Đọc truyện Sử Thượng Đệ Nhất Hỗn Loạn – Chương 338: Tuệ căn
Nhóm dịch: Lưu linh hội
Biên: Lão Sầu
Trước lúc thấy Huyền Trang, tôi vẫn nghĩ vị cao tăng Đại Đường dù không đáng ghét như phim của Châu Tinh Trì, nói thay cái đài phát thanh trong “đại thoại tây du”, thì ít nhất cũng giống như mấy vị phu tử đáng ghét ngày xưa hay nói mấy câu vô vị, thường thì những người có học vấn đặc hữu luôn phạm phải mấy cái bệnh đó, hơn nữa họ còn có tín ngưỡng thành kính nên sẽ không bận tâm tới việc người khác có thích thế hay không nữa.
Nhưng hôm nay vừa gặp mặt, Huyền Trang chưa từng nói với tôi một câu đạo lý gì, nhất là lão giải thích chữ “không” đó rất kỳ diệu, xem ra đại sư quả là đại sư, biết nói chuyện với loại như tôi thì không thể nói đạo lý đạo liếc gì, nói thế cũng bằng không….
Lúc này có bảy người đi tới trước mặt tôi, đều chắp tay nói: “Tiểu Cường huynh, sau này mong chiếu cố nhiều hơn.”
Tôi thấy bảy người đều có tay áo rộng, phong thái nhẹ nhàng hoàn toàn khác với phong cách sát phạt của bọn Tần Quỳnh, vội chắp tay trả lễ: “Mấy vị đại ca là thất hiền hả?”
Người cầm đầu cười nho nhã: “Hiền thì không dám nhận, nhưng mà sinh gặp thời loạn thế, chỉ là bảy người vô dụng trốn trong rừng trúc thôi.
Tôi vội xua tay: “Hiện tại trừ Afghanishtan với Iraq, thiên hạ coi như thái bình.”
Người nọ lại nói: “Mặc kệ ra sao, chúng tôi vô tâm chính trị, chỉ cầu có một nơi ca hát gẩy đàn thôi.”
Một nho sinh đứng phía sau đá mắt sang một người bên cạnh châm chọc: “Kê Khang huynh nói sai rồi, cũng không phải ai trong chúng ta cũng vô tâm chính trị đâu.”
Người nọ đỏ mặt, lúng lúng không biết nói gì.
Kê Khang quay lại mỉm cười: “Bá Luân huynh còn so đo gì chứ, bảy người chúng ta có thể gặp mặt cũng coi là hợp duyên, chuyện cũ cho qua đi.”
Huyền Trang cười ha ha nói: “Lời rất hay, Thúc Dạ quả nhiên có tuệ căn.”
Kê Khang cung kính: “Lão sư quá khen, chờ lúc lão sư rảnh rỗi Thúc Dạ mong lão sư giải thích thêm nhiều chỗ không hiểu trong phật pháp.”
Huyền Trang nói: “Người mà hỏi điển cố ta tự nhiên có thể trả lời, nhưng cái gọi là không hiểu, chỉ có thể tự vấn tâm. Tự tâm hiểu ra thì thế gian không có gì nghi nan.”
Kê Khang rùng bình, bỗng cười thoải mái: “Hiểu rồi.”
Huyền Trang giơ tay lên: “Thôi đi đi.”
Kê Khang đáp ứng: “Tốt”, xay đó quay đầu bước đi.
Tôi chứng kiến hai người nói chuyện thấy có gì đó sai sai, vội hỏi: “Đi đâu?”
Kê Khang vừa đi vừa cười to: “Thúc Dạ đã thoát khỏi khổ hải, thứ gọi là đi tức là rời xa hết thảy buồn rầu trên trần thế.”
Tôi gọi với: “Lão không tìm chỗ để tự sát đấy chứ?”
Kê Khang không vui: “Đương nhiên là không, tục nhân như chú sao biết được?”
Tôi gãi đầu: “Thế thì… cũng phải nói rõ là định đi đâu chứ. Dù sao cũng phải có tên phố số nhà chứ?”
Bạn học Kê Khang đang đắm chìm trong việc thoát khỏi bể khổ bị tôi hỏi một câu này liền chết đứng, lẩm bẩm: “Đúng nhể, mình đi đâu?”
Tôi chỉ ra cửa nói: “Dục Tài tạm thời chưa có rừng trúc, nhưng mà ông đi ra ngoài về phía đông ấy, qua cửa nhỏ là có thể thấy một mảnh rừng cây nhỏ, rất yên tĩnh, muốn đánh đàn hay uống rượu thoải mái….” Tôi nhớ rõ trong kho hàng còn có đàn cầm của Du Bá Nha, lúc đi bỏ lại tôi tiếc không có vứt đi.
Kê Khang muốn đi tôi nói theo: “Xách cả sáu vị đại ca này đi, cũng giúp họ vượt qua khổ hải cái.”
Tôi thấy bảy người họ cũng không quá hữu hảo, nhưng vì đều là văn nhân nên dù đánh cãi nhau cũng không có chuyện gì lớn, nghe giọng điệu có vẻ là quan điểm chính trị bất đồng.
Thất hiền đi rồi, tôi nói với Huyền Trang: “Trần sư phụ, chúc mừng ngài lại phổ độ hơn phân nửa số người ở đây.”
Huyền Trang cười nói: “Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, người thông minh tự nhiên nói một hiểu mười.”
Tôi nói: “Đúng nha, giống như tôi thì phải cầm gậy dậy nha.”
Lúc này đa số mọi người đi theo Tú Tú thăm trường học cùng làm quen với cuộc sống. Tôi trò chuyện với Huyền Trang, Bảo Kim đi qua nói: “Tiểu Cường, Vũ ca cùng mấy người triều Tần vẫn khỏe chứ?”
Tôi vội giữ chặt anh ấy giới thiệu với Huyền Trang: “Trần sư phụ, vị này là đồng đạo với ngài này.”
Bảo Kim xấu hổ: “Đã rất nhiều năm bỏ đi rồi, hơn nữa anh làm hòa thượng cũng chỉ là muốn kiếm cơm ăn thôi, kém xa Trần sư phụ.”
Huyền Trang khách khí rót một chén nước, sau đó lấy từ trong túi ra một cái bánh bao khô đét, gõ lên bàn vỡ ra rồi vừa ăn vừa uống nước.
Tôi kinh ngạc: “Ngài ăn cái này sao?”
Bảo Kim nói: “Ai da, anh cũng từng một thời gian dài ăn cái này, bọn tiểu Lục Tử không nấu cơm, hai là nồi bọn họ xài cũng không có sạch, Trần sư phụ không quen dùng.” Việc này tôi tin, thức ăn của Dục Tài nổi tiếng ngon, tay nghề của bọn Tiểu Lục Tử thì không cần nói tới, nhưng tuyệt đối là dùng nguyên liệu ngon nấu ăn, bọn nhỏ mỗi ngày ăn thịt miếng to, uống canh bằng bát lớn — đây cũng là di chứng bọn Lương Sơn để lại.
Cho nên thức ăn làm cho Huyền Trang cũng gặp khó, chúng tôi biết một người quen ăn chay thì khó ăn mặn.
Tôi kéo tay Huyền Trang: “Đi, tôi mời ngài đi Bách Tố viên.”
Huyền Trang trốn tránh: “Thế này được rồi, lúc lấy kinh tôi cũng ăn mấy năm lá cây mà.”
Tôi kéo lão đi xềnh xệch: “Ngài mắng tôi đấy hả.”
Bảo Kim cũng khuyên: “Ngài đi với Tiểu Cường đi, thức ăn chay tại Bách Tố viên rất nổi tiếng — tôi lát nữa còn có tiết dạy, không đi cùng ngài được.”
Huyền Trang bất đắc dĩ đành theo tôi lên xe, thấy mới lạ vừa sờ xe vừa hỏi: “Thứ này gọi là xe sao?” Tôi vừa khởi động vừa nói: “Đúng, ngài lấy kinh mà có thứ này thì nhiều lắm một tháng thôi – nhưng mà ngài đi lấy kinh là muốn trải nghiệm, thứ này ngài không cần hả?” Huyền Trang cười nói: “Ai nói với chú vậy, anh mà có thứ này thì anh vui phát khóc luôn.”
Tôi không nói gì, nói chuyện với lão hòa thượng này lúc nào cũng phải cẩn thận, mấy thứ học trước kia giờ toàn vô dụng không.
Bách Tố Viên là nhà hàng ăn chay nổi tiếng nhất nơi chúng tôi sống, mấy năm trước thì dặt dẹo, sống dở chết dở, nhưng vài năm nay chủ nghĩa ăn chay phát triển lại biến thành một nhà hàng cao cấp, sửa chữa hoa lệ hơn cả khách sạn, nhưng mà giá cũng tăng gấp mấy lần. Trên cơ bản chỉ có người có tiền mới tới ăn, cũng được chỉ định thành nơi chiêu đãi nhân sĩ tôn giáo cùng các đồng hành.
Tôi mang Huyền Trang vào lầu một Bách Tố viên, một phục vụ mặc áo vải trắng mỉm cười đón chúng tôi vào, phục vụ viên đều là cư sĩ bản đại, đôi khi thấy khách mặc áo cà sa vào còn có thể thảo luận một vài câu phật hiệu, phong cách phi thường độc đáo. Nhưng mà thấy bọn tôi chẳng giống tăng cũng đếch phải đạo, cũng chẳng để tâm. Hỏi mới biết nhã gian lầu hai đã hết chỗ, chúng tôi đành ngồi trong đại sảnh tầng một.
Phòng ăn bốn phía đều có treo một tấm bảng viết Kim cương kinh, còn có không ít câu khuyên người hướng thiện dán trên giả sơn hay hoa nhựa. Mùi đàn hương nhàn nhạt bay khắp phòng nhưng không ảnh hưởng tới ý muốn ăn uống. Tôi hỏi Huyền Trang: “Trần sư phụ, nơi này được chứ?”
Huyền Trang gật đầu: “Tốt, tốt, nếu chỉ ăn cơm thôi thì quá lãng phí.”
Thực đơn đưa tới, tôi cầm lên hỏi nhân viên phục vụ: “Chỗ này cá là ngon nhất phải không? Cho một đĩa.” Tôi thấy Huyền Trang trợn tròn mắt vì kinh ngạc, cười nói: “Sư phụ yên tâm, tuyệt đối là món ăn chay, dù là bột ngọt cũng không cho luôn.” Phục vụ viên cũng nói vào: “Đúng đó, cá chỗ chúng tôi chỉ dùng váng sữa cùng mì sợi làm thôi.”
Tôi lại điểm một món canh tứ hỉ còn có cung bảo kê đinh — cũng không có gì phải lo xem thức ăn có không hợp không, dù sao chỉ có đậu phụ, hoa quả khô cùng nấm, tôi trả lại thực đơn cho nhân viên phục vụ. Thấy Huyền Trang vẫn tỏ vẻ ngạc nhiên không hiểu, tôi trấn an: “Ngài cứ yên tâm mà ăn, có thể nói với ngài như thế này, trừ khi lúc nấu ăn có cắt nhầm phải tay, còn lại thì dù ngài có khóc lóc hô muốn ăn thịt cũng không có đâu.”
Huyền Trang nói: “Chú nói thế còn kinh khủng hơn là ăn thịt nữa?”
Chờ lúc đồ ăn mang lên, tôi âm thầm kêu tuyệt, cá làm giống như thật, cầm đũa chọc vào còn thấy xương giả. Đẩy thịt ra còn giống như thật, có da nữa chứ, canh làm cũng thật giống như canh gà thật vậy.
Tôi đưa đôi đũa cho Huyền Trang: “Trần sư phụ, thức ăn làm thế này được chứ?”
Huyền Trang cười khẽ: “Giống, quá giống.”
Tôi không hiểu: “Sao vậy?”
Huyền Trang: “Đã biết là thức ăn chay, nhưng không nên làm thành hình động vật, thế thì đâu phải chỉ giống thôi đúng không?”
Tôi gật đầu: “Nói có đạo lý.” Liền lấy đũa kẹp lấy tách ra, khiến không giống như cũ nữa nói: “Giờ được chưa?”
Huyền Trang cười nói: “Tiểu Cường chú lại giống thật rồi.”
“… thế thì sao?”
“Đã thành hình động vật, chú lại kẹp nát nó, thế chẳng phải quá giống thật sao?”
Sao mà cứ giống thế này thế nọ mãi thế? Tôi không hiểu: “Vậy thì thế này, ngài cứ ăn đi, nếu không thích thì đổi lại ngài làm nó không giống thật.”
Huyền Trang cười ha hả, cầm đũa gắp ăn, xem ra lão đã đói lắm, gắp luôn nửa con cá nhét vào miệng, tôi vội giới thiệu: “Con cá này ngoài hình dáng còn có một điều tuyệt vời, là hương vị giống như cá chép, ngài có cảm thấy thế không?” Tôi lập tức hiểu ra: “À đúng, ngài chưa từng ăn cá nhỉ?”
Huyền Trang lau miệng nói: “Nếm qua rồi.”
“Sao?”
“Tôi chẳng những ăn cá rồi, còn ăn thịt uống máu rồi, dù sao những thứ hòa thượng không nên ăn thì tôi kiểm lại chưa có thứ gì tôi chưa ăn.”
Hòa thượng diệu xịt sao? Tôi cười làm lành: “Không sao, rượu thịt đi qua dạ dày thôi, phật ở trong tâm mà.”
Huyền Trang lắc đầu: “Không phải, lúc anh lấy kinh đi qua nhiều sa mạc hoang vu không người, cỏ đều không có mà ăn, lúc đó ăn nhiều bò sát cùng rắn rết, đương nhiên, trong điều kiện cho phép anh vẫn giữ nghiêm giới luật, lúc không có điều kiện, hết cách thì phải cố mà sống chứ.”
“Đúng đúng, con kiến còn tham sống — ôi chao, lời này từ bộ phật điển nào nhỉ?”
Huyền Trang sờ cằm nói: “Con kiến còn ham sống, ừ, lời này rất có mùi vị yêu thương thế nhân, lại không biết từ chỗ nào ra (chú: ngữ này xuất từ “Tây du ký”), nếu nói anh ham sống, cũng không hẳn, lúc trước anh chỉ muốn đem kinh phật về Đại Đường, chẳng phải Khổng Phu tử từng nói, sáng nghe đạo, chết cũng được, vậy ý tứ là, kinh thư còn chưa tới Đại Đường thì anh còn chưa thể chết được.” Nói xong Huyền Trang cười tự giễu. Tôi kính phục: “Có người còn sống vì ăn cơm, có người ăn cơm vì còn sống.”
Huyền Trang dừng đữa nói: “A, Tiểu Cường rất có tuệ căn nha.”
Tôi cười nói: “He he, lời này không phải tôi nói, dường như là danh ngôn của Socrates”.
Huyền Trang nói: “Ừ, Socrates rất có tuệ căn.”
Tôi nói đùa: “Tôi tìm hắn tới làm đồ đệ ngài nhé?”
Huyền Trang: “Làm đồ đệ hay không chưa biết, nhưng mà trên đường lấy kinh thật có một trí giả cùng đường, thật là chuyện vui.”
Đến lúc đó kiếm một nhóm toàn cổ Hy Lạp: Socrates cầm kim cô bổng hàng yêu trừ ma, Plato hết ăn lại nằm, Aristol gánh đồ, Huyền Trang đại sư cưỡi Sphinx, cùng lắm thì khi lấy kinh bọn họ in sao ra hai bản, dù sao phật học có một phần là triết học mà….