Bạn đang đọc Rực Lửa Miền Băng Tuyết – Chương 5: Cuộc Hẹn Ở Reid
Tính thì tính vậy,chứ làm sao mà anh chàng có thể rời khỏi Luân Đôn sớm như thế? Còn biết bao nhiêu việc ngổn ngang chưa giải quyết xong.
Mấy tay bác sĩ cứ bảo vết thương chưa lành, cần phải có thời gian nghỉ dưỡng. Bill Tanner đang truy tìm mớ hồ sơ về Paula Vacker và Anni Tudeer. Chà, xem chừng nhân thân, lý lịch của hai cô ả có chút vấn đề đây.
Hoá ra Paula tuy quốc tịch Phần Lan nhưng là người Thụy Điển. Còn bố cô ấy từng làm việc cho ngoại giao đoàn Thụy Điển. Theo hồ sơ, ông ta thuộc nhóm quân sự hửu khuynh.
Ông M cứ luôn miệng lầm bầm:
– Có thể hắn là một thành viên phát xít.
Anh chàng hơi chột dạ. Lẽ nào mình lại giao trứng cho ác? Chưa hết, Bill Tanner còn thêm dầu vào lửa.
– Có thể lắm. Nhưng bố của cô ả Anni Tudeer đúng là một tên phát xít.
Ruột gan của anh chàng đang sôi sục. Ước gì có thể bay tới đó hỏi Paula cho ra lẽ. Còn cô ả Anni Tudeer nữa. Chẳng lẽ mình bị xỏ mũi mà không hay?
Tư liệu về Anni chẳng có bao nhiêu nhưng bố của ả, ôi thôi, đủ thứ. Bố ả từng là sĩ quan cao cấp trong quân đội Phần Lan. Đại tá Aarne Tudeer là một thành viên trong Bộ tham mưu của tướng Mannerheim vào năm 1943. Vào năm ấy, Phần Lan kề vai sát cánh vơi Đức Quốc xã chống lại Liên Xô. Hắn từng là một sĩ quan quân đội SS. Dù là người Phần Lan, nhưng Tudeer lại rất khoái Đức Quốc xã, đặc biệt là Adolf Hitler.
Cuối năm 1943, hắn còn ngoi lên được tới chức sĩ quan tình báo cao cấp của SS rồi đến làm việc tại Đức. khi chiến tranh kết thúc, đột nhiên hắn biến mất. Theo một nguồn tin chính xác, hắn vẫn còn sống. Danh sách truy nã của đồng minh có tên Aarne Tudeer với tội danh diệt chủng.
Vào tháng Ba năm 1944, hắn đích thân hành hình năm mươi tù nhân chiến tranh đào thoát thất bại ở nhà tù Stalag Luft II ở Sagan. Sự kiện đẫm máu này trở thành vết son ô nhục trong lịch sử tội ác của Đức Quốc Xã.
Sau đó, hắn chiến đấu trong phân đoàn số II Pandex của SS từ Montauban cho tới Normandy. Càng lúc hắn càng bộc lộ thú tính, gặp ai cũng giết. Chỉ tiêng ngôi làng Oradout-sur-Glâne với sáu trăm bốn mươi hai người toàn đàn bà và trẻ con, hắn ra lệnh đốt sạch trong hơn mười ngày vào tháng Sáu năm 1944.
Rồi giọng của Bill Taner tiếp tục vang lên:
– Một tên tội phạm chiến tranh điển hình. Dù tuổi hắn dã xế chiều nhưng Đồng Minh vẫn không buông tha cho hắn. Vào những năm 50, người ta thấy
hắn xuất hiện ở Nam Phi rồi mất dạng. Có thể sau khi giải phẩu nhân dạng, hắn quay trở lại chau Âu vào thập kỷ 60.
Chà, liệu chừng không ổn. Hoàn toàn không ổn rồi. Cái tật lăng nhăng làm anh chàng không còn tỉnh táo. James yêu cầu cho xem qua chút tư liệu và hình ảnh của tên Tudeer. Nhìn ông M, anh chàng bẽn lẽn:
– Thế là cháu chẳng có cơ hội trở lại Helsinki tìm Paula và cô ả Anni Tudeer rồi.
Khẽ lắc đầu, ông ta đáp lại:
– Này 007, không còn nhiều thời gian nữa đâu. Đội đặc nhiệm đang rời khỏi khu vực tác chiến với hai lý do. Tới gặp cháu, hai bên cùng phân tích, đánh giá tình hình. Rồi lên kế hoạch cho bước cuối cùng của chiến dịch. Địa điểm, cách thức vận chuyển số vũ khí đến cho bọn NSAA, kẻ nào lãnh đạo các cuộc khủng bố và sào huyệt của bọn chúng đang ở đâu, họ đã nắm rất rõ. Giờ chỉ còn việc phá án.
Xoay xoay người trên chiếc ghế, nhồi cái tẩu rồi ông M nói tiếp. Lắng nghe, chàng điệp viên ngoại hạng càng lúc càng nổi da gà. Ậy cuộc họp kéo dài cho tới khuya.
Trở lại căn hộ Chelsea, James như vừa rời khỏi trại tập trung. Gân cốt rã rời, mặt mày bí xị. Nhìn anh chàng bà quản gia May phát rầu.
Vẫn với giọng ôn tồn, dịu dàng, bà ta bảo:
– Sao ông phờ phạc quá? Vào giường nằm nghỉ rồi tôi sẽ làm bữa tối mang lên. Đừng phí sức như thế. Có hại cho sức khoẻ đấy, ông James ạ.
Vài phút sau, bà May mang lên một mâm cá hồi nướng và món trứng chiên nghi ngút khói. Vừa ngồi ăn, anh chàng vừa tranh thủ đọc chồng thư để bên cạnh.
Ái chà, chẳng biết từ đâu, cơn buồn ngủ kéo tới, hai mắt muốn sụp mí. Ráng nuốt mấy miếng cho hết bữa, anh chàng ngả lăn ra, đánh một giấc cho tới sáng.
Chừng khi tỉnh dậy, anh chàng thấy trưa trờ, trưa trật. Kim đồng hồ đã chỉ 10 giờ. Ngồi dậy ngay, James gọi bà May đem bữa điểm tâm. Chưa đầy vài phút, chuông điện thoại cứ reo inh ỏi. Bên kia đầu dây, ông M cứ la toáng lên.
Chút thời gian còn lại ở Luân Đôn phải cắt xẻ manh mún cho nhiều việc. Cùng đám cộng sự mổ xẻ, phân tích, đánh giá tình hình xong, James lại phải gặp riêng Cliff Dudley nhận chuyển giao công việc.
Chà nhắc tới Cliff mới nói, một tay thấp người, cơ bắp săn chắc, tính tình nóng nảy của người Scốtlen. Vừa tôn trọng năng lực của hắn, anh chàng vừa khoái cái khoản bộc trực, dám nói dám làm.
– Nói thật nghe James, nếu mình có thời gian, mình sẽ theo duổi chiến dịch tới cùng. Nhưng lãnh đạo cứ bảo cậu thích hợp hơn. Ngay từ khi giao nhiệm vụ
cho mình, ông M đã nói rõ chuyện này. Ráng tự chăm sóc đấy. không ai có thể giúp được cậu đâu. Cái đám Moscow, cậu thừa biết rồi đó. Hẳn không cần mình nhắc nhở, đúng không? Có thể mình quá đa nghi nhưng cái gã ấy bụng dạ khó lường.
Chà, ý Cliff muốn nói tới Nicolai Mosolov nổi tiếng trong thế giới tình báo. Mấy tay ở KGB thường gọi hắn là Kolya, Mosolov thành thạo tiếng Anh, tiếng Mỹ, Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Ý, Tây Ban Nha, Phần Lan. Gần bốn mươi tuổi, hắn là ngôi sao sáng trong trường đào tạo tình báo ở gần Movosibirsk, từng làm việc cho nhóm Hỗ Trợ Kỹ Thuật cho các chuyên gia, thuộc phân cục thứ II của KGB.
Còn mấy tay Cục Phản Gián Hoàng Gia ấy à, họ biết Mosolov dưới hàng chục tên giả. Ở Hoa Kỳ, hắn mang tên là Nicholas S. Mosterlane, ở Thụy Điển và các nước Bắc Âu là Sven Flanders, ở Luân Đôn với cái tên Nicholas Mortin- Smith. Ấy, biết là biết vậy, nhưng chưa bao giờ tóm được hắn.
Bỗng ông M xen vào:
– Hệt như con tắc kè bông biết thay hình, đổi dạng. Chưa ai có thể lần ra tung tích của hắn. Ậy, bị sập bẫy rồi hắn còn cao bay xa chay.
Còn cái tay cộng sự người Mỹ nữa, anh chàng cũng chẳng khoái gì cho lắm. Hắn tên là Brad Tirpitz nhưng trong làng tình báo người ta cứ gọi đùa là Bad. từng là cựu sinh viên của trường đào tạo CIA, hắn thoát được bao cuộc tình giản biên chế ngay tai tổng hành dinh Langley, bang Virginie. Thuộc típ người hùng theo quan niệm “sống hay là chết”, tính tình khá ngổ ngáo. Một sồ người cứ coi hắn như một huyền thoại sống. Số còn lại lại coi thường ra mặt.
Tạm gọi Brad có một phương pháp thẩm tra rất độc đáo. Hắn thường to nhỏ với bạn bè: “Kết Quả Mới Đánh Giá Được Năng Lực”. Năng lực hắn muốn nói ở đây là tính bạo tàn của lũ sói và trái tim sắc đá của đám bò cạp.
Chà, lần này 007 gặp toàn đồng sự trời ơi, đất hỡi rồi: một gã người Moscow bụng dạ dẹp hòi, một tay CIA có máu lạnh, giết trước, hỏi sau.
Ngồi nghe ông M cùng với Bill Tanner triển khai nhiệm vụ cho tới khuya, rồi sáng hôm sau, anh chàng phải gặp mấy tay bác sĩ kiểm tra vết thương lại lần cuối.
Mãi cho tới 2 giờ trưa, anh chàng mới lên được chuyến bay TAP đi Lisbon, đón tiếp chiếc Boeing 727 tới Funchal.
Mặt trời đang xuống thật thấp. Dường như muốn chạm phải mặt nước. Những vừng sáng đỏ rực hắt vào bờ đá khi chiếc 727 chỉ còn cách mặt đất ở độ cao gần hai trăm thước. Vượt qua mũi dất Ponta de Sao Lourenco, đảo một vòng nhẹ, con chim sắt khổng lồ đáp tà tà lên đường băng đang nâng cấp.
Một giờ sau, chiếc tắc xi đưa anh chàng tời khách sạn Reid. Nghỉ qua đêm, sáng hôm sau anh chàng phải tìm gặp Mosolov, Brad và thành viên cuối cùng trong chiến dịch Icebreaker, một nhân viên tình báo của Mossad.
⬢
⬢ ⬢
Nghe lời mô tả của Clifford về cô nàng, James cứ mở to mắt, miệng cứ xuýt xoa, lộ vẻ kinh ngạc. Một cô gái tóc vàng có thân hình tuyệt mỹ, cao non thước bảy, gương mặt xinh đẹp như thần Vệ Nữ, nói năng sắc sảo, đầu óc …
Sốt ruột, anh chàng hỏi ngay:
– Đầu óc thì sao nào?
– Hết xẩy. Cô nàng tuổi gần ba mươi. Nói thật nghe, mình ghét làm việc chung với cô ta …
Khẽ mỉm cười, anh chàng thốt lời mỉa mai:
– Ganh tị chứ gì?
– Theo ông M, ngoài cái tên Rivke Ingber, hồ sơ không ghi nhận lại chút xíu nào hành tung của cô ta. Lại gặp một nhân vật thần bí nữa. Giờ đây, anh chàng đang dõi mắt về phía hồ bơi nằm bên hông khách sạn. Xuyên qua cặp kính mát, James tìm kiếm từng gương mặt, hình dáng.
Một lúc sau, từ mặt nước nhấp nhô, thần Vệ Nữ với mái tóc vàng óng ả, trau chuốt, xuôi người ngụp lặn. Ồ, không bút mực nào có thể mô tả từng chi tiết một dáng vẻ tuyệt mỹ trong bộ Bikini Cardin.
Khẽ xoay người trên chiếc ghế, dù vết thương ở vai đang lành chợt đau nhói, anh chàng vẫn dán mắt vào cặp đùi dài thon thả, cách đưa tay chậm chạp nhưng đầy vẻ gợi tình.
Quả là ông M có con mắt tinh đời, khéo chọn điểm hẹn ở chỗ này. Dọc theo hàng trăm khách sạn chứa khách du lịch chật như nêm từ Gran Canaria đến Corfu, Reid là một trong số ít còn mang hơi hướng của những năm 30: khung cảnh thơ mộng, trữ tình, đám nhân viên phục vụ đúng khuôn phép, nhà hàng hợp khẩu vị.
Đưa tay dụi dụi mắt, anh chàng cố tìm kiếm Mosolov và Tripitz. Quái, trong đám đông bát nháo, chẳng thấy bong dáng của hai gã này. Chỉ có Rivke Ingber là không có tấm hình nào trong hồ sơ.
Nhớ lại buổi bàn giao công việc, nheo nheo mắt Clifford nói úp úp, mở mở:
– Ậy, cô ấy rất dễ tìm. Trước sau gì, cậu cũng nhận ra thôi.
Giờ mọi người đang từ từ bước về phía nhà hàng lộ thiên nằm dọc hai bên hồ bơi. Trên những chiếc bàn dài, bữa tiệc bup-phê bày la liệt. nào là các món rau trộn, thịt nguội, súp, xốt cà phô-mát, bánh nhân thịt … Hàng trăm thứ, chẳng thể nào nhớ nổi.
Nhổm người dậy, trong chiếc áo choàng bằng vải bong xù, James bước thong thả về phía dãy bàn. Vừa gắp mấy lát thịt nguội, mớ xà lách, bông anh chàng nghe một chất giọng thánh thót vang lên:
Có muốn dùng chút rượu không, anh James? Cho lòng bớt giá băng?
Không quay mặt lại, anh chàng lên tiếng:
– Có phải là cô Ingber không nào?
– Vâng, thoáng qua chút xíu tôi biết ngay là anh. Chúng ta dùng bữa chung với nhau nhé. Mấy người nữa cũng sắp tói rồi đấy.
Khẽ nhìn sang, anh chàng thấy đúng là cô gái tóc vàng xinh đẹp, làn da ngả sang màu đồng trông rất ấn tượng. Dáng vẻ trẻ trung, căng đấy nhựa sống của Ingber làm người ta chợt nhớ đến các vận động viên ở các kỳ Thế Vận. Gương mặt mang dáng dấp của những người Bắc Âu, cặp mắt đen sậm, đôi môi gợi tình trên chiếc cằm cương nghị, trong cô nàng thật hấp dẫn.
– Xin chào cô Ingber. Chưa gì cô tấn công từ mạn sườn của tôi rồi.
Mỉm cười, chiếc miệng xinh xắn đáp lại:
– Xin chào, anh James.
Trên tay cô nàng là một cái dĩa với mấy miệng ức gà, cà chua xếp lát, vài thứ rau trộn. Vẫy ta về chiếc bàn gần đấy, anh chàng nhường cho Ingber đi trước. Chà, trông cái dáng nhún nhảy của cô nàng mới gợi tình làm sao!
Mải nhìn ngắm Ingber, James chẳng còn biết trời đất chung quanh. Giờ ngồi đối diện với anh chàng bảnh trai hơn cả mấy siêu sao màn bạc, Ingber cứ dùng lưỡi miết miết làn môi phía trên.
– Anh có biết không …
Ngừng một chút, cô nàng thì thầm:
– … Tôi từng nói với các đồng nghiệp: tôi rất mong được cùng làm việc chung với anh.
Cố gắng dò xét ánh mắt nâu đậm của cô gái, tay James cầm cái nĩa quơ quơ trước mặt:
– Thế ư?
Tiếng cười của Ingber vang lên giòn giã.
– Clifford chưa kể cho anh nghe à?
Tròn xoe đôi mắt, anh chàng tỏ vẻ chưng hửng:
– Không hề. Thời gian quá ngắn ngủi, tôi chỉ nghe báo cáo tình hình rồi thu xếp công việc tới đây. Chỉ biết một điều đội hành động gồm các thành viên rất kỳ lạ. Trước giờ, tôi chưa từng làm việc theo kiểu này.
Lẫn trong tiếng cười, Ingber đáp lại:
– Tạm gọi là tình cách có phần trái ngược nhau. Brad Tirpitz có vẻ hơi thô lỗ. Còn Clifford cứ xung khắc với hắn ta. Tôi cảm thấy hơi phiền nhiễu. Giữa tôi và Brad lại không có chuyện gì.
Vừa ăn, anh chàng vừa hỏi về chiến dịch. Rồi làn môi dưới của Ingber trề ra, thoáng vẻ khêu gợi.
– Chúng tôi sẽ báo cáo cụ thể với anh trong cuộc họp. Nói thật nghe, dường như họ có vẻ coi thường tôi.
– Thế là mấy tay dồng nghiệp hẳn quá ngu xuẩn rồi.
Khẽ than thở, cô nàng đáp lại:
– Không hề. Chỉ phải cái tội “trọng nam, khinh nữ”. Họ không nghĩ sẽ làm việc chung với phụ nữ.
Gương mặt của anh chàng vẫn bình thản:
– Với tôi, đồng nghiệp nam hay nữ không thành vấn đề. Miễn sao làm tốt nhiệm vụ. Sao cô không nói gì đến chiến dịch?
Khẽ lắc đầu, cô nàng đáp lại:
– Đừng có vội, anh James. Cứ gặp họ rồi bàn cũng được mà.
Nhìn ánh mắt của Ingber, anh chàng thấy có vẻ kỳ lạ. Khi thì dường như mơ màng, thân thiện, lúc lại lạnh lung băng giá. Chẳng biết trong đầu cô ta nghĩ gì.
Suốt bữa ăn nhẹ, anh chàng không hỏi tới công vụ. Thậm chí chẳng có nửa lời thắc mắc về cuộc sống riêng tư của cô ta.
James xoay quanh mấy câu chuyện về đất nước Israel với bao khó khăn còn tồn đọng.
Lấy khăn chậm chậm vào môi, ánh mắt cô nàng hướng về phía khách sạn.
– Này anh James, đã tới lúc chúng ta gặp mấy chiến hữu rồi đó.
Theo lời của Ingber, có lẽ Mosolov và Brad nãy giờ đứng ở ban công nhìn xuống. Cả ba đều ở các phòng liền nhau trên lầu bốn, mặt hướng ra khu vườn và toàn cảnh hồ bơi.
Bước vào dãy phòng thay đồ một lúc rồi hai người bước ra. Rivke trong chiếc váy xếp li sẫm màu, áo sơ mi trắng. Còn anh chàng thay chiếc sơ mi mùa hè, quần chùng màu xanh nước biển.
Sánh bước vào khách sạn, họ theo thang máy lên tới lầu bốn.
– Ồ, xin chào ông James.
Đúng như lời của các chuyên gia, tay Mosolov thuộc típ người khó tả. Thoáng nhìn dáng vẻ của hắn, người ta không thể đoán là bao nhiêu tuổi. Chỉ phỏng chừng từ hai mươi mấy cho tới bốn mươi. Gương mặt hắn luôn thay dổi cảm xúc, hệt như đám kịch sĩ chuyên nghiệp. Còn tiếng Anh của Mosolov khá
thành thạo, mang chút hơi hướng của đám người ở vùng ngoại ô Luân Đôn, tuy thỉnh thoảng chêm vào mấy từ thông tục.
Bắt tay anh chàng, hắn tự giới thiệu:
– Cứ gọi tôi là Kolya Mosolov.
Ánh mắt xám sậm màu tẻ nhạt, cái bắt tay hời hợt, Mosolov nhìn anh chàng hờ hững.
– Rất vui được biết ông bạn.
Cố tạo vẻ thân thiện, anh chàng mỉm cười với gã đàn ông có mái tóc vàng hớt cao. Từ tướng mạo cho tới dáng dấp của hắn chẳng có gì nổi bật. Áo sơ mi ngắn tay sọc carô nâu cùng chiếc quần chùng may quá tệ. Hệt như tiếc tiền, hắn giao đồ cho mấy tên thợ may mới học việc.
Chỉ một chiếc ghế ý mời anh chàng ngồi, cử động của Mosolov khá nhanh nhẹn.
– Ông bạn có biết qua Brad Tirpitz chưa?
Ễnh người trên ghế là một gã bự con, tóc húi cua, bàn tay to bè. Còn gương mặt góc cạnh hệt như đá tảng. Chợt anh chàng thấy mép trái miệng của gã có vài vết bầm mờ mờ.
Uể oải đưa bàn tay lên chào, Brad cất cái giọng khàn khàn, hệt như mấy tay anh chị trong phim hành động.
– Chúc mừng anh bạn tham gia vào đội.
Chẳng thấy chút hoan hỉ trong giọng nói của gã.
Nhấn mạnh vào từ ÔNG, anh chàng đáp lại:
– Thật là hân hạnh, thưa ÔNG …
– Brad.
Giọng khá cộc cằn nhưng hình như thoáng có nụ cười trên gương mặt quạu đeo.
Rồi Mosolov xen vào:
– Ông bạn có nắm được tình hình?
– Chỉ chút tí …
Bước vào trong, mỉm cười Rivke lên tiếng:
– Anh James bảo với tôi thời gian gấp rút quá. Anh ta chưa nắm được vấn đề.
Nhún vai, Mosolov ngồi xuống, đưa tay chỉ một chiếc ghế. Còn Rivke sà vào chiếc giường, rút hai chân qua một bên.
Kéo chiếc ghế vào sát tường, anh chàng chọn vị trí có thể quan sát cả ba người, hướng tầm mắt qua cửa sổ và ban công.
Hít một hơi thật sâu, Mosolov lên tiếng trước:
– Chúng ta không có nhiều thời gian. Trong vòng bốn mươi tám tiếng, chúng ta phải rời khỏi đây đến khu vực hành động.
Vẫy tay ra hiệu, anh chàng xen vào:
– Ở đây nói chuyện liệu có an toàn không?
Cười khục khặc, Brad đáp ngay:
– Đừng có lo, ông bạn à! Phòng của tôi ở sát vách. Hơn nữa, chỗ này ngay góc của toà nhà, tôi rà đi, soát lại khá nhiều lần rồi.
Trong lúc ấy, Mosolov cứ kiên nhẫn chờ. Vài giây sau đó, hắn mới tiếp tục.
– Anh bạn nghĩ sao về biệt đội hành động kỳ quái này? CIA, Mossad, KGB và Cục Phản gián Hoàng Gia Anh Quốc?
Ông M từng cảnh báo với anh chàng điều này. Cái tay Mosolov có thể muốn giữ riêng bí mật cho KGB. Phải giử kẽ từng ly, từng tí mới được. Bụng dạ hắn thật khó lường.
– Vâng, tôi có nghĩ đến chuyện này. Tạm gọi chúng ta cùng ngồi chung một chiếc thuyền. Dù có khác quan điểm, ý thức hệ nhưng chúng ta hoàn toàn có thể chia sẻ mối quan tâm với nhau. Vì hoà bình thế giới, an ninh khu vực. Đại loại là như thế.
Mosolov đáp lại ngắn gọn:
– Chính xác. Thôi nào, tôi sẽ kể lại vài nét chính của chiến dịch.
Ngừng lại, hắn đảo mắt quanh căn phòng.
– Nào Rivke, Brad, nếu có điểm nào thiếu sót, xin hai người bổ xung váo nhé.
Rivke khẽ gật đầu, còn Brad cười to.
– Vâng, thế chúng ta đi váo vấn đề.
Tay Mosolov hệt như một kịch sĩ tài năng. Từ ánh mắt của ông giáo già nghiêm khắc, hắn chuyển sang vẻ sắc sảo của mấy tay quản lý cứng rắn, quả quyết.
Nhìn hắn, anh chàng cảm thấy hứng thú. Chẳng biết hắn học diễn xuất ở đâu?
– Chắc ông bạn thừa biết cái gọi là Binh Đoàn hành Động Quốc Xã? Một tổ chức khủng bố chuyên nghiệp đang nhắm vào đất nước của tôi và đe doạ đến an ninh của khu vực. Dĩ nhiên, không loại trừ đất nước của quý vị. Chủ nghĩa Phát xít theo kiểu cũ, tạm gọi là như thế.
Phá lên cười, Brad chêm vào:
– Chủ nghĩa Phát xít cũ được cãi tiến.
Phớt lờ, Mosolov nói tiếp. Hình như đấy là cách duy nhất đáp lại thái độ châm chọc, lém kỉnh của Brad.
– Chính quyền của các nước có nơi bị bọn NSAA tấn công đều thừa nhận không tìm thấy chút manh mối.
Ngừng lại một chút, hắn đảo mắt quanh các “khán giả”, ánh mắt lộ vẻ ngiêm trọng.
– Nhưng thật ra có nhiều đầu mối đấy. Chúng tôi có những bằng chứng cụ thể về cái bọn dựng nên NSAA. Chính quyền của chúng ta cùng chia sẻ nguồn thông tin này. Tại Anh, Thụy Điển, Đức, Nam Phi, chúng đều có nguồn hỗ trợ, căn cứ địa cho thứ cặn bã của cái gọi là Đệ Tam Quốc xã sau khi cuộc Chiến Tranh Vệ Quốc Vĩ Đại …
Ủa, mà quên. Phải nói là sau chiến tranh thế giới thứ II mới đúng.
Mỉm cười trong bụng, anh chàng thừa biết hắn cố tình dùng mấy chữ đặc Nga để nói về thế chiến thứ II. Chẳng phải là lỡ lời như hắn đính chính đâu.
Ra vẻ bẽn lẽn, Mosolov nói chữa:
– Ậy, tôi không theo chủ nghĩa cuồng tín. Tôi cũng không bị bọn NSAA ám ảnh. Mà này, giống như nhận định từ phía chính quyền của quý vị, tổ chức này ngày càng lớn mạnh. Đó là một mối hiểm hoạ …
– Không hẳn là như vậy.
Lấy một điếu thuốc từ gói thuốc Camel, dọng dọng cái đầu lọc lên ngón tay cái, châm lửa hút, Brad xen vào.
– Thông qua chuyện đó đi Mosolov. Binh Đoàn Hành Động Quốc Xã làm cho đất nước của ông bạn nổi da gà, dựng tóc gáy cả lên.
Cố tình phớt lờ lần nữa, Mosolov nhắc lại:
– Vâng, đó là mối hiểm họa cho toàn thế giới. Chẳng riêng gì Xô Viết và khối Động Âu.
Ấy, Brad đâu phải tay vừa. Hắn càu nhàu:
– Nhưng Xô Viết là mục tiêu chính của bọn chúng.
– Này Brad, anh bạn thừa biết mà, hiểm hoạ không chỉ dành cho riêng ai. Vì thế, chúng ta phai đoàn kết lại. Hoa Kỳ, Israel và cả nước Anh nữa.
Quay về phía anh chàng, hắn nói tiếp:
– Chắc ông bạn cũng rõ, toàn bộ số vũ khí của bọn NSAA đều do Nga sản xuất. Sau hơn năm mươi vụ thảm sát, Uỷ Ban Trung Ương đã chính thức công bố. Một số chính quyền và các cơ quan tình báo lại cáo buộc chúng tôi cung cấp vũ khí cho bọn này thông qua các nước Trung Đông. Nhưng tất cả đã lầm. Ai lại đi nối giáo cho giặc chứ? Chúng tôi có bằng chứng về chuyện này.
Brad lại xen vào:
– Thế là có kẻ chôm chỉa số vũ khí ấy à?
Mosolov đáp lại ngay:
– Hoàn toàn chính xác. Mùa xuân năm ngoái, trong cuộc kiểm tra đột xuất các kho vũ khí, một sĩ quan cao cấp của Hồng Quân đã phát hiện giữa con số thống kê về quan trang quan dụng thực tế chênh lệch rất lớn. Không ai có thể giải thích được số mất mát.
Nhổm người dậy, hắn đi tới một cái cặp táp, lấy ra tấm bản đồ to rồi trải trên tấm thảm ngay trước mặt của anh chàng. Đưa tay chỉ vào một điểm, giọng hắn có vẻ căng thẳng:
– Chính chỗ này. Gần Alakurtti, chúng tôi có một kho quân nhu rất lớn …
Alakutti là vùng đất nằm cách biên giới Phần Lan khoảng sáu mươi cây số về hướng Đông, sát với Bắc Cực. nếu tính từ chỗ anh chàng tập huấn, nó cách Đông Bắc của Rovaniemie độ hai trăm cây số. Vâng, một vùng đất khô cằn sỏi đá, loe hoe vài cây thông. Vào mùa này trong năm, băng giá bao phủ từng mảng dày.
Rồi Mosolov tiếp tục:
– Mùa đông năm ngoái, nơi này lại bị tấn công. Dò theo mã số trên vũ khí của bọn NSAA, chúng tôi biết chúng đều có nguồn gốc từ Alakutti.
Thế là anh chàng thắc mắc ngay:
– Thực tế mất những gì?
Thộn cái mặt ra, Mosolov đọc vanh vách:
– Kalashnikuv, RPK, AK, AKM, súng lục Makarov và Stechkin, lựu đạn RDG-5 và RG-42 … cùng một số lượng lớn đạn dược.
– Có thứ nào hoả lực mạnh hơn không?
Lắc đầu, Mosolov đáp lại:
– Không. Nhưng đã mất rất nhiều.
Hỏi là hỏi cho vui thế thôi, chớ ông M đã báo cho anh chàng biết rõ về vụ này. Tay Mosolov cố tình bỏ sót một số vũ khí quan trọng: loại RPG-7V chống tăng cùng với rất nhiều đầu đạn hạt nhân chiến lược, vũ khí hoá học, tên lửa quy ước. Những thứ này thừa sức huỷ diệt cả một thị trấn với bán kính hơn năm mươi dặm.
– Toàn bộ số vũ khí này mất vào khoảng mùa đông năm ngoái. Tại căn cứ Blue Hare, chúng tôi chỉ có một trạm canh nhỏ. Viên đại tá được phái đi điều tra ngay lập tức mật báo về cho GRU.
Khẽ gật đầu ra vẻ hiểu biết, James mỉm cười. GRU có nghĩa là Cục Quân báo Xô Viết, một cơ quan có mối quan hệ dây mơ rễ má với KGB. Dĩ nhiên, GRU phải đứng mũi chịu sào ba cái vụ này chứ sao.
– Thế là GRU phái hai điều tra viên đi dò la tin tức.
– Họ hoàn thành nhiệm vụ?
– Vâng, họ tìm ra được bọn chủ chốt đường dây trộm cắp vũ khí đem ra chợ trời bán.
– Ông bạn biết chúng vận chuyển như thế nào?
Mỉm cười ra vẻ đắc chí, Mosolov đáp lại ngay:
– Không những thế, chúng tôi còn nắm được số hàng ấy được chuyển tới đâu. Vùng biên giới giữa Phần Lan và Nga. Vâng, một nơi thật khó kiểm soát. Thiên hạ cứ qua lại nườm nượp mỗi ngày. Để thông thoáng, chúng tôi phải chặt bỏ cánh rừng dài mấy dặm.
Anh chàng bèn ướm lời, hỏi tiếp:
– Ông bạn không biết chính xác địa điểm tập kết?
Giọng của Mosolov có vẻ ngần ngại:
– Vâng, chỉ là chút phỏng đoán. Không chính xác lắm. Nhưng không sao, mấy cái vệ tinh của chúng tôi cứ quay vòng vòng ngoài kia cố dò theo dấu vết. Còn nhân viên của KGB và GRU đang mở to mắt lần theo mấy điểm khả nghi. Thật ra, chúng tôi cũng chẳng rõ chúng cất giấu ở đâu.
Quay sang hai người kia, anh chàng lặp lại câu hỏi:
– Chắc hai vị cũng không rõ?
Trầm tĩnh, Rivke đáp lại:
– Ông Mosolov nói thế nào, chúng tôi tôi biết thế đó. Đây là một chiến dịch dựa trên niềm tin, đúng không nào?
Còn Brad lững lờ nước đôi:
– Langley có báo cho tôi một cái tên nhưng không thấy ai nhắc tới.
Anh chàng bèn hỏi Mosolov cái tên gì. Quái, hắn đột nhiên làm thinh. Hình như hắn muốn giấu nhẹm chuyện gì.
– Cũng không chắc chắn …
Cảm thấy bực, anh chàng định nói, Mosolov lập tức xía vô:
– Tuần rồi … vâng, trong tuần qua, chúng tôi đã moi ra được chút manh mối. Hai điều tra viên của GRU báo cáo thêm một chuyến hàng nữa bị đánh cắp và chuyển đi. Vì thế, chúng tôi không đủ thời gian để kiểm tra lại nguồn tin. Chúng ta phải cùng nhau tìm vật chứng, đường dây vận chuyển, theo dõi đến tận nơi cất giấu. Hẳn là mớ hàng này đã tới một khu vực mới của bọn NSAA.
Cười thật tươi, anh chàng nói huỵch toẹt:
– Tên ăn hàng có phải là bá tước konrad Von Gloda?
Rivke làm thinh, không chút cảm xúc. Còn Brad cứ cười khúc khích:
– Chà, Luân Đôn cũng khá quá chứ. Nắm tin chẳng khác gì Langley.
Khẽ giựt mình, Rivke lên tiếng:
– Bá tước Von Gloda là ai? Kỳ vậy, sao chưa ai nói cho tôi nghe chuyện này?
Lấy hộp thuốc từ trong túi quần ra, rút một điếu, châm lửa rồi anh chàng rít một hơi.
– Cả Luân Đôn và CIA đều biết rõ tên chủ chốt của NSAA ở Phần Lan chính là bá tước Konrad von Gloda. Đúng không nào, ông bạn người nga?
Ánh mắt của Mosolov cứ mờ nhạt.
– Đó là một mật mã. Một biệt danh, đại loại là như thế. Cho tới bây giờ, thông tin ấy không có căn cứ.
– Tại sao không? Ông bạn còn điều gì chưa tiện nói ra?
– Phải chi tôi có thể dẫn ông bạn tới sào huyệt của Konrad von Gloda ở Phần Lan. Cả nơi chúng tôi tiến hành kiểm tra tuần rồi ở căn cứ Blue Hare. Có tới Nga, ông bạn mới hiểu tại sao.
Thật tức cười! Một gã KGB muốn mới anh chàng bước vào mạng lưới chằng chịt với lý do mục kích hiện trường của vụ chôm chỉa. Phải thông qua chuyện này mới hoàn thành được chiến dịch Icebreaker? Hay Icebreaker chỉ là cái cớ dụ anh chàng ngay trên đất Nga?
Trước khi anh chàng rời khỏi Luân Đôn tới Madeira, chẳng phải ông M đã từng nhắc nhở điều này?