Bạn đang đọc Rừng Nauy – Chương 22- Part 02
“Hay quá,” tôi nói.
“Chẳng hay đâu,” ông đáp. “Du lịch chẳng thích thú gì. Tôi thà làm việc còn hơn.”
Ông bảo ông đã để khu vườn hoang dại như thế là vì quanh đây chẳng có thợ làm vườn nào tử tế, và cũng vì ông bị dị ứng không thể tự làm vườn được. Cứ cắt cỏ là ông bị hắt hơi sổ mũi.
Uống xong bữa trà, ông chỉ cho tôi một cái chái chứa đồ và bảo tôi muốn dùng thứ gì ở trong đó cũng được cũng là một cách cảm ơn tôi đã chăm nom đến khu vườn. “Chúng tôi chẳng dùng gì đến những thứ này nữa,” ông nói, “cậu cứ tự nhiên cho.”
Thực ra ở đó chất đầy đủ thứ đồ – một thùng tắm bằng gỗ đã cũ, một cái bể bơi cho trẻ con, gậy bóng chày.
Tôi tìm thấy cả một cái xe đạp cũ, một cái bàn ăn cỡ nhỏ với hai cái ghế, một tấm gương, và một cây ghi-ta. “Cháu muốn mượn những thứ đó có được không ạ?” Tôi nói.
“Cậu cứ tự nhiên cho,” ông nhắc lại.
Tôi để ra một ngày loay hoay với cái xe đạp: đánh sạch gỉ, tra dầu các ổ bi, bơm lốp xe, chỉnh bộ số, và đem nó ra một hiệu chữa xe đạp để lắp một bộ dây sang số mới. Xong xuôi trông nó như một cái xe khác hẳn. Tôi cạo sạch lớp bụi dày cộp trên cái bàn và quét cho nó một lớp véc ni mới. Tôi thay dây cho cái ghi-ta và dán lại chỗ bong tróc trên thân đàn. Tôi dùng búi thép đánh sạch gỉ ở các khoá lên dây và điều chỉnh chúng cẩn thận. Không ra một cây đàn oách, nhưng ít nhất cũng không lạc nốt sai dây nữa. Tôi chợt nhớ từ hồi hết trung học đến giờ mình chưa hề sờ đến một cây ghi-ta nào. Tôi ngồi ngoài hiên và mày mò đánh bài “Trên mái nhà” của nhóm The Drifters, và rất ngạc nhiên thấy mình vẫn còn nhớ hầu hết các hợp âm của bài đó.
Tiếp theo đó, tôi lấy mấy mẩu ván và đóng thành một hộp thư vuông vắn. Tôi sơn nó màu đỏ, viết tên mình vào, rồi dựng nó cạnh cổng. Mai đến mồng ba tháng Tư mới thấy bưu điện bồ vào thùng thư của tôi một cái gì đó từ khu học xá chuyển tới. Hoá ra là một thông báo họp lớp của trường trung học cũ. Tôi không muốn lôi thôi đến món họp lớp bao giờ. Mà đó lại là lớp tôi cùng học với Kizuki. Tôi liền quẳng cái thông báo ấy vào sọt rác.
Chiều ngày mồng bốn tháng Tư thì tôi thấy có một bức thư trong thùng. Mặt sau có đề tên Reiko Ishida. Tôi dùng kéo cắt một nhát ngọt qua mép dán rồi ra thềm để đọc nó. Tôi đã linh cảm sẽ không có tin lành, và quả là như vậy.
Đầu tiên Reiko xin lỗi đã để tôi phải chờ lâu đến thế. Chị nói Naoko đã vật vã cố viết cho tôi, nhưng lần nào nàng cũng không thể viết xong được.
“Tôi đã bảo để tôi viết trả lời thay cho cô ấy, nhưng hễ tôi nhắc đến chuyện phải trả lời cậu là cô ấy lại khăng khăng rằng đây là chuyện quá riêng tư và cô ấy phải tự viết mới được. Vì vậy mà tôi không viết cho cậu sớm hơn được. Tôi thật tình xin lỗi cậu. Hy vọng cậu sẽ bỏ lỗi cho tôi.
Tôi biết chắc cậu đã khổ sở cả tháng ròng chờ thư hồi âm, nhưng hãy tin tôi, tháng vừa rồi Naoko cũng khổ sở không kém. Cậu phải cố hiểu những gì cô ấy đang trải qua. Tình trạng cô ấy không tốt đâu, tôi phải nói thật như vậy. Cô ấy đang cố hết sức để trụ vững, nhưng cho đến giờ kết quả chẳng khả quan chút nào.
Nghĩ lại, bây giờ tôi mới thấy rằng triệu chứng xấu đầu tiên của cô ấy là mất khả năng viết thư. Nó bắt đầu khoảng cuối tháng Mười một đầu tháng Mười hai. Sau đó cô ấy bắt đầu cứ nghe thấy cái gì đó trong đầu. Hễ định viết thư là cô ấy lại nghe thấy có tiếng người nói chuyện với mình và không thể viết được nữa. Những giọng nói ấy chen vào nỗ lực chọn từ ngữ của cô ấy. Nhưng tình trạng ấy cũng chưa đến nỗi nào cho đến lần cậu đến thăm thứ hai, nên tôi đã không để ý cẩn thận. Với tất cả chúng tôi ở đây, những loại triệu chứng này xảy ra theo chu kì, hơn kém nhau chút đỉnh thôi. Nhưng trong trường hợp của cô ấy thì chúng cứ nặng mãi lên sau khi cậu ra về. Bây giờ thì đối thoại bình thường thôi cũng là rất khó khăn với cô ấy. Cô ấy không thể tìm được đúng từ để nói, và điều đó đẩy cô ấy vào một tình trạng hoang mang khủng khiếp. Hoang mang và sợ hãi. Trong khi đó thì những “thứ” cô ấy nghe thấy trong đầu cứ ngày một tệ hơn.
Chúng tôi có một buổi điều trị hàng ngày với một nhà chuyên môn. Naoko với tôi và ông bác sĩ này ngồi chuyện trò với nhau để cố tìm xem khu vực nào của cô ấy đã bị đổ bể. Tôi đưa ra ý kiến là có lẽ sẽ tốt nếu có thêm cậu cùng dự những buổi này, và ông bác sĩ ủng hộ tôi, nhưng Naoko không chịu. Tôi có thể nhắc lại đúng lời cô ấy như sau: “Tôi muốn thân xác tôi phải sạch hết mọi thứ này khi tôi gặp cậu ấy.” Tôi bảo cô ấy rằng đó không phải là vấn đề; vấn đề là cô ấy phải khỏe lại càng nhanh càng tốt, và tôi cố thuyết phục cô ấy, nhưng cô ấy nhất định không chịu đổi ý.
Hình như đã có lần tôi bảo cậu rằng đây không phải là một bệnh viện chuyên khoa. Tất nhiên là chúng tôi có các chuyên gia y khoa ở đây, và họ điều trị cũng rất có hiệu quả, nhưng điều trị tập trung lại là chuyện khác hẳn. Ý đồ của cơ sở này là tạo ra một môi trường hữu hiệu để bệnh nhân có thể tự điều trị, và như vậy, nói cho đúng ra, nó không bao gồm việc điều trị y khoa. Có nghĩa là nếu tình trạng của Naoko vẫn tiếp tục xấu đi, họ sẽ có thể phải chuyển cô ấy tới một bệnh viện khác hoặc một cơ sở y tế khác hoặc gì đó không biết. Nói thật, tôi thấy chuyện ấy rất đau lòng, nhưng chúng tôi sẽ bắt buộc phải làm vậy. Nói thế không có nghĩa là cô ấy không thể quay lại đây để điều trị theo kiểu “nghĩ vắng mặt” ở bên kia một thời gian. Hoặc biết đâu cô ấy lại có thể khỏi hẳn và không cần gì đến bệnh viện nữa. Gì thì gì, chúng tôi đang làm tất cả mọi thứ có thể được, và Naoko cũng vậy, còn bây giờ thì tốt nhất là cậu hãy hy vọng cho cô ấy bình phục được và tiếp tục gửi thư cho cô ấy.”
Lá thư đề ngày ba mươi mốt tháng Ba. Đọc xong, tôi vẫn ngồi ngoài hiên và nhìn quanh quẩn ra khu vườn lúc bấy giờ đã đầy vẻ tươi tốt của mùa xuân. Một cây anh đào cổ thụ đang đứng đó, hoa sắp đến kì nớ rộ. Một làn gió nhẹ đang thổi tới, và ánh sáng ngày bao trùm mọi vật trong những màu sắc mờ ảo kì lạ. Hải âu từ đâu đó mới đảo về nhà, và sau khi cào cào những tấm ván thềm một lát, nó nằm dài xuống cạnh tôi và lăn ra ngủ.
Tôi biết mình nên để tâm suy nghĩ thật nghiêm chỉnh một vài chuyện, nhưng không biết bắt đầu thế nào.
Và nói thật là lúc ấy tôi không muốn phải suy nghĩ chút nào. Chẳng mấy chốc sẽ đến lúc tôi không thể tránh được việc ấy, và bấy giờ tôi sẽ để ra hẳn một thời gian dài tập trung suy nghĩ hết mọi việc. Còn bây giờ thì không. Bây giờ thì không.
Cả ngày hôm đó tôi dán mắt vào khu vườn, nằm dựa gối và vuốt ve Hải âu. Tôi thấy hoàn toàn kiệt sức. Chiều tàn dần, hoàng hôn đã tới, và những bóng tối màu xanh lơ bao bọc cả khu vườn. Hải âu đã biến đi đâu rồi, nhưng tôi vẫn tiếp tục nhìn hoa anh đào đang nở. Trong bóng tối mùa xuân, trông chúng giống như thịt vừa bục ra khỏi da trên những vết thương đang mưng mủ. Khu vườn tràn ngập mùi thịt thối ngòn ngọt rất nặng. Và chính lúc đó tôi nhớ đến da thịt Naoko. Da thịt đẹp đẽ của Naoko nằm trước mặt tôi trong bóng tối, vô vàn mầm nụ đang bung ra trên da nàng, xanh mét và run rẩy trong làn gió nhẹ hầu như không cảm thấy được. Tại sao một tấm thân đẹp đẽ như thế lại phải mang bệnh đến vậy? Tôi tự hỏi. Sao chúng không buông tha cho nàng?
Tôi vào nhà và kéo màn cửa lại, nhưng ngay cả ở trong nhà cũng vẫn không thoát được mùi vị mùa xuân. Nó tràn ngập mọi thứ từ dưới đất lên cao. Nhưng hương vị duy nhất của mùa xuân mà tôi đang cảm thấy lúc ấy lại là cái mùi thịt thối khăn ghê rợn kia. Giam mình sau màn cửa, tôi cảm thấy một nỗi kinh tởm dữ dội đối với mùa xuân. Tôi căm ghét những gì mùa xuân đang dành đợi tôi; tôi căm ghét cái nỗi đau rần rật đến tê dại mà nó gợi lên trong tôi. Tôi đã chưa khi nào căm ghét cái gì trên đời dữ dội đến thế.
Ba ngày liền sau đó tôi như đi dưới đáy biển. Tôi không thể nghe người ta nói gì với mình, và mọi người nghe tôi cũng khó khăn như vậy. Toàn thân tôi như bị bao bọc trong một thứ màng khiến cho tôi mất hẳn mọi tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài. Tôi không thể chạm vào “họ”, và “họ” cũng không thể chạm vào tôi. Tôi hoàn toàn bất lực, và chừng nào còn như vậy thì “họ” còn chưa thể với đến tôi.
Tôi ngồi dựa lưng vào tường, dán mắt lên trần nhà. Khi thấy đói, tôi sẽ gặm bất kì thứ gì vớ được ở xung quanh, uống tí nước, và khi nỗi cám cảnh đau buồn ập đến, tôi lấy rượu whisky để hạ gục chính mình. Tôi không tắm. Không cạo mặt. Ba ngày liền trong tình trạng như thế.
Mồng sáu tháng Tư thì có thư Midori. Cô hẹn gặp tôi ở trường và cùng ăn trưa vào ngày mồng mười khi chúng tôi phải đến đăng kí các lớp học. Tớ trì hoãn viết cho cậu thật lâu cho đến lúc hai đứa mình hoà nhau, nên hãy giảng hoà nhé. Tớ phải thú nhận, tớ nhớ cậu. Tôi đọc đi đọc lại lá thư tất cả là bốn lần, mà vẫn không thể hiểu cô đang định nói gì với tôi. Nó có thể có nghĩa gì mới được chứ? Đầu óc tôi mù mịt hết cả, tôi không thể tìm ra mối liên hệ từ câu này đến câu kia. Tại sao gặp cô ta ngày đăng kí môn học lại làm cho chúng tôi “hoà nhau” Tại sao cô ta lại muốn “ăn trưa” với tôi? Tôi thực sự lạc đường. Trí não tôi nhão ra rồi, như bộ rễ sũng nước của một loài cây mọc dưới biển. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn biết là mình phải vùng ra khỏi tình trạng đó. Và rồi đột nhiên những lời của Nagasawa trở lại với tôi: “Đừng bao giờ tự trách mình. Chỉ có bọn vứt đi mới làm vậy.”
“Ôkê, Nagasawa. Đúng thế,” tôi nghe thấy mình nói trong đầu, thở dài đánh thượt rồi gượng dậy.
Tôi giặt quần áo lần đầu tiên sau nhiều tuần lễ, đến nhà tắm công cộng và cạo mặt, dọn dẹp nhà cửa, mua thức ăn và nấu một bữa tử tế để thay đổi cho con Hải âu gần chết đói ăn, chỉ uống bia, và tập thể dục ba mươi phút. Trong khi cạo mặt, tôi phát hiện trong gương là mình đã xọp hẳn đi. Hai mắt tôi lồi ra. Mãi tôi mới nhận ra mình.
Sáng hôm sau tôi đạp xe một chuyến dài dài, và sau khi ăn trưa ở nhà, tôi đọc lại lá thư của Reiko một lần nữa; rồi suy nghĩ nghiêm chỉnh xem tôi cần phải làm gì sau đó. Lý do chính khiến lá thư của Reiko làm tôi khổ sở đến vậy là vì nó đã phá vỡ niềm tin lạc quan của tôi rằng Naoko đang khá dần lên. Chính Naoko đã bảo tôi, “Bệnh tớ tệ hơn cậu tưởng nhiều: nó sâu rễ bền gốc lắm.” Và Reiko cũng đã cảnh báo rằng không thể biết được chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng tôi đã gặp Naoko hai lần, và đã có ấn tượng là nàng đang trên đường lành bệnh. Tôi đã cho rằng chỉ còn có vấn đề là nàng có đủ can đảm quay lại thế giới thực tại hay không, và rằng nếu nàng làm được thế, cả hai chúng tôi sẽ chung lưng đấu cật trong chuyện đó.
Lá thư của Reiko đã đạp đổ toà lâu đài ảo mộng tôi đã xây trên cái giả định mong manh ấy, chỉ để lại một bề mặt bẹp gí không chút cảm giác nào. Tôi sẽ phải làm gì đổ để lấy lại chỗ đứng của mình. Có thể sẽ rất lâu Naoko mới có thể bình phục. Nhưng thậm chí sau đó có thể nàng sẽ còn thất thường và thiếu tự tin hơn. Tôi sẽ phải thích ứng với tình huống mới ấy. Và dù tôi có mạnh mẽ đến mấy thì chắc cũng không thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề. Điều ấy thì tôi biết. Nhưng tôi lại chẳng làm gì khác được: chỉ biết giữ vững tinh thần và chờ cho nàng khỏi bệnh.
Này Kizuki ơi, tôi nghĩ bụng, khác với cậu, tớ đã chọn sự sống, và sẽ sống đẹp hết sức mình. Cậu thấy khó là đúng rồi. Nhưng nói thật nhé, tớ thì cũng thế thôi. Thật là khó. Mà tất cả chỉ là tại cậu đã tự vẫn và để Naoko ở lại. Còn tớ thì sẽ không bao giờ làm thế. Tớ sẽ không bao giờ, không bao giờ quay lưng lại với cô ấy. Trước hết là vì tớ yêu cô ấy, và là vì tớ mạnh mẽ hơn cô ấy. Tớ sẽ trưởng thành. Tớ sẽ thành người lớn. Vì tớ phải vậy. Tớ vẫn thường muốn cứ được là mười bảy hay mười tám tuổi mãi nếu có thể. Nhưng bây giờ thì thôi rồi. Tớ không còn là một thiếu niên. Bây giờ tớ đã biết thế nào là trách nhiệm. Tớ không còn là cái đứa như thời chúng mình còn chơi với nhau nữa. Tớ đã hai mươi rồi. Và tớ phải trả giá để tiếp tục sống.
“Cứt thật, Watanabe, cậu làm sao vậy?” Midori hỏi. “Da bọc xương hết rồi!”
“Tệ đến thế kia à?”
“Quá nhiều chuyện với bà bồ có chồng của cậu phải không, tớ đánh cuộc nào.”
Tôi mỉm cười và lắc đầu. “Tớ chưa ngủ với cô nào từ đầu tháng Mười đến giờ.”
“Úi! Không thể thế được. Những sáu tháng đấy ông ạ!”
“Cậu nghe tớ nói rồi mà.”
“Thế làm sao mà cậu sụt cân gớm thế?”
“Tại lớn lên đấy,” tôi nói.
Midori đặt tay lên cả hai vai tôi và nhìn vào mắt tôi với một vẻ mắng nhiếc chẳng mấy chốc đã biến thành một nụ cười ngọt lịm.
“Đúng thế thật,” cô nói. “Có cái gì đó khác. Cậu đã thay đổi.”
“Tớ bảo rồi, tớ đã lớn lên. Giờ tớ đã là người lớn.”
“Cậu tuyệt vời thật, kiểu suy nghĩ của cậu ấy,” cô nói như thể bị ấn tượng thực sự. “Mình đi ăn thôi. Tớ đói ngấu rồi.”
Chúng tôi vào một tiện ăn nhỏ đằng sau khoa văn. Tôi lấy một suất ăn trưa đặc biệt và cô cũng vậy.
“Này, Watanabe, cậu giận tớ lắm phải không?”
“Vì chuyện gì chứ?”
“Vì không trả lời cậu, cốt để gỡ hoà mà. Cậu nghĩ tớ không nên thế à?” Sau khi cậu đã xin lỗi và mọi thứ khác”
“Ừ, nhưng đầu tiên là lỗi tại tớ. Nó như vậy mà.”
“Chị tớ bảo nhẽ ra tớ không nên thế. Quá ác, quá trẻ con.”
“Ờ, nhưng nó làm cậu thấy dễ chịu hơn, đúng không nào, gỡ hoà kiểu ấy?”
“Thôi được rồi, cho qua chuyện đó đi.”
“Cậu đang tha thứ cho tớ phải không?” Midori nói.
“Nhưng nói thật đi Watanabe, cậu chưa làm tình trong sáu tháng liền cơ à?”
“Không một lần nào.”
“Vậy cái lần cậu cho tớ đi ngủ, chắc cậu phải thèm lắm.”
“Ờ, chắc thế!”
“Nhưng cậu không làm gì, đúng không?”
“Nghe này, cậu là bạn tốt nhất của tớ bây giờ,” tôi nói. “Tớ không muốn mất cậu đâu.”
“Cậu biết không, nếu cậu cưỡng tớ hôm đó, chắc tớ không chống lại được đâu, tớ kiệt lực đến thế cơ mà.”
“Nhưng tớ quá to và quá cứng,” tôi nói.
Midori mỉm cười rồi chạm vào cổ tay tôi. “Một lúc trước đó, tớ đã quyết định sẽ tin cậu. Một trăm phần trăm. Cho nên tớ mới yên trí ngủ ngon như vậy. Tớ biết tớ sẽ không sao, tớ sẽ an toàn với cậu ở đó. Và tớ đã ngủ say như chết, đúng không?”
“Đúng quá.”
“Nhưng mặt khảc, nếu cậu nói với tớ, “Ê, Midori, mình ấy nhau đi, rồi mọi thứ sẽ tốt đẹp mà” thì có lẽ tớ đã ấy với cậu rồi. Này, đừng có tưởng tớ đang định cám dỗ hay trêu ngươi gì cậu nhé. Tớ chỉ đang nghĩ sao nói vậy thôi, hoàn toàn chân thực.”
“Biết rồi, biết rồi.”
Trong lúc ăn trưa, chúng tôi cho nhau xem giấy đăng kí lớp học của mình và thấy sẽ có chung nhau hai lớp. Vậy là ít nhất tôi cũng sẽ gặp cô hai lần một tuần. Xong chuyện đó rồi, Midori kể cho tôi nghe về cách thu xếp cuộc sống của cô. Lúc đầu hai chị em cô không thể quen được với cuộc sống ở căn hộ. Bởi vì nó quá an nhàn, cô nói. Họ đã quá quen với việc hàng ngày phải chạy quanh như điên, hết chăm người ốm lại đến trông cửa hàng, hết việc này đến việc nọ.
“Nhưng cuối cùng thì bọn mình cũng thấy quen,” cô nói. “Nhẽ ra chúng mình phải được sống thế này từ lâu rồi – không phải lo lắng đến nhu cầu của bất kì ai, chỉ việc nằm dài kiểu gì cũng được. Lúc đầu cả hai chị em mình đều thấy bồn chồn, như thể người mình nó cứ lơ lửng trên mặt sàn đến năm sáu phân. Nó không có vẻ thực tí nào, giống như cuộc sống thật không thể là như vậy. Cả hai chị em đều căng thẳng, chỉ sợ mọi thứ lại sắp lộn nhào hết cả.”
“Một cặp cả lo,” tôi mỉm cười nói.
“Chẳng qua là vì cuộc sống đã ác với chúng mình cho đến tận bây giờ,” Midori nói. “Nhưng không sao. Bọn mình sẽ lấy lại những thứ nó còn nợ.”
“Tớ cuộc là cậu sẽ được,” tôi nói, “vì tớ biết cậu rồi. Nhưng cậu nói xem, hiện giờ chị cậu làm gì?”
“Một người bạn chị ấy vừa mở một tiệm bán các loại phụ tùng phù phiếm cách đây ít lâu. Chị tớ làm ở đó ba lần một tuần. Ngoài ra thì chị ấy học nấu ăn, đi chơi với chồng chưa cưới, đi xem xinê, oằn oài ra đó, và hưởng cuộc đời,” Rồi Midori hỏi thăm tôi về cuộc sống mới. Tôi tả cho cô nghe cách bố trí của ngôi nhà, khu vườn rộng với con mèo Hải âu, và ông chủ nhà.
“Cậu thấy trong lòng vui vẻ chứ?” cô hỏi.
“Ừ, vui chứ,” tôi nói.
“Cậu chẳng lỡm được tớ đâu” Midori nói.
“Tớ biết thế, nhưng cũng tại mùa xuân nữa,” tôi nói.
“Và lại còn đang mặc cái áo chui đầu bồ đan cho đẹp thế kia nữa.”
Tôi giật nay mình và liếc vội xuống cái áo màu rượu vang. “Sao cậu biết”
“Cậu thật thà quá,” Midori nói. “Tất nhiên là tớ chỉ đoán thế thôi! Nhưng mà này cậu có chuyên gì vậy?”
“Không biết nữa. Tớ đang cố khuấy lên ít nhiệt tình.”
“Chỉ cần nhớ rằng cuộc đời là một hộp sô-cô-la.”
Tôi lắc đầu mấy cái rồi nhìn cô.
“Có thể tớ không thông minh thế, nhưng nhiều khi tớ không biết cậu đang nói chuyện quái gì nữa.”
“Cậu biết đấy, họ có nhiều loại sô-cô-la như thế này này, và cậu chỉ thích mấy loại này và không thích mấy loại kia chứ gì? Và cậu chén hết những loại cậu thích, những miếng còn lại toàn những loại cậu không thích bằng chứ gì? Tớ luôn nghĩ đến chuyện đó mỗi khi có chuyện đau buồn. “Bây giờ thì chỉ có việc chén nốt chỗ kia thôi chứ làm sao đây, và mọi chuyện sẽ ôkê cả.” Đời là một hộp sô-cô la như vậy đấy.”
“Có lẽ cậu có thể gọi đó là triết học.”
“Đúng thế còn gì. Tớ đã học được nó bằng kinh nghiệm.”
Đang uống cà-phê với nhau thì có hai cô gái bước vào. Midori có vẻ biết họ ở đại học. Ba người so các môn sắp học của nhau và nói hàng triệu thứ chuyện khác nhau: “Điểm tiếng Đức của cậu thế nào?” “Thằng ấy thằng nọ bị ăn đòn trong cuộc nổi loạn ở trường.” “Đôi giày đẹp nhỉ, cậu mua ở đâu thế?”… Tôi chỉ nghe nửa tai, nhưng cảm thấy như những câu nói của họ đang vọng về từ phía bên kia của thế giới. Tôi nhấm nháp cà-phê và nhìn những cảnh tượng đang kéo qua bên ngoài cửa sổ. Đó là một quang cảnh điển hình ở đại học vào mùa xuân khi sắp vào năm học mới: một màn mù nhè nhẹ lơ lửng trên trời, anh đào đang nở hoa, đám sinh viên mới (nhìn là biết ngay) ôm theo người hàng đống sách. Tôi thấy mình bập bềnh đôi chút và nghĩ đến Naoko đang không thể quay về học năm nay. Trên bậu cửa sổ có một cái cốc thuỷ tinh nhỏ cắm đầy hoa gió.
Khi hai cô kia đã về bàn của họ, Midori và tôi ra ngoài đi dạo quanh đó. Chúng tôi vào một vài hiệu sách cũ, mua mấy cuốn, uống một cốc cà-phê nữa ở một quán khác chơi bắn bi trong một động game, rồi ngồi ở ghế công viên tán chuyện, hay nói đúng hơn là Midori nói còn tôi chỉ ậm ừ giữ nhịp. Khi cô nói khát nước, tôi chạy ra một quầy báo mua hai lon Coke. Lúc về thì thấy cô đang nghí ngoáy viết cái gì đó lên mấy trang giấy kẻ bằng bút bi.
“Cái gì thế?” tôi hỏi.
“Có gì đâu,” cô nói.
“Tớ phải đi,” cô tuyên bố lúc ba giờ rưỡi. “Tớ đã hẹn gặp chị tớ ở Ginza.”
Chúng tôi đến ga tàu rồi mỗi người đi một ngả. Lúc chia tay, Midori nhét mẩu giấy đã gập làm tư vào túi quần tôi “Về nhà cậu hay đọc nhé,” cô nói. Tôi đọc nó luôn lúc trên tàu.
“Tớ viết thư này trong lúc cậu đi mua nước uống. Đây là lần đầu tiên trong đời tớ viết thư ột người ngồi ngay cạnh mình trên ghế công viên, nhưng có lẽ đó là cách duy nhất tớ có thể đến được với cậu. Tớ muốn nói là cậu đang chẳng để ý gì đến những những lời tớ nói, đúng không nào?
Cậu có biết hôm nay cậu đã làm điều gì khung khiếp lắm với tớ không? Cậu không hề thấy tớ đã đổi kiểu tóc khác, đúng không? Tớ đã loay hoay với nó mãi rồi, cố để cho nó dài ra, và cuối cùng thì cuối tuần trước tớ đã làm được một kiểu mà cậu có thể gọi là tóc con gái, nhưng thậm chí cậu cũng chẳng để ý nữa. Trông nó cũng hay, nên tớ đã tưởng sẽ làm cho cậu choáng một tí sau khi bao nhiêu lâu cậu mới gặp lại tớ, nhưng cậu nào có thấy gì. Cậu bảo thế có chán không? Tớ cuộc là cậu còn chẳng biết tớ mặc gì hôm nay nữa kia. Ê, tớ vẫn là con gái mà! Ừ thì cậu đang bận chuyện gì đó trong đầu! Nhưng cứ nhìn người ta một cái tử tế thì đã làm sao! Cậu chỉ cần bảo “Tóc xinh đấy”, thế là tớ sẽ có thể tha thứ cho cậu vì đã mải chìm đắm trong một triệu thứ ý nghĩ kia, nhưng mà không!