Tôi sẽ vượt qua được điều này, thưa ngài,” anh hứa hẹn.
“Tất nhiên rồi,” Guy Francon nói. “Chắc là hơi choáng ngợp đối với một chàng trai, hơi một chút thôi. Nhưng đừng lo. Tôi đảm bảo là anh sẽ làm tốt.”
“Tôi sẽ cố hết sức mình, thưa ngài.”
“Tất nhiên là vậy. Xem họ gửi cho tôi cái gì nào?” Francon với tay đến ngăn kéo bàn, nhưng rồi ngón tay ông ta lại dừng lại một cách ẻo lả trên trán. “Thật bực mình với cái bệnh đau đầu này… Không, không, không có gì nghiêm trọng – “ông mỉm cười trước sự quan tâm tức thì của Keating – chỉ là một chút váng vất thôi. Làm việc quá vất vả ấy mà.”
“Liệu tôi có thể lấy cho ngài cái gì không, thưa ngài?”
“Không, không, cảm ơn anh. Không phải lấy cho tôi; giá mà anh có thể lấy đi cho tôi thì tốt.” Ông ta nháy mắt. “Sâm banh. Anh biết đấy; loại sâm banh tối hôm qua của họ không đáng một xu. Tôi chả bao giờ thích sâm banh. Để tôi nói cho anh biết nhé, Kittredge, hiểu biết về rượu rất quan trọng; chẳng hạn khi anh mời một khách hàng ăn tối và anh muốn đảm bảo rằng anh gọi món một cách hợp lý. Tôi sẽ nói cho anh một bí mật nghề nghiệp. Chẳng hạn như món chim cút. Hầu hết mọi người sẽ gọi rượu vang đỏ Burgundy với món này. Anh sẽ làm gì nào? Anh gọi Clos Vougeot 1904. Thấy không? Chỉ thêm có một chi tiết đó thôi. Vừa đúng mốt, lại vừa sáng tạo. Ta phải luôn sáng tạo… Tiện thể, ai cử anh lên đây vậy?”
“Ông Stengel, thưa ngài.”
“Ồ, Stengel.” Cái ngữ điệu mà Francon dùng để gọi Stengel lóe lên trong đầu Keating như một tia chớp: tia chớp ấy mách bảo anh rằng anh phải lưu thông tin này – chúng sẽ có ích về sau. “Ông ta quá vĩ đại để tự mình mang bản vẽ xuống hả? Anh nhớ đấy, ông ta là nhà thiết kế giỏi, nhà thiết kế giỏi nhất ở thành phố New York, nhưng gần đây ông ta bắt đầu trở nên hơi tự phụ rồi đấy. Ông ta nghĩ ông ta là người duy nhất làm việc ở đây, chỉ vì ông ta bôi bôi trát trát quanh bàn vẽ suốt cả ngày. Rồi anh sẽ thấy, chàng trai, khi nào anh kinh doanh lâu hơn, anh sẽ nghiệm ra rằng công việc thực thụ của một văn phòng được thực hiện bên ngoài những bức tường của nó. Ví dụ như tối hôm qua. Bữa tiệc của Hiệp hội Bất động sản Clarion. Hai trăm khách – bữa tối và sâm banh – phải, sâm banh!” Ông chun mũi đầy cảnh vẻ như tự giễu cợt mình. “Chỉ cần vài lời phát biểu không chính thức sau bữa ăn, anh biết đấy, không cần rùm beng, không phải là kiểu quảng cáo bán hàng thô bạo – chỉ là một vài quan điểm khéo chọn về trách nhiệm của người môi giới bất động sản đối với xã hội, về tầm quan trọng của việc lựa chọn các kiến trúc sư có năng lực, được kính trọng và thành đạt. Anh biết đấy chỉ cần một vài câu khẩu hiệu nho nhỏ, dễ nghe, mà người ta có thể nhớ lâu.”
“Vâng, thưa ngài, kiểu như câu ‘Hãy chọn người xây nhà như lựa chọn cô dâu để chung sống trong ngôi nhà đó’.”
“Không tồi. Không tồi chút nào, Kittredge. Tôi có thể ghi lại câu này được không?”
“Tên tôi là Keating, thưa ngài,” Keating nói chắc chắn. “Ngài cứ tùy nghi sử dụng. Tôi rất vui vì ngài thích nó.”
“Keating, tất nhiên rồi! Đúng thế, tất nhiên rồi, Keating,” Francon nói với một nụ cười cầu hòa. “Tội nghiệp tôi, gặp nhiều người quá đấy mà. Anh nói như thế nào nhỉ? Hãy chọn người xây nhà… câu này rất hay.”
Ông để Keating nhắc lại và ghi chép câu nói đó vào một tập giấy bằng một cái bút chì lấy từ hộp để bút trước mặt mình – những cái bút chì mới nhiều màu, được vót nhọn đến mức chuyên nghiệp, sẵn sàng để sử dụng nhưng không hề được sử dụng.
Sau đó ông đẩy tập giấy sang bên, thở hắt ra, rồi vuốt những sóng tóc mượt mà của mình và nói một cách mệt mỏi:
“Được rồi, đằng nào tôi cũng phải xem cái này.”
Keating đưa tấm bìa một cách kính cẩn. Francon ngả người ra phía sau. Ông để tấm bìa cách xa ông cả một cánh tay và nhìn nó. Ông nhắm mắt trái, rồi mắt phải, rồi di chuyển tấm bìa xa thêm một chút nữa. Keating bỗng có cái hy vọng bất thần rằng Francon sẽ lộn ngược bản vẽ. Nhưng Francon chỉ cầm nó và Keating chợt nhận ra rằng ông đã thôi không nhìn bản vẽ từ lâu rồi. Francon đang nghiên cứu nó chính vì lợi ích của anh, lợi ích của Keating. Khi nhận ra điều này, lập tức Keating cảm thấy người anh nhẹ bỗng, nhẹ bỗng như không khí và anh thấy con đường tương lai của mình trở nên rõ ràng và rộng mở.
“Hừm… được,” Francon vừa nói vừa xoa cằm bằng hai đầu ngón tay mềm mại. “Hừm… được…”
Ông ta quay về phía Keating.
“Không tồi,” Francon nói. “Không tồi chút nào… phải… có lẽ là… nó đã có thể đặc biệt hơn, anh biết đấy, nhưng… được, bản vẽ được làm rất tốt… Anh nghĩ sao hả Keating?”
Keating nghĩ đến bốn cửa sổ đối diện với bốn cột đá granit khổng lồ. Nhưng anh nhìn các ngón tay của Francon đang mân mê cái cà-vạt đeo cổ màu hoa cà sẫm và quyết định không đề cập đến điều này. Thay vào đó, anh nói:
“Nếu tôi có thể đưa ra một gợi ý, thì thưa ngài, theo tôi dường như là các hình ô van ở giữa tầng bốn và tầng năm có phần quá khiêm tốn đối với một tòa nhà bề thế như vậy. Có lẽ một dãy họa tiết đắp nổi sẽ phù hợp hơn nhiều.”
“Chính thế. Tôi vừa định nói vậy. Một dãy họa tiết đắp nổi… Nhưng… nhưng nhìn này, nó sẽ thu nhỏ các cửa sổ lại, phải không?”
“Vâng,” Keating nói với vẻ khiêm tốn mà anh ta thường sử dụng khi thảo luận với các bạn tại lớp học, “nhưng các cửa sổ không quan trọng bằng sự bề thế của mặt tiền tòa nhà.”
“Đúng vậy. Sự bề thế. Trên tất thảy, chúng ta phải đem lại cho khách hàng sự bề thế. Hoàn toàn đúng, phải là một dãy họa tiết đắp nổi… Nhưng… nhìn này, tôi đã duyệt các bản vẽ sơ bộ rồi và Stengel đã vẽ bản phác này rất tốt.”
“Ông Stengel sẽ vui lòng thay đổi nó nếu ngài bảo ông ta làm như vậy.”
Francon nhìn vào mắt Keating một lúc. Sau đó, mi mắt của Francon hạ xuống và ông nhặt một sợi xơ vải khỏi ống tay áo của mình.
“Tất nhiên, tất nhiên…” ông yếu ớt phản đối “Nhưng… anh có nghĩ là một dãy họa tiết đắp nổi là thật sự quan trọng không?”
“Tôi nghĩ là,” Keating chậm rãi nói, “sửa đổi những gì ngài thấy cần sửa quan trọng hơn việc phê duyệt bất cứ bản vẽ nào, chỉ vì ông Stengel là người vẽ.”
Vì Francon không nói gì cả, mà chỉ nhìn thẳng vào anh, vì ánh mắt của Francon rất chăm chú còn đôi bàn tay thì thả lỏng, nên Keating biết rằng mình đã hết sức mạo hiểm – và đã thắng; anh thấy sợ hãi vì đã mạo hiểm, nhưng anh chỉ sợ hãi sau khi anh biết mình đã thắng.
Họ lặng lẽ nhìn nhau qua bàn làm việc và cả hai đều biết họ có thể hiểu nhau.
“Chúng ta sẽ làm dãy họa tiết đắp nổi.” Francon nói một cách bình tĩnh và nghiêm trang. “Cứ để cái này ở đây. Bảo Stengel rằng tôi muốn gặp ông ta.”
Keating quay người đi ra. Francon ngăn anh lại. Giọng của Francon vui vẻ và ấm áp:
“Này, Keating, tiện thể, tôi có một gợi ý được không? Chỉ giữa hai chúng ta thôi nhé, và tôi không hề có ý xúc phạm, nhưng một cái cà-vạt màu gụ sẽ hợp hơn với áo đồng phục xám của anh, anh có nghĩ vậy không?”
“Vâng, thưa ngài,” Keating nói một cách thoải mái. “Cảm ơn ngài. Ngài sẽ thấy nó vào ngày mai.”
Anh bước ra ngoài và nhẹ nhàng đóng cửa lại.
Trên đường quay trở về, xuyên qua phòng tiếp tân, Keating nhìn thấy một người đàn ông hào hoa có mái tóc muối tiêu đang hộ tống một quý bà đến cửa ra vào. Người đàn ông không đội mũ và rõ ràng là người của văn phòng; còn người phụ nữ kia mặc một áo choàng không tay bằng lông chồn; bà ta rõ ràng là một khách hàng.
Người đàn ông không hề cúi gập mình xuống đất, ông ta không hề trải thảm, mà ông ta cũng không hề phe phẩy cái quạt nào trên đầu người phụ nữ; ông ta chỉ mở cửa cho bà ta. Vậy mà với Keating, dường như người đàn ông kia đã làm tất cả những động tác ấy.
*
* *
Tòa nhà Ngân hàng Quốc gia Frink nổi lên trên khu hạ Manhattan. Cái bóng dài của nó cũng di chuyển khi mặt trời chuyển dịch trên bầu trời, giống như một chiếc kim đồng hồ khổng lồ đi ngang qua những khu chung cư bụi bặm, từ nhà Aquarium[6] đến cầu Manhattan. Khi mặt trời lặn, ngọn đuốc của Lăng Hadrian lóe lên và tạo thành những đốm sáng màu đỏ rực rỡ trên mặt kính của cửa sổ trong vòng bán kính vài dặm quanh nó và trên các tầng chóp của các tòa nhà đủ cao để phản chiếu nó. Tòa nhà Ngân hàng Quốc gia Frink thể hiện toàn bộ lịch sử của nghệ thuật La Mã cổ đại với những kiểu mẫu được lựa chọn cẩn thận. Trong một thời gian dài, nó được coi là tòa nhà đẹp nhất thành phố vì không có bất kỳ kiến trúc nào khác có thể khoe khoang rằng nó chứa nhiều phong cách kiến trúc hơn Frink. Nó có quá nhiều cột, trán tường, trụ ngạch, tháp ba chân, tượng đấu sĩ, bình và trang trí xoắn ốc; vì thế tòa nhà trông như thể không phải được xây dựng bằng đá cẩm thạch trắng mà được bóp ra từ một tuýp bột nhão. Tuy nhiên, nó đúng là được làm từ đá cẩm thạch trắng. Không ai biết điều này ngoại trừ người đã trả tiền để làm ra nó. Bây giờ nó có màu vằn vện, bẩn thỉu và sần sùi, không phải màu nâu cũng chẳng phải màu xanh lá cây mà là sự kết hợp tồi tệ nhất của hai màu này, màu của sự hư hoại dần dần, màu của khói, của khí thải và axit đang ăn mòn lớp đá tinh tế vốn chỉ phù hợp với không khí trong lành và đồng quê thoáng đãng. Dẫu vậy, tòa nhà Ngân hàng Quốc gia Frink vẫn là một thành công vĩ đại. Nó là một thành công vĩ đại đến nỗi nó là kiến trúc cuối cùng mà Guy Francon từng thiết kế; danh tiếng của nó khiến ông không bao giờ còn phải mó tay vào thiết kế nữa.
Cách Ngân hàng Quốc gia Frink ba dãy phố về phía đông là tòa nhà Dana. Nó thấp hơn một số tầng và chẳng có bất kỳ tiếng tăm nào. Những đường thẳng của nó cứng cỏi, giản đơn; chúng phô bày và nhấn mạnh sự hài hòa của kết cấu thép bên trong, như một cơ thể phô bày sự hoàn hảo của những đốt xương của mình. Nó không có các họa tiết trang trí nào. Nó không thể hiện cái gì ngoại trừ sự chính xác của những góc nhọn, ngoài sự mẫu mực của các mặt phẳng; ngoài những đường sọc dài của các cửa sổ – trông giống như những dòng nước đá chạy dọc từ mái nhà xuống hè phố. Người dân New York hiếm khi nhìn ngắm tòa nhà Dana. Đôi khi, một du khách thôn quê hiếm hoi bất chợt nhìn thấy tòa nhà dưới ánh sáng trăng; anh ta dừng lại và băn khoăn không biết cảnh tượng này đến từ giấc mơ nào. Nhưng những vị khách như vậy vô cùng hiếm hoi. Những người sống trong nhà Dana nói rằng họ sẽ không đánh đổi nó lấy bất cứ một tòa nhà nào trên mặt đất; họ đánh giá cao ánh sáng, không khí, vẻ đẹp lô-gíc trong việc bố trí hành lang và văn phòng của Dana. Nhưng số người thuê tòa nhà Dana không nhiều; không một người nổi tiếng nào muốn công việc kinh doanh của họ bị đặt ở tòa nhà trông “như một nhà kho.”
Tòa nhà Dana Building do Henry Cameron thiết kế.