Bạn đang đọc Suối Nguồn (The Fountainhead): Chương 15 part 2
Peter Keating biết đó sẽ là một chiến thắng, nhưng anh không kỳ vọng nó lại lớn đến thế. Anh đã mơ đến âm thanh của những cây kèn trôm-pét; nhưng anh không trông chờ cả một dàn giao hưởng.
Nó bắt đầu bằng một cú điện thoại đơn giản, thông báo tên của những người đoạt giải. Sau đó mọi cú điện thoại trong văn phòng hòa vào, hò hét, nổ tung dưới ngón tay của người trực tổng đài – lúc đó đã hầu như không thể kiểm soát nổi đường điện thoại nữa; những cú điện thoại từ mọi tờ báo trong thành phố, từ những kiến trúc sư nổi tiếng, những câu hỏi, lời đề nghị được phỏng vấn, lời chúc mừng. Rồi cơn lũ tràn ra từ thang máy, cuốn qua những cánh cửa văn phòng, cơn lũ tin nhắn, điện tín, từ những người Keating biết, những người anh chưa bao giờ nhìn thấy, người thư ký tiếp tân bị rối trí hoàn toàn, không biết nên nhận hay từ chối những người nào, và Keating bắt tay – một dòng chảy vô tận những bàn tay giống như một chiếc bánh xe với những bánh răng ẩm và mềm bập liên tục vào những ngón tay anh. Anh chẳng biết mình đã nói những gì ở cuộc phỏng vấn đầu tiên, lúc đó văn phòng của Francon chật ních người và máy ảnh; Francon đã mở toang cánh cửa tủ đựng rượu của ông ta. Francon tuyên bố với tất cả mọi người rằng tòa nhà Cosmo-Slotnick là do Peter Keating thiết kế một mình; Francon chẳng quan tâm; ông ta đang hết sức hào hứng; hơn nữa, điều đó làm câu chuyện trở nên thú vị.
Và câu chuyện đã trở nên thú vị hơn Francon tưởng. Từ những trang báo, khuôn mặt của Peter Keating nhìn xuống nước Mỹ – khuôn mặt đẹp trai, tráng kiện, mỉm cười thân thiện với đôi mắt thông minh và mái tóc xoăn sậm màu; bức ảnh được đăng kèm những bài báo nói về sự nghèo khổ, cuộc vật lộn chống nghèo, niềm mơ ước và sự lao động không mệt mỏi đã dẫn đến những thành quả; những bài báo cũng nói về đức tin của một người mẹ đã hy sinh mọi thứ cho thành công của con trai; về “nàng Lọ Lem của ngành kiến trúc.”
Hãng Cosmo-Slotnick rất hài lòng; họ không nghĩ rằng những kiến trúc sư đoạt giải cũng có thể là những người trẻ tuổi, đẹp trai và nghèo khó – ừ thì chỉ còn nghèo khó cho đến gần đây. Họ đã phát hiện ra một tài năng trẻ tuổi; Cosmo-Slotnick rất thích những tài năng trẻ tuổi; bản thân ông Slotnick cũng là một tài năng như thế vì ông mới có bốn mươi ba tuổi.
Bản thiết kế “tòa nhà chọc trời đẹp nhất thế giới” của Keating được in trong các báo, với lời bình luận về giải thưởng in phía dưới: “… vì kỹ thuật và sự đơn giản tuyệt vời trong thiết kế… vì tính hiệu quả rõ ràng, không khoan nhượng… vì sự tiết kiệm không gian tài tình… vì sự kết hợp tuyệt vời giữa tính hiện đại và tính truyền thống trong Nghệ thuật… dành cho công ty Francon & Heyer và Peter Keating…”
Keating xuất hiện trong các chương trình thời sự, bắt tay với ông Shupe và ông Slotnick, và dòng phụ đề chương trình cho người xem biết hai người này nghĩ gì về tòa nhà anh thiết kế. Keating xuất hiện trong các chương trình thời sự, bắt tay với cô Dimple Williams, và dòng phụ đề chương trình cho người xem biết anh nghĩ gì về bộ phim hiện tại của cô. Anh xuất hiện trong các buổi chiêu đãi lớn của ngành kiến trúc và của ngành điện ảnh. Anh xuất hiện tại các câu lạc bộ kiến trúc và câu lạc bộ những người hâm mộ. Cosmo-Slotnick ấn hành bức hình Keating và tòa nhà của anh, in trên chất liệu posite và người nào gửi một chiếc phong bì đã dán sẵn tem đề địa chỉ chính mình, kèm theo hai xu; thì công ty sẽ gửi bức hình này cho họ. Suốt một tuần liền, tối nào anh cũng đích thân xuất hiện trên sân khấu của Nhà hát Cosmo, với lần trình diễn đầu tiên chương trình đặc biệt mới nhất của Cosmo-Slotnick; anh cúi chào trước ánh đèn sân khấu, trông thanh mảnh và duyên dáng trong bộ vét đuôi tôm màu đen, và anh dành hai phút để nói về tầm quan trọng của kiến trúc. Anh giữ vị trí giám khảo trong cuộc thi hoa hậu ở thành phố Atlantic trong đó người thắng cuộc sẽ được Cosmo-Slotnick phân thử một vai diễn. Anh được chụp hình cùng với một võ sĩ quyền Anh chuyên nghiệp nổi tiếng – hàng chú thích đề Các nhà vô địch. Một mô hình thu nhỏ tòa nhà của anh được sản xuất và gửi theo các tua diễn, kèm theo ảnh của các phương án thiết kế tốt nhất trong số các phương án cùng dự thi khác, để trưng bày trong phòng giải lao của các rạp chiếu phim thuộc hệ thống rạp Cosmo-Slotnick trên cả nước.
Bà Keating lúc đầu thổn thức, ôm chặt Peter trong tay và nghẹn ngào nói rằng bà không thể tin được điều đó. Bà lắp bắp, trả lời những câu hỏi về “thằng bé Petey”, và bà đứng tạo dáng cho người ta chụp ảnh – một cách bối rối và sốt sắng làm hài lòng mọi người. Rồi bà quen với việc đó. Bà nhún vai bảo Peter, rằng tất nhiên anh đã chiến thắng, chuyện đó chả có gì ngạc nhiên cả, chẳng ai khác có thể thắng được. Rồi bà học được kiểu giọng cụt ngủn, nói tắt đầy kẻ cả khi tiếp chuyện các phóng viên. Bà ra mặt tức giận khi không được chụp chung ảnh cùng Petey. Bà cũng tậu một chiếc áo khoác lông chồn.
Keating để ọi sự cuốn mình đi. Anh cần mọi người và cần sự ồn ào xung quanh mình. Anh chẳng thắc mắc và nghi ngờ gì hết khi anh đứng trên bục diễn giả trước một biển người; không khí nặng, đặc quánh, bão hòa với một thứ dung môi duy nhất – sự ngưỡng mộ; không còn chỗ cho bất kỳ thứ gì khác. Anh vĩ đại; vĩ đại giống như số lượng những người đã bảo anh điều đó. Anh đã đúng; đúng vì có đến từng đó người tin rằng anh đúng. Anh nhìn những khuôn mặt, nhìn những đôi mắt; anh thấy anh được sinh ra trong chúng, anh thấy mình được trao cho quà tặng sự sống. Đó là Peter Keating, nó đó, hình ảnh phản chiếu trong những cái đồng tử đang nhìn chằm chằm kia – những cái đồng tử ấy chỉ phản chiếu mỗi mình anh.
Anh cũng kiếm ra được hai tiếng đồng hồ để đến chỗ Catherine, vào một tối. Anh ôm cô trong vòng tay và cô thì thầm những kế hoạch rực rỡ cho tương lai của họ; anh liếc nhìn cô với một sự thỏa mãn; anh chẳng nghe lời cô nói; anh đang nghĩ đến việc mọi thứ sẽ trông thế nào nếu họ được chụp với nhau như thế này và hình đó sẽ xuất hiện trên bao nhiêu tờ báo.
Anh gặp Dominique một lần. Cô đang chuẩn bị rời thành phố đi nghỉ hè. Dominique có vẻ thất vọng. Cô chúc mừng anh, một cách rất thích hợp; nhưng cô nhìn anh theo cách như cô luôn nhìn, như thể chẳng có gì xảy ra cả. Trong tất cả các sách báo xuất bản trong ngành kiến trúc, duy nhất mục của cô không bao giờ đề cập đến cuộc thi Cosmo-Slotnick hay người đoạt giải của nó.
“Em sắp đi Connecticut” cô bảo anh. “Em sẽ ở chỗ của cha dưới đó trong mùa hè. Cha cho em toàn quyền chỗ đó. Không, Peter, anh không thể đến thăm em. Một lần cũng không. Em đi đến đó để không phải gặp ai khác cả.” Anh thất vọng, nhưng điều đó không làm hỏng cảm giác chiến thắng trong những ngày này của anh. Anh không còn sợ Dominique nữa. Anh cảm thấy chắc chắn rằng anh có thể khiến cô thay đổi thái độ, rằng anh sẽ thấy sự thay đổi đó khi cô trở về vào mùa thu.
Nhưng có một thứ đã làm hỏng chiến thắng của anh; không thường xuyên và không quá ầm ỹ. Anh không bao giờ mệt mỏi khi nghe những gì người ta nói về anh; nhưng anh không thích phải nghe quá nhiều về tòa nhà của anh. Và khi anh buộc phải nghe, anh không ngại nghe những câu bình luận về “sự kết hợp hợp nhuần nhuyễn nét hiện đại với nét truyền thống” trong mặt tiền; nhưng khi họ nói về sơ đồ mặt bằng – và họ nói quá nhiều sơ đồ mặt bằng – khi anh nghe về “kỹ thuật và sự đơn giản tuyệt vời… tính hiệu quả rõ ràng… sự tiết kiệm không gian tài tình…”, khi anh nghe thấy nó và nghĩ về… Anh không nghĩ về nó. Chẳng có lời nào trong não anh. Anh sẽ không cho phép. Chỉ có một cảm giác nặng nề, tối tăm – và một cái tên.
Trong hai tuần sau khi đoạt giải, anh đẩy ý nghĩ này khỏi đầu anh, giống như một thứ không đáng bận tâm, để chôn chặt giống như quá khứ hàn vi và đầy dằn vặt của anh đã được chôn chặt. Cả mùa đông dài anh đã giữ bản phác thảo tòa nhà của anh với những nét bút chì cắt ngang do một bàn tay khác vẽ; vào buổi tối công bố giải thưởng anh đốt hết bản thảo; đó là điều đầu tiên anh làm.
Nhưng ý nghĩ đó vẫn không chịu rời anh. Rồi thình lình anh chợt hiểu rằng nó không phải là một mối đe dọa mơ hồ, mà là một mối nguy hiểm thực tế; và anh không sợ nó nữa. Anh có thể đương đầu với một mối nguy hiểm thực tế, anh có thể loại bỏ nó một cách đơn giản. Anh bật cười nhẹ nhõm, anh gọi điện đến văn phòng của Roark, và hẹn gặp Roark.
Anh tự tin đến chỗ cuộc hẹn. Lần đầu tiên trong đời anh cảm thấy thoát khỏi cảm giác không thoải mái kỳ lạ mà anh chưa bao giờ giải thích được hay thoát được mỗi khi có mặt Roark. Giờ đây anh cảm thấy an toàn. Anh đã hết nợ với Howard Roark.
*
* *
Roark ngồi bên bàn làm việc, chờ đợi. Chiếc điện thoại chỉ reo có một lần, sáng hôm đó, nhưng đấy lại là Peter Keating đề nghị gặp anh. Bây giờ anh đã quên việc Keating sắp đến. Anh đang đợi điện thoại. Anh đã trở nên phụ thuộc vào chiếc điện thoại đó trong mấy tuần nay. Ngân hàng Manhattan có thể gọi bất cứ lúc nào về bản thiết kế của anh.
Tiền thuê văn phòng của anh đã quá hạn từ lâu. Và tiền phòng anh ở cũng thế. Anh chẳng quan tâm đến phòng ở; anh có thể bảo chủ nhà đợi; chủ nhà đã đợi; nếu ông ấy không đợi thì cũng chẳng sao lắm. Nhưng văn phòng lại là chuyện khác. Anh bảo người đại diện bên cho thuê rằng ông ta sẽ phải đợi; anh không xin hoãn trả; anh chỉ nói một cách thẳng thừng, lặng lẽ, rằng anh sẽ hoãn trả, và anh chỉ biết nói như thế. Nhưng sự nhận thức của bản thân anh về việc anh cần sự hảo tâm của người cho thuê, rằng có quá nhiều thứ phụ thuộc vào điều đó đã làm cho nó nghe như là lời cầu xin trong đầu anh. Đó là một sự tra tấn. Được thôi, anh nghĩ, thì tra tấn. Đã sao nào?
Hóa đơn điện thoại đã bị muộn hai tháng. Anh đã nhận được lời cảnh cáo cuối cùng. Điện thoại sẽ bị ngắt trong vài ngày nữa. Anh phải đợi. Rất nhiều thứ có thể xảy ra trong vài ngày.
Câu trả lời của hội đồng quản trị ngân hàng, mà Weidler hứa với anh cách đây đã lâu, đã bị hoãn từ tuần này sang tuần khác. Hội đồng quản trị chẳng thống nhất được quyết định; luôn luôn có những người phản bác mạnh mẽ và những người ủng hộ mạnh mẽ; đã có những buổi họp mặt; Weidler nói với anh rất ít, nhưng anh có thể đoán được nhiều; đã có những ngày im lặng, im lặng trong văn phòng, im lặng trong cả thành phố, im lặng cả trong anh. Anh đợi.
Anh ngồi, gục người trên bàn, mặt kê trên cánh tay, ngón tay anh đặt trên kệ điện thoại. Anh mơ hồ nghĩ rằng mình không nên ngồi như thế; nhưng hôm nay anh cảm thấy rất mệt. Anh nghĩ rằng anh nên bỏ tay khỏi điện thoại; nhưng anh chẳng động đậy tay. Ừ, thì đấy, anh phụ thuộc vào cái điện thoại, anh có thể đập tan nó đi, nhưng anh sẽ vẫn phụ thuộc vào nó; anh và mọi hơi thở trong anh và mọi cái trong người anh. Ngón tay anh đặt trên chiếc kệ mà không động đậy. Điện thoại và thư; anh đã tự dối mình cả về thư nữa; anh đã tự dối khi anh ép mình không được nhảy lên mỗi khi một lá thư hiếm hoi rơi qua khe cửa[1], tự ép mình không chạy ra, nhưng đợi, đứng nhìn chiếc phong bì trắng trên sàn, rồi từ từ đi đến và nhặt nó lên. Khe cửa và điện thoại – chẳng còn gì khác nữa cho anh trên thế giới.
Khi anh nghĩ về điều này, anh ngẩng đầu lên để nhìn vào cửa, vào chân cửa. Chẳng có gì hết. Lúc này đã là chiều muộn, có lẽ đã quá giờ phát thư đợt cuối. Anh nhấc cổ tay lên để xem đồng hồ; anh thấy cổ tay mình chẳng có gì; chiếc đồng hồ đã bị đem cầm. Anh nhìn sang cửa sổ; có một chiếc đồng hồ mà anh có thể nhìn được trên một ngọn tháp xa xa; đã quá bốn rưỡi; hôm nay sẽ chẳng còn đợt phát thư nào nữa.
Anh nhận thấy tay mình đang nhấc điện thoại lên. Ngón tay anh đang bấm số.
“Không, chưa đâu,” giọng Weidler bảo anh qua điện thoại. “Chúng tôi đáng nhẽ đã họp hôm qua, nhưng cuộc họp bị hoãn… Tôi chạy theo họ như con chó ấy… Tôi có thể hứa với anh rằng ngày mai chúng tôi sẽ trả lời một cách dứt khoát. Tôi gần như có thể hứa với anh. Nếu không phải ngày mai thì sẽ phải đợi qua ngày nghỉ cuối tuần, nhưng đến thứ Hai thì tôi hứa chắc chắn… Anh đã kiên nhẫn một cách tuyệt vời với chúng tôi, anh Roark. Chúng tôi đánh giá cao việc này.” Roark bỏ ống nghe. Anh nhắm mắt. Anh nghĩ anh sẽ tự cho phép mình nghỉ ngơi, nghỉ ngơi một cách trống rỗng như thế này trong vài phút, trước khi anh bắt đầu nghĩ về ngày tháng ghi trên tờ cảnh cáo của công ty điện thoại và cách anh có thể xoay sở từ giờ đến thứ Hai.
“Chào Howard.” Peter Keating nói.
Anh mở mắt. Keating đã bước vào và ngồi trước mặt anh, mỉm cười. Keating mặc một chiếc áo khoác nhẹ mùa xuân màu nâu vàng, không cài cúc, những vòng đỉa ngang thắt lưng trông giống như những quai cầm hai bên hông anh, một bông hoa dại cài ở khuyết áo. Keating đứng, hai cân dạng ra, hai nắm tay đặt bên hông, mũ hớt trên đỉnh đầu, trên vầng trán nhợt nhạt những lọn tóc đen xoăn tít và sáng đến nỗi người ta cứ tưởng như sắp thấy những giọt sương mùa xuân lóng lánh trên đó, giống như trên những bông hoa dại.
“Chào Peter,” Roark nói.
Keating thoải mái ngồi xuống, bỏ mũ ra, đặt nó lên giữa bàn, và hai tay vỗ gọn gàng vào hai đầu gối.
“Thế đấy, Howard, nhiều chuyện đang xảy ra, đúng không?”
“Chúc mừng anh”
“Cảm ơn. Có chuyện gì thế Howard? Trông cậu khủng khiếp quá. Mà theo tôi biết thì cậu đâu có phải làm việc quá sức?”
Đây không phải là cách nói chuyện mà Keating đã dự định. Anh đã dự định cuộc phỏng vấn sẽ êm ả và thân mật cơ. Dào, anh quyết định, anh sẽ chuyển sang giọng điệu đó sau. Nhưng trước hết anh phải tỏ ra rằng anh không sợ Roark, rằng anh sẽ không bao giờ sợ nữa.
“Không, tôi không làm việc quá sức.”
“Howard này, sao cậu không bỏ quách nó đi cho rồi?”
Đây tuyệt nhiên không phải là cái anh dự định nói. Miệng anh vẫn còn hơi há ra, vì kinh ngạc.
“Bỏ cái gì cơ?”
“Cái kiểu làm bộ làm tịch ấy. Chà, những lý tưởng – nếu cậu thích gọi thế hơn. Tại sao cậu không hạ cánh xuống mặt đất đi? Tại sao cậu không bắt đầu làm việc giống như mọi người khác đi? Tại sao cậu không thôi làm một thằng ngốc chết tiệt đi?”
Anh tự thấy mình đang lăn xuống dốc, không phanh. Anh không thể dừng được.
“Có chuyện gì, Peter?”
“Cậu nghĩ cậu sẽ sống kiểu gì đây? Cậu phải sống với mọi người, cậu biết đấy. Chỉ có hai cách. Theo họ hoặc chống họ. Nhưng cậu có vẻ chẳng làm gì trong hai cách đó cả.”
“Không. Chẳng cách nào cả.”
“Và mọi người không muốn cậu. Họ không muốn cậu! Cậu không sợ à?”
“Không.”
“Cậu không có việc cả năm nay. Và cậu sẽ không. Ai sẽ cho cậu việc làm cơ chứ? Cậu có thể còn vài trăm đô nữa – và sau đó thì chấm hết”
“Sai rồi, Peter. Tôi còn mười bốn đô, và năm mươi bảy xu.”
“Thế cơ đấy! Và hãy nhìn tôi đây! Tôi chả quan tâm nếu như nói thế là thô bỉ. Đó không phải là vấn đề chính. Tôi không khoe khoang. Tôi chả quan tâm nếu ai nói thế. Nhưng nhìn tôi xem! Có nhớ tôi và cậu đã khởi đầu như thế nào không? Và hãy nhìn chúng ta bây giờ! Và hãy nghĩ rằng điều đó tùy thuộc vào cậu. Cậu chỉ cần bỏ cái ảo tưởng ngu ngốc rằng cậu giỏi hơn mọi người khác đi – và đi làm. Trong một năm, cậu sẽ có một văn phòng đủ khiến cậu đỏ mặt khi nghĩ đến cái thùng rác này. Cậu sẽ có mọi người chạy theo cậu, cậu sẽ có khách hàng, cậu sẽ có bạn bè, cậu sẽ có một đội quân thợ vẽ để sai phái!… Âm ty hỏa ngục! Howard, điều này chả là gì với tôi cả – nó thì có thể có nghĩa gì với tôi cơ chứ? – nhưng lần này tôi không tìm kiếm cái gì ình cả, thậm chí tôi biết cậu sẽ là một đối thủ nguy hiểm của tôi, nhưng tôi phải nói điều này với cậu. Thử nghĩ đi Howard, nghĩ đi! Cậu sẽ giàu có, cậu sẽ nổi tiếng, cậu sẽ được trọng vọng, cậu sẽ được ca ngợi, cậu sẽ được ngưỡng mộ – cậu sẽ là một trong số bọn mình!… Thế nào?… Nói gì đi chứ! Tại sao cậu không nói gì hết?”
Anh thấy mắt Roark không trống rỗng và không khinh bỉ, nhưng tỏ ra chăm chú và băn khoăn. Đối với Roark, điều này tiệm cận một sự đầu hàng, bởi vì anh chưa bỏ đi cái lớp màng sắt trong mắt anh, bởi vì anh cho phép mắt anh được bối rối và tỏ ra tò mò – và gần như bất lực.
“Nghe này, Peter. Tôi tin anh. Tôi biết rằng anh chẳng kiếm được gì khi nói những điều này. Tôi còn biết hơn thế. Tôi biết rằng anh không muốn tôi thành công – thế cũng không sao, tôi chẳng trách gì anh, tôi vẫn luôn biết thế – anh không muốn tôi đạt được những điều anh đang mời mọc tôi. Và tuy vậy anh đang thuyết phục cố gắng đạt được chúng, một cách khá chân thành. Và anh biết rằng nếu tôi nghe lời anh khuyên thì tôi sẽ đạt được chúng. Và đối với tôi, điều này không phải vì anh yêu quý tôi, bởi vì nếu đó là sự yêu quý thì anh đã không tức giận đến thế – và không sợ đến thế… Peter, cái gì làm cho anh phiền lòng đến thế, khi tôi là chính tôi?”
“Tôi không biết…” Keating thì thầm.
Keating hiểu rằng đấy là một lời thú nhận – câu trả lời vừa rồi của anh – và là một sự thú nhận đáng sợ. Anh không biết bản chất của cái anh đã thú nhận và anh cảm thấy chắc chắn rằng Roark cũng không biết nó. Nhưng nó đã bị bóc trần; họ không thể hiểu nó, nhưng họ cảm thấy hình hài của nó. Và nó khiến họ ngồi yên lặng, đối mặt với nhau, trong sự kinh ngạc, trong sự cam chịu.
“Bình tĩnh đi, Peter,” Roark nhẹ nhàng nói, như thể nói với một người bạn “Chúng ta sẽ không bao giờ nói chuyện đó nữa.”
Và đột nhiên Keating nói, giọng anh bám víu một cách nhẹ nhõm vào sự suồng sã trong những âm thanh mới thoát ra:
“Ôi dào, quỷ tha ma bắt, Howard, tôi chỉ nói những chuyện lý luận thông thường ấy mà. Nào bây giờ nếu cậu muốn làm việc như một người bình thường…”
“Anh thôi đi!” Roark cắt ngang.
Keating ngả người ra phía sau, mệt bã. Anh chẳng còn gì để nói. Anh đã quên việc anh đến đây để nói chuyện gì.
“Nào,” Roark nói, “anh muốn nói gì với tôi về cuộc thi nào?”
Keating bật người về trước. Anh tự hỏi cái gì đã làm Roark đoán được điều đó. Và sau đó mọi thứ trở nên dễ dàng hơn, vì một cảm giác oán giận đã xóa nhòa tất cả những thứ khác.
“À, phải rồi!” Keating nói một cách quả quyết, giọng hơi có chút bực bội. “Phải, tôi đã định nói với cậu về chuyện đó. Cảm ơn cậu đã nhắc tôi. Tất nhiên là cậu đoán được điều đó, vì cậu biết tôi không phải là một đứa vô ơn. Tôi thực sự đến đây là để cảm ơn cậu, Howard ạ. Tôi chưa quên là cậu có một phần trong tòa nhà đó, cậu đã cho tôi vài lời khuyên về nó. Tôi chắc chắn sẽ ghi nhận đóng góp một phần của cậu.”
“Điều đó không cần thiết.”
“Ồ, tôi thì chẳng ngại gì, nhưng tôi chắc chắn cậu không muốn tôi nói gì về nó cả. Và tôi chắc chắn cậu cũng không muốn tự nói gì, vì cậu biết đấy, mọi người rất buồn cười, họ hiểu sai mọi thứ một cách rất ngu xuẩn… Nhưng vì tôi đang nhận được một phần tiền giải thưởng nên tôi nghĩ sẽ công bằng nếu cậu cũng được một ít. Tôi rất vui là tiền này đến đúng lúc cậu cần nó đến thế.”
Anh lấy tập séc, xé ra một tờ mà anh đã viết sẵn và đặt nó lên bàn. Tờ séc viết: “Trả theo lệnh của Howard Roark – tổng số tiền năm trăm đô la.”
“Cảm ơn Peter,” Roark nói, cầm tấm séc.
Sau đó anh lật nó lại, cầm chiếc bút bi, viết vào mặt sau: “Trả theo lệnh của Peter Keating,” ký và đưa tờ séc cho Keating.
“Và đây là phần tôi hối lộ cho anh, Peter” anh nói. “Cũng cùng mục đích như của anh. Để anh không nói gì với ai hết.”
Peter ngây ra nhìn Roark chằm chằm.
“Bây giờ tôi chỉ có thể đưa anh chừng đó” – Roark nói. “Hiện tại anh không thể nặn thêm cái gì ở tôi, nhưng sau này, khi tôi có tiền, tôi xin anh đừng tống tiền tôi. Tôi nói thẳng với anh rằng có thể tống tiền tôi. Bởi vì tôi không muốn ai biết rằng tôi có tí dính dáng nào đến cái nhà ấy.”
Anh cười to khi anh thấy cái sự nhận biết chầm chậm hiện lên trên mặt Keating.
“Không?” Roark nói – “Anh không muốn tống tiền tôi về việc đó à?… Về đi, Peter. Anh hoàn toàn an toàn. Tôi sẽ không bao giờ nói một lời về nó. Nó là của anh, tòa nhà và mọi xà cột trong đó và mọi ống nước và mọi bức hình chụp mặt anh trên các báo.”
Keating đứng bật dậy. Anh run lên.
“Trời tru đất diệt mày đi!” anh hét lên. “Trời tru đất diệt mày đi! Mày nghĩ mày là ai? Ai bảo với mày là mày có thể cư xử thế này với người khác? Mày giỏi quá nên cái tòa nhà ấy không xứng với mày? Mày muốn tao phải xấu hổ vì nó chứ gì? Mày là đồ rác rưởi, khốn kiếp, kiêu ngạo! Mày là ai? Mày thậm chí không đủ trí khôn để hiểu rằng mày là một thằng thất bại, một thằng bất tài, ăn xin, một thằng thất bại, thất bại, thất bại! Và mày đứng đó phán xét! Mày, mà lại chống lại cả cái nước này! Mày, mà lại chống lại tất cả mọi người! Tại sao tao lại phải nghe mày cơ? Mày không thể làm tao sợ. Mày không thể đụng đến tao. Cả thế giới đứng về phía tao!… Đừng có nhìn tao chằm chằm như thế! Tao đã luôn luôn căm ghét mày! Mày không biết điều đó, đúng không nào? Tao đã luôn luôn căm ghét mày! Tao sẽ luôn luôn căm ghét mày! Một ngày nào đó tao sẽ bẻ gãy mày, tao thề sẽ thế, nếu đó là điều cuối cùng tao làm!”
“Peter,” Roark nói, “tại sao để lộ nhiều thế?”
Hơi thở của Peter biến thành một tiếng rên bị nghẹt lại. Anh ngồi thụp xuống một chiếc ghế, hai tay nắm lấy hai cạnh ghế.
Sau một lúc, anh ngẩng đầu lên, hỏi một cách vụng về:
“Ôi Chúa ơi, Howard, tôi vừa nói cái gì ấy nhỉ?”
“Anh ổn chưa? Anh có đi được không?”
“Howard, tôi xin lỗi. Tôi xin lỗi, nếu cậu muốn.” Giọng anh thô ráp và ngớ ngẩn, trong đó chẳng thấy sự hối lỗi nào. “Tôi mất bình tĩnh. Tôi đoán là tôi không kiềm chế được. Tôi không hề có ý như thế đâu. Không hiểu sao tôi lại nói thế. Thực sự là tôi không hiểu.”
“Sửa lại cổ áo anh đi kìa. Nó bị tuột cúc rồi đấy.”
“Tôi đoán tôi tức giận về việc cậu đã làm với cái séc ấy. Nhưng tôi nghĩ cậu cũng cảm thấy bị xúc phạm. Tôi xin lỗi. Đôi khi tôi ngu ngốc như vậy. Tôi không có ý định xúc phạm cậu. Chúng ta chỉ cần tiêu hủy cái tờ séc khốn kiếp ấy thôi.”
Anh nhặt tờ séc, châm một que diêm, cẩn thận xem tờ giấy cháy hết cho đến khi anh vứt mẩu đuôi cuối cùng xuống.
“Howard, chúng ta sẽ bỏ qua chuyện này chứ?”
“Anh không nghĩ rằng bây giờ anh nên đi đi à?”
Keating nặng nề đứng dậy, hai tay mò mẫm xung quanh bằng những cử chỉ bất tự giác, và anh lầm bầm:
“Được rồi… được rồi, tạm biệt, Howard. Tôi… tôi sẽ gặp lại cậu sớm… Chỉ vì gần đây có nhiều thứ xảy ra với tôi quá… Chắc tôi cần nghỉ ngơi… Tạm biệt Howard…”
Khi anh bước ra khỏi văn phòng đó và đóng cửa lại sau lưng, Keating cảm thấy một cảm giác nhẹ nhõm lạnh giá. Anh cảm thấy nặng nề và rất mệt mỏi, nhưng chắc chắn về bản thân. Anh đã biết rõ một điều: anh căm hận Roark. Bây giờ không cần phải nghi ngờ, băn khoăn và vật vã khổ sở nữa. Thật là đơn giản. Anh căm hận Roark. Lý do ư? Chẳng cần phải băn khoăn về lý do. Chỉ cần căm hận thôi, căm hận một cách mù quáng, căm hận một cách kiên nhẫn, căm hận mà không tức giận, chỉ căm hận, và không để cái gì xen vào, và không bao giờ được để mình quên.