Đọc truyện Sở Thị Xuân Thu – Chương 6Trốn nhà đi chơi
Năm nay đối với Triệu quốc mà nói là một năm đầy rối loạn, Tây Tần bỗng nhiên tụ tập ba mươi vạn đại quân tại Đồng Quan, nhìm chằm chằm vào Bắc Triệu Tây tuyến đại doanh, không khí nồng nặc mùi chiến sự.
Tin này vừa truyền tới kinh thành liền khiến cho vua và dân chúng hoảng hốt không thôi. Quân đội Tây Tần cũng không thể so với giặc Hồ phương Bắc kia được, bọn họ quân lực cường thịnh, chỉ huy quân đội lại là vị Tây Tần tuyệt đại danh tướng Tiết Phương Trọng. Người này, hơn hai mươi năm trước, lúc mới 19 tuổi đã làm Tiên Phong tướng của quân Tần, dẫn binh thế như chẻ tre, dùng binh thần sầu quỷ khốc, đánh thẳng tới kinh đô Bắc Triệu, nếu không phải các lộ đại quân Cần vương từ các nơi tới kịp, diệt trừ hiểm nguy, đẩy lui Tần quân thì chỉ sợ kinh thành đã bị phá rồi.
Triệu vương trầm lặng chắp tay đứng trong mật thất, mặt nhìn lên địa đồ khổng lồ kia.
Theo tháng năm thời gian, Triệu vương cũng già đi rất nhiều, đã thế, triều chính có nhiều sự tình khiến ông ta lắm lúc cảm thấy thật lực bất tòng tâm, lòng trôn đầy nỗi ưu phiền mà không lối thoát. Tuy rằng sáu năm trước ông ta đã điều Quách Hoài về triều, nhưng Quách Hoài hắn cũng chỉ có thể lo liệu được Binh bộ, những chính xự khác thì đều nằm hầu hết trong tay của tướng quốc Phương Lệnh Tín, cho nên triều cương lỏng lẻo, đại thần lừa trên gạt dưới, Triệu vương ông ta cũng không đủ sức lực mà giải quyết tất cả mọi việc.
Càng suy nghĩ, Triệu vương càng nhớ tới Sở Danh Đường, nếu như hồi đó mọi chuyện thuận theo ý mình thì ông ta liền lập tức đề bạt Sở Danh Đường lên chủ trì triều chính, khẳng định trong triều trên dưới cũng sẽ ổn định hẳn lên. Triệu vương quen biết Sở Danh Đường đã lâu, hiểu rõ năng lực của kẻ này, hơn nữa, hắn lúc đó còn chưa có hòa hợp với Sở tộc, cho nên Triệu vương càng ra sức đề bạt, chuẩn bị ngày sau sẽ trọng dụng. Nào ngờ, ông ta vừa hơi có chút manh động, lão cáo già Sở Thiên Phóng liền đánh hơi được ý đồ của ông ta, liền cực lực lôi kéo Sở Danh Đường. Mặc dù mấy năm qua Triệu vương không có tin tức khẳng định gì, nhưng có một loạt các dấu hiệu chứng tỏ Sở Danh Đường đã dựa vào Sở thị bộ tộc. Phu nhân của Sở Thiên Phóng trước đây luôn luôn né tránh Lâm quý phi mà gần đây thì cách vài ngày lại vào cung thăm nàng ta, nghe đám thái giám trong Hầu cung bẩm báo, hai người bọn họ đã xưng hô mẹ con với nhau, ý tứ trong đó thì đến người mù cũng nhìn ra được.
Cũng bởi vậy mà Triệu vương bất tri bất giác không hề nhắc đến lời hứa hẹn năm nào với Lâm quý phi, đã sáu năm rồi mà ông ta vẫn an trí Sở Danh Đường tại Nam tuyến. Dù thế nào đi nữa, Triệu vương cũng chẳng thể từ chối việc này lâu, bởi vì có hai nhà Sở Vương toàn lực ủng hộ, uy vọng của Sở Danh Đường tại triều đình càng ngày càng cao, mà vây cánh của hai nhà Sở Vương đã rất nhiều lần thượng tấu muốn Hoàng thượng điều Sở Danh Đường về triều. Huống hồ, nếu Triệu vương không để Sở Danh Đường hồi triều thì trong lòng ông ta luôn có một bóng ma chập chờn, cũng bởi Sở Danh Đường dù sao cũng nắm giữ quyền lực thật to lớn trong chính quyền ba quận phía Nam, vừa làm Thái thú vừa làm thống lĩnh Nam tuyến đại doanh, nếu hai nhà Sở Vương mà có dị tâm gì thì việc này sẽ là phiền phức cực kỳ lớn.
– Hoàng thượng, Nam tuyến đại doanh Sở Danh Đường có mật chiếu thượng tấu.
Nội cung Liên tổng quản đứng ngoài cửa bẩm báo.
Nơi này là cấm địa của nội cung, ngay cả đại nội Liên tổng quản cũng chưa bao giờ dám đặt chân vào, có việc cũng chỉ có thể đứng ngoài cửa bẩm báo.
Thật đúng là muốn cái gì có cái đó, Triệu vương cười một tiếng rồi nói:
– Quách Hoài, ngươi đi lấy mang lại đây. Để xem Sở Danh Đường có cái gì muốn bẩm báo.
Quách Hoài liền lập tức vâng mệnh, ông ta khoảng chừng hơn 40 tuổi, mặt mày rất anh tuấn, nếu chỉ nhìn bề ngoài thì người ta còn thấy thanh tú hơn Sở Danh Đường nhiều, chỉ duy có các ngón tay thô ngạnh, đầy vết chai sạn, cho thấy chủ nhân của chúng là một đại tướng quân từng xông pha khắp chiến trường khốc liệt.
Quách Hoài mở tấu chương nhìn một lần, nhíu mày nói:
– Khởi bẩm Hoàng thượng, tấu chương của Danh Đường viết, căn cứ theo tin tức mà mật thám tại Nam Tề truyền đến, Nam Tề đã tới tấp điều động quân đội, tụ tập gần mười vạn quân tại bờ song, có dấu hiệu chuẩn bị xâm chiếm Bình Nguyên quận.
Triệu vương cũng nhíu mày, thế nào mà mình vừa nghĩ đến việc Sở Danh Đường trở về kinh thành trì Nam Tề lại muốn tiến công thế? Chẳng lẽ Sở Danh Đường hắn thật muốn làm Nam Diện vương, không muốn trở về triều đình nữa?
– Tin tức có chính xác không?
Quách Hoài suy nghĩ một chút rồi đáp:
– Hẳn là không giả, đại quân của Tây Tần tụ tập đã lâu ngày nhưng đến nay vẫn chưa có động tĩnh gì cả, hẳn là đang chờ đợi cái gì đó. Hơn nữa chúng ta còn có một phần tuyến báo khác, nói rằng trong mười vạn quân Nam Tề đóng ở biên giới Tây Tần thì năm vạn đang chuẩn bị được triệu hồi.
Triệu vương giận dữ quát:
– Hay a, ngay cả Nam Tề cũng dám động thủ động cước với Đại Triệu ta.
Lời bên ngoài tuy mạnh miệng nhưng trong bụng ông ta lại lo sợ không ngớt, bởi vì cứ như vậy thì Triệu quốc sẽ lâm cảnh hai mặt thụ địch, Nam tuyến đại doanh mà bị kiềm chế gắt gao thì cũng không có cách nào phái binh tiếp viện cho Tây tuyến cả.
– Danh Đường còn có chuyện muốn bẩm lên Hoàng thượng.
– Nói đi!
– Danh Đường muốn xin Hoàng thượng điều động cho hắn một chi kỵ binh của Bắc cương đại doanh đến Bình Nguyên quận hiệp trợ.
– Cái gì?
Triệu vương giận tím mặt:
– Sở Danh Đường hắn muốn làm gì, trẫm đã giao toàn bộ Nam tuyến đại doanh cho hắn, còn chưa đủ để đối phó Nam Tề sao? Giờ còn muốn cả kỵ binh của Bắc cương đại doanh nữa ư?
Quách Hoài cẩn thận nói:
– Hoàng thượng bớt giận, thần làm bạn với Danh Đường đã nhiều năm rồi, dám đảm bảo hắn tuyệt không phải là kẻ không có người cũng bắn tên. Huống hồ Nam Tề lần này nếu không chỉ phô trương thanh thế, vạn nhất điều động toàn quân ào sang đánh Đại Triệu ta, chúng ta nếu chỉ dựa vào Nam tuyến đại doanh thì chẳng khác nào trứng chọi đá. Hiện nay nguyên khí của giặc Hồ tại phía Bắc vẫn chưa hồi phục, cho nên áp lực của Bắc cương đại doanh cũng không lớn bằng những nơi kia, nếu đã điều năm vạn quân đi Tây Tuyến viện thủ thì thần nghĩ có điều một vạn quân tới Nam tuyến cũng chẳng có trở ngại gì.
Triệu vương suy nghĩ một chút rồi thở dài nói:
– Việc này tùy ngươi làm đi.
***
Bình Nguyên thành, bên trong phủ Thái thú, Ngô An Nhiên hai tay chắp sau lưng, lớn tiểng chửi rủa:
– Sở Tranh, tiểu tử thối tha nhà ngươi, ra đây cho ta.
Sở Tranh còn không có bước ra thì từ trong phòng, một người thiếu phụ tiến tới mắng:
– Ngươi ở đây hò hò hét hét cái gì a? Không được hù dọa tiểu thiếu gia!
Té ra Ngô An Nhiên trụ lại trong Sở phủ một thời gian dài, Sở lão phu nhân thấy ông ta lẻ loi một mình liền sai nha hoàn Xuân Doanh của mình đến hầu hạ vị Ngô thần y kia. Ngày ngày gặp gỡ, con người đâu phải cây cỏ vô tình, vào một buổi tối trong một tháng trời mưa gió âm u, Ngô An Nhiên phạm vào sai lầm giống y như Trương Đắc Lợi, mơ mơ hồ hồ long phượng hòa mình với Xuân Doanh. Kết quả là, chẳng mấy lâu sau, Ngô An Nhiên thực có điểm hối hận, nha đầu Xuân Doanh trước kia ôn nhu dịu dàng hầu hạ mình cỡ nào mà giờ, ở trong phủ dám chỉ vào mũi mình mắng cũng chỉ có nàng ta là duy nhất mà thôi.
Ngô An Nhiên nhìn Xuân Doanh một cái, cả giận nói:
– Ngươi biết cái rắm, tiểu tử thối kia sai người từ phòng ăn đem bát mì tới, nói là hắn biểu thị lòng hiếu kính đối với ta, ta còn tưởng tiểu tử này bỗng dưng đổi tính, nào ngờ bên trong còn trộn lẫn cả giun vào đó, đến khi ta phát hiện ra được thì đã ăn được phân nửa rồi, có muốn nhổ ra cũng không được.
Từ lúc Ngô An Nhiên thu Sở Tranh làm đệ tử, đối với tên đệ tử duy nhất của một vị tông chủ Huyết Ảnh tông như mình, ông ta hết sức nghiêm khắc, không chỉ có bắt Sở Tranh mỗi buổi sáng sớm đến chỗ mình bái kiến, mà quy củ cũng rất nhiều, ví như thấy sư phụ thì phải hành đại lễ, sư phụ mà rời đi thì phải khom người đưa tiễn, còn đối với việc luyện võ thì càng yêu cầu hà khắc hơn. Quá vài ngày, Sở Tranh không chịu nổi nữa, nếu so về tuổi tác của thế giới kia của hắn cộng với tuổi của tiểu tử này thì hắn chẳng kém Ngô An Nhiên bao nhiêu, huống hồ hắn vẫn luôn để vụ Ngô An Nhiên giả mạo thần y ở trong lòng, hơi có chút coi thường phẩm tính của vị sư phụ này, bởi vậy thường cùng Ngô An Nhiên đối nghịch.
Xuân Doanh đối với việc hai thầy trò này cả ngày đấm đá hò hét nghe đã sớm quen tai rồi, chỉ che miệng cười nói:
– Ngươi đã lớn tuổi như vậy rồi, chấp nhặt với một tiểu hài tử làm gì.
Tiểu hài tử ư? Ngô An Nhiên cố nén giận, tiểu tử Sở Tranh mới chưa tròn mười ba tuổi kia so với đám trẻ đồng lứa còn tinh quái hơn nhiều. Hắn mới bái sư chẳng được bao lâu, khôn khéo đào bới khiến mình chủ quan thuận miệng đem toàn bộ gốc gác nói cho hắn biết, rằng Ngô An Nhiên mình là người của Ma môn, tông chủ đương thời của Huyết Ảnh tông, rồi võ công “Long tượng phục ma công” mà tiểu tử kia luyện có lai lịch thế nào cũng tuôn ra hết.
Ngô An Nhiên bị tiểu tử này bỡn cợt, nếu vào lúc xưa thì ông ta chẳng có chửi bới thô tục như thế này mà một chưởng trừng phạt, cùng lắm là rời khỏi Sở phủ. Nhớ trước đây, Ngô An Nhiên lòng không vướng mắc gì nhiều, một người ăn no, cả nhà không đói, đi thì đi, về thì về, nhưng hiện tại thì không làm thế được nữa rồi, ông ta không chỉ có Xuân Doanh, mà bụng của nàng ta cũng đang mang hài tử huyết nhục của họ Ngô.
Từ một bụi hoa lớn trong đình viện, một thiêu niên đột nhiên ló đầu ra, ngó Ngô An Nhiên phất phất bàn tay:
– Ây, Lê hoa, chỉ bất quá cho vào bát mì của người thêm chút gia vị, có gì mà phải cáu bẳn quát tháo như vậy chứ?
Thiếu niên đó chính là Sở Tranh, mấy năm nay hắn đã chuyên tâm nhập vai một vị thiếu gia công tử con nhà giàu có, cũng chẳng còn nghĩ tới việc của kiếp trước nữa. Sau những biến đổi to lớn đó Sở Tranh cũng trở nên nghịch ngợm dị thường, ngoại trừ lúc chăm chỉ luyện võ ra, thường ở trong phủ lấy việc trêu cợt người làm thú vui, đám hạ nhân trong phủ vừa nghe đến tên của Ngũ công tử đều bị dọa đến kinh hồn bạt vía.
Còn Ngô An Nhiên vừa nghe thấy hai chữ “Lê hoa”, miệng gầm lên một tiếng:
– Đại sưu hồn.
Lời vừa thoát ra khỏi miệng, ngũ chỉ đã chộp hướng Sở Tranh đánh tới.
Ngày đó, khi Ngô An Nhiên dám “ăn” Xuân Doanh, Sở Tranh hắn không tới một ngày một đêm liền nhìn ra việc đó, trắng trợn cười nhạo, nói Ngô An Nhiên là trâu già gặm cỏ non, một nhánh lê hoa( ám chỉ Ngô An Nhiên) đè ép hải đường( ám chỉ là Xuân Doanh), khiến Xuân Doanh mắc cỡ đến ba ngày cũng không dám gặp người. Trâu già gặm cỏ non thì Ngô An Nhiên còn miễn cưỡng bỏ qua được, nhưng mấy cái lê hoa hải đường gì gì này thì ông ta hiểu rõ, vì có lần Sở Tranh buột miệng nói ra ý tứ của câu đó khiến Ngô An Nhiên tức giận khôn cùng, đem Sở Tranh truy sát hơn mười dặm. Những võ công khác của Ma môn thì không dám nói, nhưng khinh công thì tuyệt đối là võ lâm kiệt xuất. Cái này cũng khó trách, Ma môn từ khi khai môn lập phái luôn bị các võ phái được coi là chính đạo rồi nhiều vương triều truy sát đã gần nghìn năm, khinh công mà không giỏi chắc toàn bộ môn phái đã bị tiêu diệt sạch rồi. Sở Tranh dùng tứ tầng “Long tượng phục ma công” mà vận hành Ma môn thân pháp thật khiến Ngô An Nhiên có đuổi cũng không nổi, trong lúc tức giận thầm hối hận hồi đó lại đem cái Phật môn công pháp kia ra dạy cho tiểu tử thối tha này.
Sở Tranh thấy Ngô An Nhiên nhào tới trước người mình, vừa cười vừa nói:
– Sư phụ, đừng có quên lời thề mình thốt ra lúc xưa nha!
Ngô An Nhiên đột nhiên nhớ tới mình từng lấy Ma môn thủy tổ mà thề, rằng chỉ giao thủ với Sở Tranh bằng công lực ngang với hắn. Người trong Ma môn tuy không phải là kẻ tốt đẹp gì, nhưng lấy Ma môn thủy tổ ra thề thì tuyệt đối không có kẻ nào dám vi phạm lời thề ấy.
Ngô An Nhiên vội vàng thu hồi bốn thành công lực, nhưng vì cấp tốc thu về bốn thành công lực nên lực phản chấn mạnh mẽ khiến khí huyết nhộn nhạo. Sở Tranh cũng thừa dịp người bệnh lấy mạng người, tiến lên phía trước một bước, phất tay đánh thẳng một quyền. Quyền chưa tới mà quyền phong đã thổi quần áo của Ngô An Nhiên bay phần phật.
Chiêu thức của Sở Tranh này thoạt nhìn rất đơn giản, có lúc tay phải đấm thẳng một quyền, tay trái lại móc một chưởng, có lúc nghiêng người bổ ra một chưởng thì bất thình lình lại quét ngang một cước. Toàn bộ các chiêu thức này đều do lúc Sở Tranh đang luyện “Long tượng phục ma công” thì vô ý phát hiện ra, mỗi một tầng “Long tượng phục ma công” đều có một trang họa đồ phụ trợ luyện công, miêu tả kỹ càng cách vận hành phương hướng của nội kình. Sở Tranh luyện tới tầng thứ ba của “Long tượng phục ma công” thì đột nhiên phát hiện bộ công pháp này chính là một bộ quyền pháp tẩm ngẩm mà đấm chết voi, một bộ quyền pháp cực kỳ thích ứng với cách sử dụng nội kình, mạnh mẽ như long, trầm ổn như tượng, đòn thế đơn giản nhưng chính xác và cực kỳ uy lực. Dùng tầng thứ nhất của “Long tượng phục ma công” thì chỉ vận hành được thức thứ nhất, nếu dùng thức thứ hai hoặc thức thứ ba thì lại khiến lồng ngực nhức nhối, nội tức hỗn loạn, nhưng nếu dùng tầng thứ ba của “Long tượng phục ma công” vận hành nhị thức, tam thức thì uy lực tăng lên rất lớn, có thể đem tám phần mười công lực phát huy ra mười hai thành uy lực.
Sau khi Sở Tranh phát hiện ra việc này, như là vớ được vàng, lập tức đem “Huyễn Thiên chưởng” mà Ngô An Nhiên vừa dạy vứt qua một bên, toàn lực tập luyện tam thức công pháp, mỗi ngày đều phải luyện mấy nghìn lần, mệt mỏi cũng không ngừng nghỉ, cuối cùng thành quả cũng to lớn, một năm trước đã đột phá tới tầng thứ tư của “Long tượng phục ma công”, tiến cảnh nhanh như vậy thực sự chưa có ai trong cái thế giới này làm được. Ngô An Nhiên mặc dù rất cao hứng khi công lực của đồ đệ tiến cảnh thần tốc như vậy, nhưng đối với việc tiểu tử này chỉ chằm chằm ôn luyện bốn chiêu thức của “Long tượng phục ma công” thì thập phần bất mãn. Võ công của Ma môn từ trước đến nay đều coi trọng những chiêu thức ảo diệu, hung hiểm ác độc, cho nên Ngô An Nhiên rất coi thường những chiêu thức đơn giản này. Bất quá Sở Tranh lại thích dùng những phương pháp đơn giản nhất mà đạt được mục đích trọng yếu. Hai người tranh chấp không ngớt, cuối cùng không còn cách nào khác đành dùng thực tiễn kiểm nghiệm, thế nhưng Sở Tranh lại lôi ra chuyện công lực của Ngô An Nhiên so với hắn còn cao hơn nhiều, cho nên chỉ có thể dùng nội lực ngang bằng để đấu với nhau thì mới công bằng, đây cũng chẳng phải là hắn lươn lẹo lừa dối mà Ngô An Nhiên cũng biết là có lý. Nào ngờ Sở Tranh trong lòng vẫn có bóng ma chập chờn, tịnh không dám tin tưởng nhân phẩm của Ngô An Nhiên, nên đòi ông ta phải lấy danh dự của Ma môn thủy tổ mà thề, điều này khiến Ngô An Nhiên lửa giận công tâm, thuận miệng đáp ứng thề một câu. Cho tới khi động thủ thì ông ta hối hận khôn cùng, mặc dù “Long tượng tứ thức” mà Sở Tranh dùng rất giản đơn, nhưng công thủ cực kỳ trầm ổn, Đại sưu hồn thủ của Ngô An Nhiên múa vờn một hồi mà cũng chẳng làm gì được Sở Tranh.
Lúc này Sở Tranh nhân cơ hội tấn công áp đảo, Ngô An Nhiên do chính bốn thành công lực gấp gáp thu về phản chấn trong kinh mạch, nhất thời khí huyết nhộn nhạo, không có cách nào khác đành phải liên tục lùi về phía sau. Sở Tranh thấy vậy lòng vui mừng khôn cùng, hắn cho tới bây giờ còn chưa có một lần nào uy phong như hôm nay, Long tượng tứ thức càng lúc càng thành thạo xuất ra khiến cho Ngô An Nhiên phiền muộn không gì sánh được.
Càng làm cho ông ta chịu không nổi chính là việc Sở Tranh thỉnh thoảng lải nhải trong miệng:
– Long tượng nhất thức, Tiềm long xuất uyên. Sư phụ, người cảm thấy đồ nhi đặt tên cho chiêu thức này cũng không tệ a… Một quyền đánh ra thật là sảng khoải, đúng như sư phụ từng dạy, học võ cũng cần phải có trí tưởng tượng phong phú… Sư phụ, người thật không biết cái gì gọi là xảo quá hóa vụng…Nào người hãy thủ thật vững xem đồ nhi làm sao dốc hết sức phá mấy cái thập xảo gì đó của người…
Ngô An Nhiên càng đánh càng tức giận không thôi, ông ta xưa nay tâm khí cao ngạo, chưa bao giờ bị sỉ nhục cỡ này, tay phải lập tức đánh một chưởng hư ảo, còn tay trái xuất quyền nện thẳng vào ngực mình, “ọe” một tiếng phun ra một ngụm máu to.
Xuân Doanh ở bên cạnh xem đấu võ thấy vậy hét lên sợ hãi, tay chân Sở Tranh cũng luống cuống cả lên. Ngô An Nhiên phun ra được một ngụm máu, chân khí trong cơ thể liền lưu chuyển tự nhiên trở lại, trong nháy mặt đoạt lại tiên cơ, đánh cho Sở Tranh chật vật, nhưng cũng chỉ được một chốc lát, Sở Tranh sau khi hoàn hồn trở lại thì công thủ lại vững chãi như xưa.
Càng đánh, Ngô An Nhiên càng bi ai phát hiện, bất kể mình có nỗ lực đến thế nào, chỉ dựa vào năm thành nội lực mà đấu với Sở Tranh thì không bao giờ thắng được hắn, nhất thời có chút nản lòng thoái chí, điểm nhẹ đầu ngón chân, phiêu phiêu bay lui về phía sau mấy trượng, ngơ ngác nhìn bầu trời một hồi rồi đột nhiên thở dài một tiếng, xoay người đi vào trong nhà.
Xuân Doanh cuống quít đi vào theo.
Sở Tranh đứng ngây người không biết làm sao cho phải, mơ hồ cảm thấy mình có lẽ hơi quá đáng một chút, hắn suy nghĩ trong giây lát rồi cũng bước theo đi vào trong nhà.
Ngô An Nhiên ngồi ngay ngắn trên ghế, Xuân Doanh thì cẩn thận đứng sau đấm nhẹ nhẹ lên lưng ông ta.
Sở Tranh rụt rè kêu một tiếng:
– Sư phụ.
Ngô An Nhiên hơi mở hai mắt, nhìn hắn một cái rồi lại khép lại.
Sở Tranh gãi gãi đầu:
– Sư phụ, là ta sai rồi. Ta không nên không nghe lời người dạy, càng không nên trộn giun vào bát mỳ của người, lại càng không nên không tôn trọng sư phụ, gọi người là “Lê hoa “…
Vừa nghe đến lời này, khí huyết của Ngô An Nhiên nhất thời lại dâng lên một lần nữa, khiến ông ta thở hổn hển, tay phải run rẩy chỉ vào Sở Tranh, một câu cũng không nói nên lời.
Xuân Doanh cuống cả lên, ôn nhu vỗ vỗ vào lưng Ngô An Nhiên, trong miệng oán giận nói:
– Tiểu thiếu gia à, ngươi đừng nói nữa, thật muốn làm tức chết sư phụ ngươi a.
Sở Danh ngượng ngùng ngậm miệng lại, thấy Ngô An Nhiên như vậy, hắn cũng chẳng biết nói cái gì cho phải.
Ngô An Nhiên thật vất vả mới bình tĩnh trở lại được, nhìn Sở Tranh một chút, lòng chỉ muốn phát tiết cho hả giận. Kỳ thực điều khiến ông ta tức giận nhất không phải vì Sở Tranh trêu cợt ông ta ra sao mà vì một việc khác, cái mà có thể nói do chính ông ta một tay tạo thành.
Năm đó, Ngô An Nhiên cho rằng nội công tâm pháp của Ma môn không thích hợp với Sở Tranh, sợ xảy ra rủi ro gì thì hỏng hết mọi chuyện nên mới đem cuốn “Long tượng phục ma công” cho hắn luyện, không ngờ Sở Tranh tiến cảnh thần tốc, trong vòng năm năm đã đột phá tới tầng thứ tư, thật không khỏi khiến cho Ngô An Nhiên giật mình. Thế nhưng, phiền toái cũng vì thế mà tới, “Long tượng phục ma công” này dù sao cũng là võ công của Phật môn, Sở Tranh khi luyện nó thì dáng vẻ trở nên rất trang nghiêm, Ngô An Nhiên càng nhìn càng không thấy vừa mắt.
Ông ta dù sao cũng là cao thủ thuộc hàng tông sư của Ma môn, không muốn đệ tử duy nhất của mình lại thành một tiểu cao tăng đắc đạo, việc này mà thành sự thực khiến cho các huynh đệ trong Ma môn biết được, chắc chắn mình nếu không bị đánh chết thì cũng bị người ta cười nhạo cho tức mà chết. Càng làm cho ông ta lúc này tức giận chính là việc Sở Tranh từ khi luyện long tượng tứ thức kia, nói thế nào hắn cũng không chịu học “Đại sưu hồn thủ” và “Huyễn thiên chưởng”, đây mới là võ công chính cống của Ma môn a. Nhưng Sở Tranh lại rất bảo thủ, khuyên nhủ thế nào hắn cũng không nghe, trái lại còn xảo biện rằng “Huyễn thiên chưởng” chỉ là thứ bỏ đi, là cái gì xảo quá hóa vụng, Ngô An Nhiên rốt cuộc cũng chẳng rõ trong hai người bọn họ ai là sư phụ ai là đệ tử nữa.
Nếu như không có việc này thì Sở Tranh đúng là một đệ tử lý tưởng mà Ngô An Nhiên thu nhận được, hắn không chỉ có thiên phú dị bẩm mà lại rất chăm chỉ luyện công. Ngô An Nhiên cũng không ngờ một tiểu tử sinh ra trong một gia đình quan lại quyền thế lại có thể cần cù luyện võ như vậy, ngộ tính cũng cao, suy một ra ba. Nghĩ tới đây Ngô An Nhiên không khỏi cười khổ trong lòng, chẳng lẽ chỉ vì có ngộ tính quá mạnh mẽ thì không thèm để sư phụ vào trong mắt nữa sao?
Đột nhiên trong lòng Ngô An Nhiết lại xuất hiện một ý tưởng ác độc, hay là nhân lúc nào thuận tiện đem tiểu tử này tống sang Tây Vực, mấy gã đệ tử cửa Phật này mà thấy Sở Tranh thì chẳng khác thấy Lạt Ma chuyển thế, khẳng định sẽ ép tiểu tử thối này quy y làm hòa thưởng, giam hắn ở trong chùa miếu.
Hòa thượng ư?
Trong đầu Ngô An Nhiên đột nhiên lại liên tưởng tới một việc khác, tỉ mỉ suy nghĩ một chút xem có khả thi hay không, chỉ bất quá tiểu tử thối Sở Tranh này mà… hắc, hắc.
Sở Tranh bị ánh mắt âm hiểm của Ngô An Nhiên nhìn chằm chằm làm cho sợ hãi, vội nói:
– Sư phụ, người làm sao vậy?
Ngô An Nhiên thở dài, nhắm mắt lại rồi nói:
– Tranh Nhi, ngươi sau này không cần phải gọi ta là sư phụ nữa.
Sở Tranh cả kinh nói:
– Sư phụ, người vì sao không muốn đồ đệ nữa, hay là vì đồ đệ làm gì đó đắc tội…
Nói đến đây, hắn chợt nghĩ mình nói vậy không ổn, vì thực ra mình cũng đã đắc tội với sư phụ không phải là ít, nên vội vả sửa lại lời nói:
– Đồ đệ trước đây đúng là từng có nhiều lần bất kính với sư phụ, nhưng thỉnh sư phụ đại nhân không so đo với kẻ tiểu nhân, tha thứ cho đồ đệ được không?
Ngô An Nhiên vẻ mặt có chút bi ai, lắc đầu nói:
– Không phải, là sư phụ xin lỗi ngươi.
Sơ Tranh lúc này như lọt vào trong sương mù:
– Sư phụ, người xin lỗi ta ư?
Ngô An Nhiên nói:
– Đúng vậy, vi sư không chỉ xin lỗi ngươi, mà còn phải xin lỗi Sở gia nữa. Tranh Nhi, ngươi nên biết, môn võ công “Long tượng phục ma công” mà ngươi đang luyện chính là trấn giáo thần công của Phật giáo Tây Vực, võ công này mặc dù tiến cảnh thong thả, nhưng nếu cần cù tu luyện thì rất có lợi sau này, càng qua được tầng nào thì uy lực càng cường đại tầng ấy, nhưng võ công này lại có một nhược điểm.
Sở Tranh có chút hồi hộp, vội hỏi:
– Là cái gì?
– Đối với đệ tử của Phật môn mà nói, điều này cũng chẳng là nhược điểm gì, nhưng đối với ngươi và Sở gia các ngươi thì… Aiz, ngươi phải luyện công tới đại thành, phải bảo trì một thân đồng tử, biết kiềm chế mình, cố thủ tinh quan, nếu bị phá thân (hư thân/phá trinh/phá tân) trước lúc đó thì nội lực sẽ tận phế, võ công sẽ hoàn toàn biến mất. Khi xưa ta đem công phu này truyền cho ngươi thật sự là có chút thiếu cân nhắc a.
– Sư phụ, như vậy chẳng phải nếu cả đời không đạt đại thành thì…
Ngô An Nhiên suy nghĩ một chút, mình không thể khoa trương quá mức, bằng không sẽ lộ tẩy mất, vì vậy liền nói:
– Cũng không nhất thiết, nhưng ngươi phải luyện tới tấng thứ bẩy, đến lúc đó tinh quan đã bền chắc thì không xảy ra cái gì nguy hại, nhưng cũng không được quá miệt mài sắc dục nhiều.
– Tầng thứ bẩy ư?
Sở Tranh nhất thời trở nên ngây dại. Hắn tuy đã luyện tới tầng thứ tư của Long tượng phục ma công, nhưng để đạt tới tầng thứ năm, theo tục truyền đến nay, một vị đại đức cao tăng nếu không khổ luyện hơn hai mươi năm trời thì cũng khó mà luyện thành, mà ngay cả người trời sinh Nhâm Đốc nhị mạch tương thông, nếu muốn luyện tới tầng thứ bẩy cũng phải mất ít nhất ba mươi năm.
– Sư phụ, người sẽ không gạt ta chứ?
– Ngươi nói cái gì đó, sư phụ vì sao lại muốn gạt ngươi chứ? Nếu ngươi không tin thì nói phụ thân ngươi cử người qua Tây Vực mà hỏi.
Nhà ngươi bướng bỉnh, không nghe lời ta, hừ, ta sẽ để cho ngươi bằng tuổi ta mà vẫn chưa thành thân cho ngươi biết tay.
Ngô An Nhiên cười thầm trong lòng, thế lực của Phật môn Tây Vực còn chưa hoàn toàn thâm nhập vào Triệu quốc, huống hồ võ công của họ có chút thần bí, cho dù là vị Cao lão tổng quản trong phủ kia cũng chưa chắc đã biết nhiều ít về họ, hơn nữa người này rất là cổ quái, rõ ràng hắn đã nhìn ra được lai lịch của mình nhưng lại làm ra vẻ không thấy, cũng không đàm luận võ công với Sở Tranh lấy một lần, quả thực khiến Ngô An Nhiên nghĩ mãi không thông.
Về việc phái người đi chứng thực, Ngô An Nhiên lại càng không sợ, có ai dám hỏi đám đại hòa thượng này rằng khi luyện Long tượng phục ma công có thể giao hoan cùng nữ nhân hay không, hắc hắc, không bị bọn họ đánh cho vỡ đầu mới là lạ.
Sở Tranh ra khỏi gian nhà của Ngô An nhiên, tinh thần có chú hoảng hốt, bằng trực giác của mình, hắn cảm nhận được Ngô An Nhiên có thể đang nói dối, nhưng hắn lại không dám thử với nữ nhân một chút, vạn nhất là thật thì thật hết đường về.
Sở Tranh nhìn bàn tay mình một cái, ngầm vận công lực, một cỗ nội kình hùng hậu liền tụ tập tại lòng bàn tay. Hắn cảm khái lắc đầu, hắn cũng không muốn đem võ công mình khổ cực tập luyện thoáng cái phế bỏ toàn bộ, việc luyện võ chính là chuyện duy nhất mà Sở Tranh sau khi tới thế giới này cảm thấy hứng thú, khiến hắn có cảm giác giấc mộng thành cao thủ võ lâm đang nằm trong lòng bàn tay vậy.
Sở Tranh càng nghĩ càng thấy rối loạn trong đầu, bực bội đánh ra một chưởng, phá một gốc cây nhỏ gần đó thành hai nửa.
– Tranh Nhi, con đang làm cái gì vậy?
Vừa nghe thanh âm ôn nhu này vang lên, Sở Tranh giật mình, vội vàng quay người lại thi lễ nói:
– Hài nhi bái kiến mẫu thân.
Người vừa đi tới chính là Sở phu nhân, mẫu thân của Sở Tranh.
Sở phu nhân có thể nói là cố kỵ duy nhất của Sở Tranh ở trong Thái thú phủ này, hắn rất e sợ vị mẫu thân này. Bình thường Sở phu nhân luôn luôn che chở cho hắn, hắn nghịch ngợm gây sự trong phủ, trêu đùa sư phụ, nhiều lúc khiến Sở Danh Đường cũng không nhịn được muốn phát tác, nhưng Sở phu nhân ra tay thì việc lớn lại hóa nhỏ, việc nhỏ hóa vô hình. Nếu Sở phu nhân muốn hắn đọc sách viết văn mà Sở Tranh hắn lười biếng không chịu thì cho dù hắn có trăm ngàn kế, Sở phu nhân luôn có biện pháp bắt hắn cuối cùng phải ngồi vào bàn học. Sau một thời gian ở trong phủ, Sở Tranh dần phát hiện ra, vị mẫu thân bề ngoài thoạt nhìn có vẻ ôn nhu uyển chuyển này thực ra lại đầy tâm cơ thủ đoạn, đám gia nhân hoặc thê thiếp của Sở Danh Đường thấy bà ta như chuột thấy mèo, thở cũng không dám thở. Sở Tranh thầm hỏi, đám thê thiếp này của phụ thân vì sao chẳng bao giờ sinh nổi một đứa con trai con gái nào, trong khi Sở phu nhân thì cứ tằng tằng 4, 5 đứa, hẳn là có khúc mắc sâu xa nằm trong chuyện này.
Sở Tranh lắc lắc đầu, hắn thực không muốn suy đoán tiếp nữa.
Sở phu nhân tuy không có kinh ngạc gì mấy với việc Sở Tranh đột nhiên luyện võ xuất chưởng, bà ta xuất thân từ Tĩnh Bắc Hầu phủ, từ nhỏ đã gặp qua không ít cao thủ, chỉ vì lúc này vô tình đi qua, thấy sắc mặt của Sở Tranh có cái gì đó không đúng lắm cho nên lo lắng mà đi tới hỏi.
– Tranh Nhi, xảy ra chuyện gì, tại sao sắc mặt của con lại khó coi như thế?
Sở Tranh vốn muốn tìm một lý do qua loa để trả lời, nhưng lời vừa đến mép thì trong lòng chợt này ra một ý, vội giả bộ ngây ngô hỏi:
– Mẹ, cái gì là “bảo trì một thân đồng tử, cố thủ tinh quan” ?
Mặt Sở phu nhân đỏ bừng lên, thầm mắng kẻ nào dám nói những lời này cho Sở Tranh nghe, vội vỗ nhẹ lên đầu Sở Tranh nói:
– Tranh Nhi, con còn nhỏ, không hiểu những chuyện này đâu. Chờ phụ thân con từ Nam tuyến đại doanh trở về, con hãy đi hỏi ông ấy.
Sở Tranh cười thầm: ta còn nhỏ ư, nếu tính cả thời gian của thế giới kia nữa thì ta còn biết sớm hơn người nữa kia. Hắn nghĩ thì nghĩ vậy, bất quá trong miệng lại nói:
– Nhưng câu này là do sư phụ nói đó. Hắn nói ta muốn luyện thành võ công hắn dạy thì phải làm như vậy, hơn nữa…ít nhất…phải bảo trì cái đó vài chục năm.
– Vài chục năm ư?
Sở phu nhân hỏi mà trong lòng không ngừng kinh hãi, Sở Tranh năm nay mới mười ba tuổi, qua vài năm nữa là có thể cưới vợ rồi. Đợi vài chục năm nữa chắc hắn có thể đã xuống mồ rồi không chừng.
– Ngô tiên sinh thực nói như vậy sao?
– Đúng vậy, ông ta còn nói vì việc nay mà ông ta rất áy náy với Sở gia, mẹ, vì sao ông ta lại muốn xin lỗi Sở gia chúng ta chứ?
Xin lỗi, một lời xin lỗi là xong ư?
Sở phu nhân chỉnh lại sắc mặt, hắng giọng:
– Sư phụ con ở đâu?
– Còn đang ở trong phòng với Xuân Doanh, Xuân Doanh đang đấm lưng cho sư phụ đó, trông ông ấy rất thoải mái a.
Trong phòng, Xuân Doanh nhè nhẹ đấm lưng cho Ngô An Nhiên, sắc mặt có chút lo lắng hỏi:
– Ây, lời ngươi nói với thiếu gia vừa rồi là thật hay giả?
Ngô An Nhiên híp mắt lại khoan khoái hưởng thụ, trả lời:
– Đương nhiên là thật. Ta lừa nó làm gì.
Xuân Doanh vốn là người của Sở gia, từ trước đến nay cũng hay mồm mép, việc này không thể để nàng ta biết được, không thì hỏng bét. Nghĩ tới cảnh Sở Tranh vừa rồi mặt đầy vẻ đau khổ đi ra ngoài, trong lòng của Ngô An Nhiên không khỏi dâng lên cảm giác vui sướng.
Xuân Doanh do dự nói:
– Thế nhưng…
– Ngô tiên sinh có đó không?
Từ ngoài cửa bất chợt truyền đến thanh âm của Sở phu nhân.
Ngô An Nhiên giật mình hoàng sợ, không ngờ Sở phu nhân tự dưng lại tới đây. Ông tay cuống quit đứng dậy bước ra ngoài cửa nghênh đón:
– Ngô An Nhiên cung nghênh phu nhân.
Sở phu nhân mang vẻ mặt lạnh lung đi thẳng vào nhà, ngay cả một câu “miễn lễ” cũng không nói.
Ngô An Nhiên sửng sốt trong chốc lát, vội bước theo sau, cười gượng hỏi:
– Không biết phu nhân tìm Ngô mỗ có chuyện gì quan trọng không?
Sở phu nhân hừ một tiếng:
– Chuyện quan trọng, thật đúng là một chuyện rất quan trọng. Ngô tiên sinh, ta muốn hỏi một câu, ngươi có phải đã nói rằng Tranh Nhi …
Sở phu nhân suy nghĩ một chút, thấy dùng những từ ngữ kia thì không hay ho lắm, vì vậy sửa lời, nói tiếp:
– Tranh Nhi sau này không thích hợp thành thân sớm, có đúng vậy không?
Ngô An Nhiên cả kinh, tiểu tử thối kia mồm miệng thế nào lại nhanh như vậy, vừa thấy hắn đi ra khỏi cửa, một chốc lát sau Sở phu nhân đã đến vấn tội mình.
– Cái này…
Ngô An Nhiên rất bối rối trong lòng, ông ta biết nữ nhân trước mặt này không phải dễ chọc, nhưng cứ thế mà buông tha cho Sở Tranh thì ông ta cũng không cam lòng, huống hồ vừa mới nói một lời mà bây giờ lại sửa lại thì cũng không ổn lắm.
– Xác thực là có việc này.
Ngô An Nhiên chỉ đành đâm lao theo lao, mạnh miệng nói:
– Lúc trước do vội vã cứu tính mạng của tiểu thiếu gia, Ngô mỗ vô ý, không nhớ tới điểm này. Nhiều năm qua Ngô mỗ vẫn hổ thẹn với lương tâm, nay tiểu thiếu gia cũng đã lớn tuổi một chút, cũng đã hiểu một ít chuyện đời nên Ngô mỗ quyết định nói cho hắn biết.
Tâm tình của Sở phu nhân có chút hoảng loạn, miệng lầm bầm:
– Nên làm thế nào cho phải, nên làm thế nào cho phải đây.
Bà ta đột nhiên nói:
– Vậy không cần luyện công phu này nữa, chắc cũng chẳng có gì đáng ngại.
Ngô An Nhiên nghiêm mặt nói:
– Không thể được, nếu không tiếp tục luyện công phu này, Ngô mỗ tuyệt không dám đảm bảo bệnh tình của tiểu thiếu gia liệu có tái phát lại như cũ hay không.
Tâm tư của Sở phu nhân lúc này loạn cả lên, hai mắt ướt đẫm lệ.
Ngô An Nhiên có chút không đành lòng, vội nói:
– Phu nhân không cần lo lắng quá, Ngô mỗ nguyện đem hết toàn lực tìm đường hóa giải cho tiểu thiếu gia.
Sở phu nhân gắng gượng cười nói:
– Vậy ta xin nhờ toàn bộ vào Ngô tiên sinh, nếu cần người hoặc dược liệu trân quý gì thì cứ mở miệng, nếu làm được Sở phủ nhất định sẽ thành toàn cho ngài.
Ngô An Nhiên khom người cảm tạ, lòng thầm nghĩ, thằng nhãi con, lúc nào sư phụ nhìn ngươi thấy thuận mắt thì đó là lúc ta để cho ngươi cưới vợ.
***
Sở Tranh mang đầy tâm sự ở trong lòng, hắn đi dạo lòng vòng trong vườn, vừa đi vừa đá những hòn sỏi trên đường.
Những năm gần đây hắn đã cố quên việc của kiếp trước để sống một quãng đời vô tư lự, nào ngờ Ngô An Nhiên hôm nay lại quẳng một câu trời đánh, thật khiến hắn lại lo lắng.
Sở Tranh đi tới bên cạnh một cái ao, thở dài một cái rồi ngồi xuống, nhìn đám cá đang bơi trong nước, miệng thì thào tự nói một mình, mùa xuân đã tới, các ngươi cũng đã đến mùa giao phối rồi đó.
Sở Tranh từ ban đầu đến giờ toàn ở chung nhà với Sở phu nhân, chỉ có hai năm gần đây hắn ương nghạnh yêu cầu, muốn đơn độc ngủ riêng một phòng. Sở phu nhân lúc trước luôn coi hắn là một tiểu hài tử, nhưng thấy hài tử cũng đã lớn rồi, cũng cần có khoảng trời riêng tư của mình, liền cấp cho hắn một biệt viện nhỏ trong phủ, lại ngầm chuẩn bị mấy nha hoàn tới hầu hạ hắn.
Tam ca Sở Nguyên của hắn đã sớm âm thầm miêu tả cho hắn rằng trong đám nha hoàn kia, ai đẹp nhất, có bộ dạng động lòng người như thế nào, có…Nói đến đây thì Sở Nguyên lại không nói tiếp nữa, nhưng nhìn vẻ mặt dâm đãng của hắn, Sở Tranh liền hiểu được ý tứ của hắn. Đại ca Sở Hiên lúc nào cũng ra vẻ chính khí quân tử, nên không bao giờ nói những việc này với Sở Tranh, nhưng Sở Tranh thì luôn cho rằng người này khéo ngụy trang, thực không tin hắn ở cùng đám nha hoàn mà lòng không nghĩ loạn bậy.
Sở Tranh vốn lúc đầu có chút hứng thú với việc ở riêng, làm chủ một cõi, có nha hoàn hầu hạ. Nhưng hiện tại coi như biến mất hết, sau này lớn lên chỉ có thể nhìn mà không thể ăn, tư vị này thực còn khổ hơn chịu cực hình từ Đại sưu hồn thủ.
Sở Tranh tiện tay ném một cục đá xuống hồ khiến đám cá bị dọa hoảng sợ bơi tản hết ra.
Sở Tranh lười biếng ưỡn lưng một cái, ở đây thật buồn chán, không bằng đi ra ngoài dạo chơi một chút.
Hắn lười đi về phía cửa chính của Sở phủ nên trực tiếp chạy đến bên cạnh bức tường vây xung quanh phủ, đầu ngón chân nhún một cái, vận lực bắn vụt lên, khi tới ngang phía trên tường thì vỗ một cái lên đó, mượn lực tung người bay qua phía bên kia.
Sở Tranh ở giữa không trung thầm nghĩ, “có võ công cũng thật tốt a.”
Nhưng ngày hôm nay đúng là ngày lão thiên định trước những rắc rối cho hắn, Sở Tranh vừa rơi xuống đất liền đụng ngay một người đang gánh quanh gánh, bị Sở Tranh đụng tới, nước ở đâu bắn lên tung tóe, khiến hắn phải bật người nhảy về phía sau.
Người mang quang gánh kia cũng chật vật mãi mới đứng vững được, người bị nước bắn ra làm cho ướt sũng, nổi giận mắng:
– Tiểu tử khốn kiếp không có mắt nào…
Sở Tranh vừa nghe thanh âm này liền cảm thấy quen tai, khi nhìn lại thì bật thốt:
– Trương Đắc Lợi.
Trương Đắc Lợi hoảng sợ khôn cùng:
– Tiểu thiếu gia.
Nói xong hắn vội bước lên phía trước dùng áo lau lau trên người Sở Tranh:
– Tiểu thiếu gia của ta, ngươi như thế nào lại bất thình lình từ trên tường cao nhảy xuống thế?
Sở Tranh không để ý tới câu hỏi của hắn, nhấc vạt áo lên vẩy vẩy:
– Ngươi gánh cái gì vậy? Thiếu chút nữa làm bỏng chết ta.
Bỗng nhiên hắn ngửi được một mùi vị quen thuộc:
– A, là đậu hoa của gia đình ngươi.
Trương Đắc Lợi có chút xấu hổ đáp:
– Đúng vậy.
Sau khi Trương Đắc Lợi lên làm quản sự của Sở phủ liền phụ trách vấn đề áo cơm của cả phủ. Chẳng bao lâu sau, Trương Đắc Lợi lấy việc công làm việc tư, đem đậu hoa thê tử Tiểu Hồng bán ở bên ngoài đem vào trong phủ để mọi người nếm thử. Không ngờ Sở lão phu nhân và Sở phu nhân ăn xong đều kêu lên tán thưởng, vì vậy mà “Hồi vị đậu hoa” của Tiểu Hồng đã trở thành thực vật không thể thiếu được. Sở Tranh nhân lúc cao hứng lại viết lên những gánh đậu hoa đem vào trong phủ dòng chữ “Chuyên cung cấp cho Sở phủ”. Thế là, chẳng mấy ngày sau, hầu như cả Bình Nguyên thành đều biết đến “Hồi vị đậu hoa điếm”, khiến sinh ý của quán trở nên cực kỳ tốt. Trương Đắc Lợi thấy vậy vội vàng gọi mấy người anh em bà con từ huyện Thanh Bình vào thành Bình Nguyên hỗ trợ, mở mấy chi nhánh bán đậu hoa trong thành. Hiện nay Trương Đắc Lợi hắn vừa là Trương quản sự trong phủ của Sở gia, vừa là Trương lão bản của Bình Nguyên thành, nhưng thỉnh thoảng vẫn đích thân gánh đậu hoa ra vào trong phủ.
Sở Tranh nói với Trương Đắc Lợi:
– Thật không ngờ lại làm đổ đậu hoa của nhà ngươi, để ta đền hết cho.
Trương Đắc Lợi nghe xong, sợ quá vội nói:
– Tiểu thiếu gia, không cần đâu, không cần đâu, ta thế nào lại đòi tiền của ngươi chứ.
Sở Tranh tìm kiếm toàn thân cũng không thấy một đồng tiền nào, chắc lúc nãy mình vội vội vàng vàng muốn đi ra ngoài chơi nên quên không mang theo tiền. Hắn nghĩ một lúc rồi nói:
– Cũng được, đậu hoa của nhà ngươi đã đưa đến Sở phủ được bốn năm năm rồi, cũng rất ngon, lần này coi như ta đã ăn hết chỗ đậu hoa này là được, cứ tính toán vào sổ sách trong phủ cho ta.
Hắn không đợi Trương Đắc Lợi trả lời, liền nói:
– Được rồi, nhớ kỹ, sau khi về phủ không được nói đã thấy ta ở bên ngoài, bằng không ta sẻ xử lý ngươi.
Trương Đắc Lợi cả kinh, vội vã lên tiếng đáp ứng. Vị tiểu thiếu gia này là tiểu ma tinh trong phủ, nếu hạ nhân mà tốt thì hắn cũng không làm gì quá đáng, nhưng nếu hắn nhìn không vừa mắt ai đó thì số phận người đó sẽ thê thảm a.
Sở Tranh phất tay một cái rồi nói:
– Được rồi, không cùng ngươi nói nữa, ta đi đây.
Sở Tranh tìm đến một nhánh sông sạch, đem những vết bẩn trên người rửa sạch rồi vận nội công, đưa tay vuốt qua vuốt lại quần áo từ trên xuống dưới mấy lần, toàn thân chẳng mấy chốc khô ráo như mới là.
Sở Tranh nhìn ngắm lại mình một chút, cảm thấy hài lòng than một câu, “biết võ công cũng hay a”, nói xong liền chạy về phía Sướng Xuân viên.
Trong khu vườn của Sướng Xuân viên đã có mười mấy đứa trẻ tốp năm tốp ba vui đùa với nhau, vừa thấy Sở Tranh đến, tất cả đều tụ lại một chỗ.
Hai người ca ca Sở Hiên và Sở Nguyên của Sở Tranh đã thành niên, Sở Danh Đường gia giáo rất nghiêm, không để hai người họ ở trong Bình Nguyên thành chơi bời lêu lổng mà đem hai người họ đến Nam tuyến đại doanh tham gia quân đội để rèn luyện. Hai người này cũng không chịu thua kém ai, dù sao bọn họ cũng là công tử của thống lĩnh, ba phần công lao báo thập phần, hiện nay hai người họ đã đều là Kiêu kỵ quân giáo úy thống lĩnh ngàn người rồi.
Sở Hiên và Sở Nguyên đi rồi, Sở Tranh tự nhiên thành hài tử vương trong đám trẻ con của Bình Nguyên thành. Đã thế, Sở Tranh hắn còn bạo gan hơn hai ca ca của hắn, thường dẫn đám con nít dạo chơi trên đường lớn của Bình Nguyên thành, không ít lần gây hấn với đám du côn lưu manh trong thành, nhưng đám du côn này cũng biết cái nhóm tiểu tổ tông này tuyệt không thể đụng vào được. Chẳng cần đến Thái thú đại nhân, chỉ cần thành thủ đại nhân giận dữ, đem bốn cửa thành đóng lại rồi phái quân lung bắt thì có bay cũng khó thoát, cũng do đó mà nhiều lần Sở Tranh đều một mình đánh lưu manh, khiến uy vọng của hắn giữa đám con nít cực kỳ cao.
Bọn con nít vui đùa ầm ĩ một hồi, một đứa chợt nói:
– Các ngươi có nghe người ta nói rằng giữa chúng ta và Nam Tề sẽ xảy ra chiến tranh đó.
Một đứa bé khác lên tiếng:
– Nói bậy, chỉ bằng Nam Tề mà cũng dám đánh Đại Triệu chúng ta ư?
– Ta thì nghe nói, hình như Tây Tần đang chuẩn bị tấn công chúng ta.
– Vậy Đại Triệu của chúng ta chẳng phải đang ở thế quá nguy hiểm hay sao?
Một đứa đột nhiên hỏi Sở Tranh:
– Ngũ công tử, ngươi có nghe được cái gì mới từ chỗ Thái Thú đại nhân không?
Sở Tranh bất ngờ bị hỏi, ngay người trong chốc lát, hắn từ trước hầu như đều ở trong phủ luyện công hoặc đi chơi đùa cùng đám trẻ này, quả thực không biết nhiều lắm về chiến sự, đành hàm hồ trả lời:
– Ta chỉ biết là phụ thân đại nhân đã tới Nam tuyến đại doanh gần bờ sông đã một tháng rồi mà chưa từng trở về.
Bọn con nít mồm miệng như chợ vỡ bàn tán với nhau:
– Sở đại nhân mà đi lâu như vậy thì xem ra sắp có chiến tranh a.
Trong lòng Sở Tranh chợt nháy động, loại chiến tranh quy mô lớn bằng vũ khí lạnh này hắn chưa từng được nhìn qua. Mặc dù ở kiếp trước có xem một số phim truyền hình cổ trang về lịch sử hoặc kiếm hiệp, dạng như “Tam Quốc diễn nghĩa” với Quan Vũ, Trương Phi gì gì đó, đánh trận mà chỉ mang theo có hơn mười người, nếu mà còn sống thì chắc mấy vị đó đã tức giận chém chết mấy tên làm phim vẽ hươu vẽ vượn kia rồi. Trở về với thực tại, hơn mười vạn đại quân tung hoành ngang dọc tại Bình Nguyên quận, thực là một quang cảnh hùng tráng a.
Hắc hắc, mình nhất định phải ngó qua một lần mới thỏa. Dù sao thì lão ba cũng là vị quan to nhất tại tiền tuyến, nếu mình thông minh tháo vát một chút chắc cũng không có gì nguy hiểm, hơn nữa lại có một ít võ công phòng thân. Mình chỉ cần tới đó thì sẽ có biện pháp lưu lại, phụ thân mặt lạnh nhưng tâm lại hiền từ, ngươi như thế rất dễ bị đánh lừa, so với mẫu thân còn dễ hơn nhiều.
Nhưng cái khó nhất vẫn là làm thế nào tới được đó, mình lại không biết đường, mà đường đến đó cũng không phải là thành trấn người đông như châu chấu, không biết thì đi tới hỏi, phía ngoài Bình Nguyên thành chính là mấy trăm dặm đường hoang tàn vắng vẻ, nếu lạc đường thì khá phiền phức a.
Sở Tran hướng bọn con nít hỏi:
– Các ngươi có biết Nam tuyến đại doanh tại bờ sông đường biên cách chúng ta bao xa không?
Một đứa liền đáp:
– Nghe cha ta nói, đại khái là khoảng ba trăm dặm gì đó.
Sở Tranh có chút yên tâm, ba trăm dặm cũng không phải là xa lắm, cũng chỉ vào khoảng 100 km là cùng, nếu mình mà lái xe ô tô chắc chưa đến một tiếng đã tới nơi. Nhưng nếu đi xe ngựa, Sở Tranh lẩm nhẩm trong bụng, ít nhất cũng hai ngày.
– Có ai biết đường đến đó không?
Bọn con nít ngươi nhìn ta ta nhìn ngươi, đại đa số bọn chúng hầu như còn chưa ra khỏi Bình Nguyên thành bao giờ, làm sao mà biết đường đến đại doanh được chứ?
Một đứa lại hỏi:
– Ngũ công tử, phải chăng ngươi muốn lén đi đến đó?
Sở Tranh nói:
– Ai nói, ta chỉ tò mò hỏi một chút thôi.
Hắn đột nhiên trừng mắt:
– Ngươi có biết đường không, nếu không biết thì khôn hồn ngồi xuống.
– Ngũ công tử, ngươi đi hỏi các đội xe ra vào trong thành xem sao? Khẳng định trong đám xa phu cũng có kẻ biết đường.
Sở Tranh ngẫm lại thấy đúng, liền đứng lên nói:
– Được rồi, cac ngươi cứ vui chơi tiếp đi nha. Ta có việc một chút.
Sở Tranh tới nơi tập kết của các đội xe ngựa, muốn thuê một chiếc xe. Đáng tiếc hắn bình thường hay xuất đầu lộ diện ở khắp Bình Nguyên thành, Sở Tranh thì không biết một người nào ở đây nhưng bọn họ lại biết hắn, tiểu thiếu gia của Thái Thú phủ. Cho nên, vừa nghe Sở Tranh nói muốn thuê xe đi ra khỏi thành thì kẻ nào kẻ nấy mặt mũi trắng bệch, đầu lắc như con quay, hối hối hả hả từ chối rồi đưa Sở Tranh ra ngoài cửa, tuyên bố hôm nay nghỉ việc không làm ăn gì nữa.
Sở Tranh ủ rũ đi trên đường, xem ra tuổi quá nhỏ cũng là một chuyện phiền toái a.
Vận mệnh xui xẻo của hôm nay tựa hồ còn chưa muốn tha cho hắn, bất chợt từ phía sau vang lên một trận vó ngựa. Sở Tranh giật mình, vội tránh sang một bên, nào ngờ chiêc xe ngựa kia phóng nhanh quá, chạy sát sạt bên người hắn, “xoạt” một tiếng, áo của hắn mắc phải cái gì đó bị kéo rách toang ra.
Chiếc xe ngựa dừng lại, một thiếu niên chừng mười sáu mười bảy tuổi đầu đầy mồ hôi chạy tới, lắp bắp nói:
– Vị thiếu gia này, thật xin lỗi, con ngựa khốn kiếp của tiểu nhân hôm nay bỗng nhiên dở chứng.
Sở Tranh lại không có chút tức giận nào, nhìn vào vẻ mặt kinh hoảng của thiếu niên kia, cười cười nói:
– Không có gì cả, là ta đi đường không cẩn thận thôi.
Hắn vừa nói vừa quan sát chiếc xe ngựa một chút, thấy trên xe chất đầy củi lửa, con ngựa kéo xe thì gầy còm, da bọc xương.
Sở Tranh hỏi:
– Ngươi từ đâu tới?
Thiếu niên kia sửng sốt trong chốc lát rồi trả lời:
– Tiểu nhân là thôn dân ở dưới Tiểu Thanh Sơn ngoài thành, vào trong thành bán củi kiếm sống.
– Tiểu Thanh Sơn có xa nơi đây không?
– Cũng xa ạ, đại khái một trăm dặm gì đó.
Sở Tranh liền hỏi tiếp:
– Ngươi có biết đường đến Nam tuyến đại doanh ở phía bờ sông không?
Thiếu niên suy nghĩ một chút rồi đáp lời:
– Tiểu nhân đã từng hai lần đi qua nơi đó rồi.
Sở Tranh gật đầu, lại hỏi tiếp:
– Xe củi này nếu bán hết thì ngươi kiếm được bao nhiêu tiền?
– Đại khái được mười đồng tiền.
– Được rồi, ngươi ngày mai chờ ta ở đầu phố phía trước, chở ta đi tới đại doanh phía bờ sông, ta cho ngươi hai quan tiền.
Thiếu niên kia cả kinh, hai quan tiền có thể khiến gia đình hắn có cái ăn trong một năm, vội nói:
– Thiếu gia à, ngươi nói thật ư?
Sở Tranh cười nói:
– Đương nhiên là thật rồi, ra khỏi thành liền cho ngươi một quan tiền, sau khi tới đại doanh liền giao cho ngươi quan thứ hai.
Hắn đột nhiên nhớ tới một chuyện, liền nói:
– Được rồi, đống củi này ngươi không được bán đi nữa, ngày mai dẫn ta ra khỏi thành.
– Thiếu gia, vì sao lại vậy?
Mặt Sở Tranh trầm xuống:
– Ngươi hỏi nhiều như vậy làm gì? Chỉ cần nghe lời thiếu gia ta là được rồi.