Bạn đang đọc Ring – Vòng tròn Ác nghiệt – Chương 22
Thứ Tư, ngày 17 tháng Mười Đứng trên ngã tư cắt giữa đại lộ Omotesando và Aoyama, lại một lần nữa Yoshino rút ra cuốn sổ tay. Nhà trọ Sugiyama, 6-1 Minami-Aoyama. Đó là địa chỉ của Yamamura Sadako hai lăm năm trước. Yoshino đang phải nếm trải cảm giác tuyệt vọng vì ngôi nhà trọ không còn ở địa chỉ này nữa. Rẽ từ đại lộ vào, lô 6-1 nằm ngay cạnh Viện Bảo tàng Mỹ thuật Nezu. Tuy nhiên, đúng như những gì Yoshino lo lắng, một tòa chung cư tráng lệ xây bằng gạch đỏ đã mọc lên thế chỗ cho ngôi nhà trọ rẻ tiền kia. … Một việc bất khả thi về căn bản. Làm sao có thể biết được tung tích của một nhân vật cách đây đã hai lăm năm. Manh mối còn lại là bốn diễn viên học nghề cùng gia nhập đoàn kịch một đợt với Yamamura Sadako. Trong số bảy người này, Yoshino chỉ tìm thấy được địa chỉ liên lạc của bốn người. Nếu bọn họ không có tin tức gì của Sadako thì coi như mọi sợi dây đều bị cắt đứt. Yoshino chỉ còn cách nghĩ như vậy. Anh ta nhìn đồng hồ, đã quá mười một giờ đêm. Lao vội tới một cửa hàng văn phòng phẩm, anh ta bắt đầu gửi fax cho ban tin tức ở Izu Oshima để thông báo cho Asakawa biết những điều vừa thu thập được. Trong lúc ấy thì Asakawa và Ryuji đang có mặt tại nhà Hayatsu, nơi đặt văn phòng của ban tin tức. – Này, Asakawa! Cậu phải bình tĩnh chứ. – Nhìn thấy Asakawa sốt ruột đi đi lại lại, Ryuji quát. – Rối lên thì làm được gì nào? Vận tốc gió cực đại, khí áp vùng gần tâm bão lên tới… millibar (Đơn vị đo khí áp. Hiện nay được thay thế bởi đơn vị có tên gọi hectopascal. 1 millibar bằng 1 hectopascal), gió thổi theo hướng đông bắc… nằm trong khu vực gió mạnh kèm theo mưa lớn… sóng dâng cao dữ dội. Thông tin về cơn bão số 12 đang phát trên đài như chọc tức Asakawa. Vị trí tâm bão nằm ở ngoài khơi cách mũi đất Omaezaki 150km về phía nam, mỗi giờ bão đi được 20km về hướng đông bắc với vận tốc gió đạt 40m/s. Cứ theo đà này, chắc chắn chiều tối nay bão sẽ tới ngoài khơi đảo Oshima. Theo suy đoán của Hayatsu, có lẽ phải hết ngày mai, tức là qua thứ Năm, các chuyến bay và thuyền ra đảo mới hoạt động trở lại. – Cậu có biết thứ Năm nghĩa là gì không? … Mười giờ tối mai là hạn cuối của tao rồi. Cơn bão khốn kiếp kia, mau cuốn xéo đi! Mau yếu thành áp thấp nhiệt đới cho tao nhờ!- Khi nào thì thuyền và máy bay trên đảo mới hoạt động cơ chứ! Asakawa không còn biết phải trút cơn giận vào đâu. … Đáng lẽ ta không nên đến đây. Ta không còn thời gian để hối hận. Mà ta biết phải hối hận từ đâu bây giờ? Đáng lẽ ta không nên xem cuộn băng ấy. Đáng lẽ ta đừng có bận tâm về Oishi Tomoko và Iwata Shuichi. Đáng lẽ ta không được bắt chiếc taxi hôm nào… Khốn nạn! – Tớ đã bảo cậu phải bình tĩnh cơ mà. Cậu không hiểu à? Cậu than vãn với bác Hayatsu thì ích gì? – Ryuji nắm lấy tay Asakawa, bằng một cử chỉ dịu dàng kỳ lạ. – Cậu nghe này, biết đâu câu thần chú phải được thực hiện trên hòn đảo này? Có khả năng đó lắm chứ. Tại sao bọn nhóc lại không thực hiện câu thần chú? Vì chúng không có tiền để tới đảo Oshima. Đấy, hoàn toàn có thể phải không nào. Cứ coi trận bão này là một cơn gió phước lành, rồi cậu sẽ bình tâm lại. – Nhưng đó là chuyện sau khi đã tìm ra câu thần chú! Asakawa hất tay Ryuji ra. Thấy hai người đàn ông đã trung tuổi mà cứ ầm ĩ chuyện bùa ngải, Hayatsu và vợ, bà Fumiko, đưa mắt nhìn nhau. Nhưng Asakawa lại ngỡ họ đang cười mình. – Có gì đáng cười ở đây nào? Ruiji giật mạnh tay Asakawa khi gã định sấn về phía hai ông bà già. – Cậu có thôi đi không. Cuống quít lên như thế cũng chẳng giải quyết được gì đâu. Chứng kiến nỗi bức xúc của Asakawa, một người tốt bụng như Hayatsu bắt đầu cảm thấy trách nhiệm của mình trước việc tàu thuyền và máy bay bị hoãn chuyến vì cơn bão. Mà không, phải nói rằng ông bỗng thấy cảm thông với một con người đang khổ sở vì sự ảnh hưởng của cơn bão ngay trước mắt mình. Ông không ngớt cầu nguyện cho công việc của Asakawa được thuận lợi. Tuy sắp có fax từ Tokyo gửi tới, nhưng ông vẫn muốn làm một điều gì đó hòng thay đổi tình hình vì cho rằng việc chờ đợi chỉ làm tăng thêm sự bức bối. – Công việc điều tra tiến triển được nhiều chưa hả các anh? Hayatsu ôn tồn hỏi như để trấn tĩnh Asakawa. – Vâng, cũng tạm được. – Có một người bạn hồi nhỏ của Yamamura Shizuko sống ở ngay gần đây, hay là tôi gọi tới để các anh hỏi chuyện? Ông cụ tên là Gen, trời mưa bão thế này không ra biển được chắc ông cụ cũng buồn. Được gặp các anh ông ấy sẽ vui lắm đấy. Hayatsu tính rằng nếu kiếm cho gã một ai đó để phỏng vấn có thể gã sẽ nguôi ngoai. – Ông lão đã gần bảy mươi tuổi rồi, chẳng biết có được việc cho các anh không nhưng như thế còn hơn phải ngồi chờ, đúng không nào. – Dạ… Không đợi câu trả lời của Asakawa, Hayatsu ngoái đầu vào bếp sai vợ: “Bà nó, mau gọi điện cho ông Gen bảo ông ấy đến đây ngay.” Đúng như lời Hayatsu, Genji nói chuyện rất hào hứng. Ông lão vô cùng vui vẻ khi kể về Yamamura Shizuko. Genji hơn Shizuko ba tuổi, năm nay đã sang tuổi sáu mươi tám. Shizuko vừa là bạn nối khố vừa là người tình đầu tiên của ông. Việc nói chuyện với người khác đã làm các ký ức của ông mạch lạc hơn, hay chính trạng thái kích thích vì có người nghe đã khiến cho những kỷ niệm dễ dàng được khơi lại? Đối với Genji, kể về Shizuko cũng giống như kể về tuổi thanh xuân của mình vậy. Tuy bập bõm, nhưng câu chuyện Genji kể về Shizuko với những giọt lệ đôi khi ngấn lên trong mắt đã đem lại cho Asakawa và Ryuji một chút hiểu biết về con người này. Tuy nhiên, họ hiểu rằng không cần phải tin tất cả. Những kỷ niệm bao giờ cũng được đánh bóng, vả lại, hơn hết, chuyện xảy ra đã cách đây bốn mươi năm rồi. Biết đâu đấy, ông lão lại chả lẫn lộn với một người đàn bà khác? Nhưng mà không, không thể có chuyện ấy được. Đối với đàn ông, người phụ nữ của mối tình đầu là một cái gì đó đặc biệt, chưa chắc ông lão đã nhầm. Không thể cho rằng Genji là người khéo kể chuyện, lối kể chuyện của ông vòng vo và tối nghĩa. Quả thật là Asakawa đã bắt đầu thấy ngán. Thế rồi, có một câu nói của ông lão hốt nhiên khiến Asakawa và Ryuji chú ý. “Shizuko nhỏ bé của tôi bỗng nhiên đổi khác. Rõ ràng là tại nó. Bức tượng vị hành giả bằng đá nàng vớt từ dưới biển lên vào một đêm trăng tròn…”. Theo lời kể của ông, một sức mạnh lạ lùng nào đó đã nhập vào Shizuko, mẹ của Yamamura Sadako, và việc này có quan hệ mật thiết với biển trong đêm trăng tròn. Genji bảo, vào cái đêm mà chuyện đó xảy ra, ông đã ngồi chèo thuyền ngay bên cạnh Shizuko. Ấy là một đêm cuối hè năm 1946, khi Shizuko hai mươi mốt và Genji hai mươi bốn. “Đêm xuống, thế mà cái nóng của ban ngày chẳng dịu đi tẹo nào”, Genji kể lại sự việc của bốn mươi tư năm trước như thể nó vừa mới xảy ra tối hôm qua. Trong một đêm oi ả như thế, dưới ánh trăng vằng vặc. Genji ngồi ngoài hiên, vừa phe phẩy quạt vừa ngắm nhìn mặt biển tĩnh lặng không một tiếng sóng đang phản chiếu bầu trời đêm. Thế rồi sự yên ắng bị phá tan khi Shizuko lao lên từ con dốc trước nhà và đứng khựng trước mặt Genji. “Gen ơi, em muốn đi câu, đẩy thuyền ra đi!”, không một lời giải thích, cô kéo tay áo Genji. Genji có hỏi, cô chỉ nói: “Chẳng mấy khi có đêm trăng sáng thế này.” Genji chỉ biết ngồi thần ra đó ngắm nhìn người con gái đẹp nhất đảo Oshima. “Thôi cái mặt ngốc nghếch ấy đi, mau lên nào…”, Shizuko túm cổ áo Genji xềnh xệch lôi anh dậy. Genji bao giờ cũng chiều theo ý Shizuko. “Nhưng em định câu gì?”, Genji hỏi lại song Shizuko chỉ đáp nhẹ tênh: “Tượng ông hành giả bằng đá” và vẫn không rời mắt khỏi biển. – Ông hành giả…? “Quân chiếm đóng” (chỉ quân Mỹ vào tiếp quản Nhật Bản sau khi nước này thua trận trong Thế chiến II) vừa ném tượng ông hành giả bằng đá xuống biển vào buổi trưa nay”, Shizuko nhướn mày ấm ức nói. Trên Bãi cát Hành giả nằm ven bờ biển phía đông có một cái hang nhỏ mà người ta gọi là Động Hành giả. Trong động có một bức tượng đá của nhà tu hành En-no-Ozunu, người đã phiêu dạt tới đó vào năm 699 sau Công nguyên. Tương truyền, từ khi sinh ra, Ozunu đã tỏ ra vô cùng thông tuệ, sau khi tu luyện, ông học được chú thuật và tiền thuật, bằng những thuật này ông có thể dễ dàng sai khiến được quỷ thần. Tuy nhiên, khả năng tiên tri mà Ozunu để lộ ra đã khiến những kẻ cầm quyền hốt hoảng và rồi ông bị đày ra đảo Izu Oshima này như một tội nhân gây rối xã hội. Câu chuyện xảy ra cách đây đã gần 1300 năm. Ozunu ẩn mình trong một cái hang ven bờ biển và tiếp tục tu hành, ông truyền cho dân đảo nghề nông và nghề cá, ai ai cũng kính trọng ân đức ấy của ông. Tuy nhiên sau đó ông được tha bổng và trở về đất liền rồi lập nên giáo phái Mật tông Nhật Bản. Ông ở trên đảo Oshima khoảng ba năm và một truyền thuyết còn lưu truyền đến ngày nay kể rằng, trong thời gian đó có lần ông đi một chiếc guốc sắt và bay đến tận núi Phú Sỹ. Lòng ngưỡng mộ vô hạn của dân đảo dành cho ông khiến Động Hành giả trở thành chốn linh thiêng bậc nhất ở đây và lễ hội có tên Hội Hành giả năm nào cũng được tổ chức vào ngày 15 tháng Sáu trên đảo. Tuy nhiên, ngay sau khi cuộc chiến tranh Thái Bình Dương chấm dứt, quân chiếm đóng đã ném bức tượng đá En-no-Ozunu thờ trong Động Hành giả xuống biển để thể hiện chính sách của chúng đối với Thần giáo và Phật giáo. Hành động ấy không thể lọt qua mắt Shizuko. Với lòng tín ngưỡng sâu sắc dành cho En-no-Ozunu, Shizuko giấu mình giữa những tảng đá trên Bãi Mũi Giun, quan sát và khắc ghi thật kỹ vị trí của bức tượng đá mà tàu tuần tiễu của hải quân Mỹ đã ném xuống. Genji không tin vào tai mình khi nghe Shizuko nói đến việc đi câu tượng hành giả. Là một ngư phủ, anh hoàn toàn tin tưởng vào tay nghề của mình, nhưng anh chưa bao giờ đi câu tượng đá. Tuy nhiên, anh không thể cự tuyệt lời thỉnh cầu của người con gái mình đang thầm yêu trộm nhớ, anh đẩy thuyền ra biển như thể đấy là cơ hội để anh làm cô phải mắc nợ mình. Và hơn hết, không có gì tuyệt diệu bằng nếu hai người được ở giữa biển vào một đêm trăng đẹp thế này. Sau khi nhóm lửa để làm hiệu trên Bãi cát Hành giả và Bãi Mũi Giun, họ chèo thuyền ra khơi. Cả hai người đều thuộc lòng vùng biển này: đáy biển và độ sâu của nó… Thậm chí là cả những luồng cá qua lại nơi đây. Nhưng dù đêm nay trăng có tỏ đến mấy thì ánh sáng của nó cũng chẳng thể lọt tới đáy biển. Genji không biết Shizuko sẽ tìm ra bức tượng đá bằng cách nào. Genji vừa khua mái chèo vừa hỏi điều đó nhưng Shizuko không trả lời, cô chỉ nhìn về phía ánh lửa trên bãi cát để xác định vị trí thuyền. Có thể cô ước lượng bằng mắt thường khoảng cách giữa hai đốm lửa trên bờ từ ngoài khơi và áng chừng được vị trí của mình lúc này. Chèo ra được vài trăm mét thì Shizuko kêu lên: “Dừng lại đi anh!” Shizuko đi về cuối thuyền rồi ghé sát mặt xuống biển. Cô nhìn vào làn nước tối om và ra lệnh cho Genji: “Lùi lại đằng sau!” Genji biết Shizuko chuẩn bị làm gì, ngực anh đập thình thịch. Cô đứng lên và cởi bỏ bộ kimono chấm hoa của mình. Tiếng quần áo sột soạt trên da khiến trí tưởng tượng của Genji bị kích thích mạnh, anh cảm thấy ngộp thở. Có tiếng nhảy tùm xuống biển sau lưng và bọt nước bắn lên vai, Genji len lén quay đầu lại. Shizuko búi mái tóc đen dài của mình lên bằng chiếc khăn tay. Cô bơi đứng và nhô mặt trên nước, miệng ngậm đầu của tấm lưới mắt nhỏ. Sau đó, cô nhoi hẳn lên, hớp mạnh không khí hai lần rồi lặn sâu xuống đáy. Chắc là cô đã phải ngoi lên mặt biển vài lần để lấy hơi… Cuối cùng, khi Shizuko ngẩng đầu lên, trên miệng cô đã không còn ngậm đầu lưới nữa. “Em đã buộc chặt lưới vào bức tượng rồi, bây giờ mình kéo lên thôi”, Shizuko run run nói. Đưa người về phía mũi thuyền, Genji bắt đầu kéo lưới. Không biết Shizuko đã lên thuyền từ bao giờ, cô khoác áo, đứng sát vào với Genji và phụ anh kéo bức tượng đá lên. Hai người đặt bức tượng đá ở giữa thuyền rồi trở về bờ, nhưng trong suốt thời gian đó Genji và Shizuko không nói với nhau lời nào. Có một bầu không khí nào đó đã chặn đứng mọi câu hỏi. Genji lấy làm lạ là tại sao Shizuko lại biết được vị trí của bức tượng giữa một vùng biển tối đen như thế. Ba ngày sau, Genji hỏi thì Shizuko trả lời rằng, bức tượng ông hành giả đã gọi cô từ dưới đáy biển. Shizuko bảo, cô thấy ánh mắt màu xanh lục của bức tượng đá có thể sai khiến được quỷ thần ấy sáng lấp lánh dưới đáy nước tối om… Từ đó về sau Shizuko thường hay kêu mệt. Trước đấy, Shizuko chưa bao giờ bị đau đầu. Nhưng những cảnh tượng mà cô chưa từng nhìn thấy càng ngày càng xuất hiện nhiều hơn trong óc cô kèm theo những cơn đau nhức. Thế rồi, những cảnh tượng vụt qua ấy thể nào cũng trở thành hiện thực không lâu sau đó. Khi Genji gặng hỏi về điều này, Shizuko bảo, cô luôn cảm thấy mũi mình bị kích thích bởi mùi cam quít mỗi lần những hình ảnh về tương lai thoáng hiện lên trong não. Ngay trước khi người chị gái của Genji có chồng bên Odawara mất, cũng chính Shizuko đã báo trước về cái chết này. Song hình như cô không thể tự chủ được trong việc dự báo những sự kiện tương lai. Chỉ là một cảnh tượng nào đó vụt loé lên trong óc, không có dấu hiệu báo trước, không có gì chắc chắn rằng cô sẽ nhìn thấy cảnh tượng ấy. Vì vậy, Shizuko không bao giờ nhận lời đoán trước tương lai cho bất kỳ người nào. Một năm sau, mặc cho sự ngăn cản của Genji, Shizuko lên Tokyo rồi quen biết với Ikuma Heihachiro và mang bầu đứa con của anh ta. Cuối năm đó, Yamamura Shizuko trở về chốn cũ, sinh ra một mụn con gái. Đứa bé ấy chính là Sadako. Không thể biết được khi nào thì câu chuyện của ông lão Genji sẽ kết thúc. Xem cách nói ấy thì rõ là ông lão đang kết tội Ikuma Heihachiro về việc Yamamura Shizuko trầm mình xuống miệng núi lửa Mihara mười năm sau đó. Cố nhiên, đấy là tình cảm tất yếu đối với một tình địch, nhưng không dễ dàng gì khi phải nghe những câu chuyện pha lẫn hằn thù. Tuy vậy, gã cũng thu hoạch được một điều, ấy là Shizuko, mẹ của Yamamura Sadako, cũng có khả năng tiên tri và kẻ cho bà ta khả năng ấy rất có thể là bức tượng đá En-no-Ozunu. Đúng lúc đó thì chiếc máy fax bắt đầu hoạt động. Trên trang fax được in ra là bức chân dung phóng đại của Yamamura Sadako mà Yoshino kiếm được ở đoàn kịch Hisho. Asakawa bỗng có cảm giác xúc động lạ thường. Vì đây là lần đầu tiên gã được chiêm ngưỡng dung nhan của Yamamura Sadako. Mặc dù chỉ kéo dài ít phút, nhưng những cảm giác của gã và cô ta đã hoà vào làm một, gã đã nhìn thấy những cảnh tượng trong cuốn băng với cùng một ánh mắt với cô ta… Tựa như dung mạo của một người con gái đáng yêu tuy không hề biết mặt nhưng đã làm tình với gã và cùng đạt tới cực khoái trong bóng tối đang dần hiện ra dưới ánh nắng nhạt… Thật lạ là gã không hề cảm thấy ghê sợ. Hẳn nhiên rồi, vì bức ảnh gửi bằng fax tuy có hơi mờ nhưng vẫn chuyển tải được đầy đủ những đường nét và vẻ quyến rũ trên khuôn mặt xinh xắn của Yamamura Sadako. – Trông cũng khá đấy chứ! – Ryuji nói. Asakawa bất giác nghĩ đến Takano Mai. Nếu chỉ đơn thuần so sánh hai khuôn mặt sẽ nhận thấy Yamamura Sadako đẹp hơn Takano Mai nhiều lần. Tuy nhiên, trong khi ở Takano Mai toả ra một thứ mùi đàn bà, thậm chí là ngửi thấy được, thì Yamamura Sadako lại bị gọi làđáng sợ. Nhưng bức ảnh không hề cho thấy sự đáng sợ nào như thế. Chắc chắn là sức mạnh không người thường nào có được của Yamamura Sadako đã gây ra cảm giác đó ở những người xung quanh. Tờ fax thứ hai là thông tin tóm tắt về Shizuko, mẹ của Yamamura Sadako. Đó vừa vặn là câu chuyện tiếp theo những gì ông lão Genji vừa kể.