Resident Evil 4 – Thế Giới Ngầm

Chương 12


Đọc truyện Resident Evil 4 – Thế Giới Ngầm – Chương 12

Dịch giả: meomuntiteo, Spidey, nhoccon, D-GENERATION-X, Caster, :::Password:::, usuyu, Lostsoul, Lioncoeur, zZbapcaiZz, JediDarkLord

Cole không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bỏ chạy theo hai gã sát thủ, ngạt thở và buồn nôn, trái tim tràn đầy nỗi khiếp sợ lẫn căm hận. Anh đã bị Reston bỏ mặc cho chết, thậm chí lão còn khuyến khích hai tên sát thủ giết anh nữa – anh thì chẳng biết họ có phải sát thủ không, chẳng biết ai sẽ là “nhân vật chính” làm chuyện đó với anh – anh chỉ biết mắt mình đang cay xè và không thở nổi.

“Ít nhất thì nó cũng sẽ qua nhanh và không đau đớn.”

Cánh cửa sau lưng đóng sầm lại khi anh lọt vào khu Một. Cole dựa lưng vào vách kim loại lạnh ngắt, cố gắng lấy hơi, nước mắt tuôn ra từ dưới hàng mi khép kín. Anh không dám nhìn họ bóp cò, không dám trải qua nỗi hồi hộp trước khi giã biệt cõi đời; với anh, chết là đủ lắm rồi.

“Có khi họ sẽ bỏ mình lại đây.”

Tia hy vọng ấy vừa mới loé lên trong tâm tưởng thì đã vụt tắt, khi một bàn tay thô ráp, to tướng nắm lấy cánh tay anh, lắc lắc.

“Này, tỉnh lại đi chứ!”

Cole miễn cưỡng mở mắt ra, chớp lia lịa. Gã to con đen thui nhìn anh chằm chằm, trông hắn tức điên đến mức sẵn sàng cho anh ăn đấm. Khẩu súng trường đang chĩa vào ngực Cole.

“Chỗ chết tiệt này là cái gì đây, có giải thích không thì bảo?”

Cole co mình vô sát cửa, nói giọng lắp bắp: “Khu Một. R-Rừng.”

Gã đàn ông trợn mắt: “Ừ, rừng, hiểu rồi. Vậy tại sao hả?”

“Chúa ơi, hắn bự chảng luôn”. Cái gã này có cơ bắp cuồn cuộn đến phát sợ. Cole lắc đầu, nghĩ chắc mình sẽ bị nện một trận tơi bời, nhưng thật sự là anh không hiểu gã ta muốn hỏi gì.

Người kia tiến lại gần, trông có vẻ bối rối hơn là giận dữ:

“John, anh ta cũng bị Reston lừa thôi. Lần này thì tên anh là gì? Henry à?”

Cole gật đầu, hy vọng mình đã không chọc giận ai:

“Vâng, Henry Cole, Reston bảo tôi là các anh đến đây để giết lão ta, và lão nói tôi đứng ở chỗ đó, rằng lão sẽ chỉ nhốt các anh thôi, ôi lạy Chúa, tôi đâu có biết lão sẽ làm vầy…”

“Từ từ đã”, người nhỏ con hơn lên tiếng. “Tôi là Leon Kennedy, còn đây là John Andrews. Chúng tôi không định giết Reston…”

“Nhưng rồi sẽ làm thôi”, John gầm gừ, nhìn nhìn xung quanh.

Leon nói tiếp như thể chưa hề bị ngắt quãng:

“…hay bất cứ ai cả. Chúng tôi chỉ muốn một thứ mà Reston đang giữ, có vậy thôi. Bây giờ – anh có thể cho chúng tôi biết gì đó về cái chương trình thử nghiệm này không?”

Cole lau sạch nước mắt trên mặt, cố kìm nén bộc lộ cảm xúc. Leon có vẻ khá thân thiện…

“…và mày sẽ chọn đường nào đây? Mày có thể bị bắn, bị bỏ lại, hoặc hợp tác với những gã này. Họ có súng, và Reston đã nói là các mẫu vật thử nghiệm được thiết kế để tấn công người. Ôi chết tiệt, làm sao để giải quyết cái mớ bòng bong này đây?”


Cole nhìn quanh khu Một. Lúc này, khi đã bị nhốt bên trong, anh mới ngạc nhiên thấy nó khác thường làm sao – đe dọa làm sao. Những cái cây nhân tạo cao chót vót, những bụi cây bằng chất dẻo, các khoanh gỗ giả nằm lăn lóc – với ánh sáng dìu dịu và không khí ẩm thấp, vách tường tối om, trần nhà được sơn phết, tất cả tạo thành một khu rừng thật sự lúc mờ sáng.

“Tôi không biết nhiều về nó”, Cole nhìn Leon và nói. “Có bốn khu tất cả – rừng, sa mạc, núi, thành phố. Tất cả đều rộng cỡ hai sân bóng đá, cái này nối tiếp cái kia, số đo chính xác thì tôi không nhớ. Quan trọng nhất là, chúng ta đang ở trong môi trường ưa thích của những vật lai thử nghiệm này; bọn họ vẫn nuôi chúng bằng thịt sống, chuột hoặc thỏ hay những thứ tương tự. Umbrella đang thử nghiệm một dạng kiểm soát trao đổi chất, và những sinh vật này được cho là có hệ tuần hoàn gần giống người, đại loại thế, một tài liệu nghiên cứu thích hợp…”

Anh dừng lại, nhận thấy hai người đàn ông đang nhìn nhau khi anh nói đến những sinh vật thử nghiệm.

“Cậu tin như vậy sao, Henry?”, John hỏi, trông anh ta khá tỉnh táo chứ không còn tức tối nữa.

“Tôi…”, Cole đáp, và ngậm miệng lại để suy nghĩ. Về mức thu nhập cao ngất và cái chính sách không-được-bép-xép. Những thắc mắc về việc ai đang giám sát công việc nào…

“Và cậu có thấy vui khi làm ở đây không? Có thấy mình được trả công tương xứng không?”

“…và về những gian nhà tù túng… về những giới hạn?”

“Không”, anh nói, và bất giác thấy xấu hổ về sự ngu dốt có chủ đích của mình. Anh đáng lẽ phải biết và đã biết những chuyện này, nếu có gan đến gần một chút mà nhìn. “Không, tôi không hề. Không chút nào nữa.”

Hai người đàn ông gật đầu, và Cole nhẹ cả người khi thấy John thả lỏng tay súng, hướng nó đi chỗ khác.

“Cậu có biết cách nào thoát khỏi đây không?”, John hỏi.

Cole gật đầu:

“Chắn chắn rồi. Các khu liên kết với nhau bằng những cánh cửa nối tiếp, ở góc phía đối diện. Chúng chỉ có then cài thôi, không khóa hay gì hết – trừ cái cuối cùng ở khu Bốn, nó bị khóa ngoài.”

“Vậy là cái cửa mà chúng ta nhắm tới nằm theo lối này?”, Leon hỏi, chỉ về phía tây nam. Hiện họ đang ở góc đông bắc. Nơi họ đang đứng thậm chí không thể thấy được bức tường đằng xa, do khu rừng giả quá rậm rạp. Cole biết ít ra cũng có một khoảng rừng thưa, nhưng đi được tới đó e rằng tốn không ít công sức.

Cole gật đầu.

“Cậu biết gì về mấy sinh vật thử nghiệm này? Trông chúng thế nào?”, John hỏi.

“Tôi chưa từng thấy chúng. Tôi chỉ ở đây để đi dây, gắn máy quay và ống dẫn, một số thứ linh tinh”. Anh nhìn hai người với vẻ hy vọng. “Nhưng chắc là chúng đâu quá khó đối phó?”

Vẻ mặt hai người chẳng có chút gì là hoan hỉ cả. Cole định hỏi xem họ có thể cho anh biết chuyện gì, thì có tiếng kim loại kêu loảng xoảng inh ỏi trong bầu không khí ẩm thấp, giống như có một cánh cổng khổng lồ được nhấc lên vậy. Nó phát ra từ phía sau, chỗ bức tường phía tây, Cole biết đó là nơi nhốt các sinh vật, và một giây sau, có tiếng rít lanh lảnh đến chói tai xuyên qua không khí, âm điệu ngân dài đó được nối tiếp nhanh chóng bởi một tiếng rít khác, rồi một tiếng nữa, nhiều đến mức không đếm xuể.

Có tiếng vụt rất lớn, và Cole không thể nhớ ra nó là gì trong một thoáng – khi đã nhận ra, anh chỉ cảm thấy muốn gào lên.

Cánh. Tiếng của những đôi cánh đồ sộ quật trong không khí.

—–

Họ đang ở cách mặt đất chừng mười lăm feet, trên đỉnh hai hàng thùng gỗ đặt ở góc nhà kho. Cho dù đã di chuyển rất thận trọng, nhưng chúng vẫn hơi lắc lư, khiến Claire đâm ra lo ngại.

“Còn tệ hơn cả việc bị lạc Leon và John, hay việc chúng ta đang lẩn trốn đám tay chân Umbrella. Ôi trời, chúng ta đang ở trên Đỉnh Cheo Leo của một cái hộp đóng băng tối đen như mực. Một người hắt hơi mạnh thôi là cả đám rớt đài.”


“Hắt hơi một cái là xong”, cô thì thầm, vừa đủ để làm khuấy động sự im lặng căng thẳng. Không có tiếng trực thăng nữa, nhưng họ cũng chẳng nghe thấy tiếng nào khác bên ngoài.

Cô ngạc nhiên khi cảm thấy Rebecca đang run bên cạnh mình, rồi nghe thấy tiếng cười rúc rích; nhà sinh học trẻ măng ấy đang cố nén cười, và coi bộ khó kềm chế được. Claire nhe răng cười, không biết sao lại cảm thấy rất ư là thích thú.

Vài giây trôi qua, và Rebecca buộc phải lên tiếng: “Chị nói đúng quá”, rồi cả hai cố nén không dám cười lớn hơn. Đống thùng lắc nhẹ.

“Làm ơn đi”, David nói, có hơi bực mình. Anh ta đang trên chóp của dãy thùng thứ hai, đối diện Rebecca.

Rebecca và Claire im lặng trở lại, và một sự yên tĩnh kéo dài bao trùm lên tất cả. Hai người đang ở góc đông bắc, súng lục chĩa về hướng vách tường nằm ngang, nơi có cánh cửa phía đối diện. David đã nói là có hai cửa; và anh canh chừng phía nam, chỗ cửa mà họ đã đi vào.

Một thoáng cười cợt đã giúp Claire thoải mái đôi chút. Cô vẫn rất lạnh, vẫn lo cho John và Leon, nhưng tình hình của họ chưa hẳn đã tuyệt vọng. Đương nhiên là khá tệ, nhưng hoàn cảnh của bọn cô còn tệ hơn.

“Ở Raccoon, mình đã đơn thân độc mã. Chỉ có Sherry để mà lưu tâm, bị gã X theo sát nút, phải vượt qua hàng đàn zombie và suýt nữa thì tiêu đời. Ít ra, vào lúc này, mình cũng đã có khái niệm về thứ đang phải chống lại; thậm chí một đội quân đang rón rén với súng trên tay cũng không tệ bằng việc tìm hiểu coi phải chống lại cái gì…”

Có tiếng động ngoài nhà kho. Ai đó đang đẩy cánh cửa mà cô và Rebecca canh chừng, lắc nhanh nó, và lại yên ắng như cũ –

– ngoại trừ những tiếng chân, đang nện lên nền đất bên ngoài.

“Đang kiểm tra các cửa. Trừ khi cái bẫy của David vô hiệu, nếu không thì chúng chỉ ngó sơ qua thôi…”

Ít nhất họ cũng có David yểm trợ; anh ấy điềm tĩnh và hiệu quả đến ngạc nhiên, với sự nhanh trí mà cô chưa từng thấy. Dường như anh luôn biết phải làm gì trong mọi hoàn cảnh. Giống như lúc này vậy – David đã bảo chúng sẽ phải rà quét theo hàng ngang, bắt đầu từ phía này sang phía kia, và kiểm tra từng tòa nhà theo nhóm.

“Ảnh là một chiến lược gia xuất thân trong quân đội mà, có phải con nít đâu”.

Claire ôn lại lần nữa những điều anh ta đã dặn, nó giống một danh sách liệt kê trường hợp hơn là một kế hoạch. Nhưng dù sao, có cái để tập trung vào thì vẫn hơn.

“Nếu chỉ một nhóm gồm ba tên trở lại tiến vào, hãy giữ im lặng, đừng làm gì tới khi chúng đi ra, rồi men đến cánh cửa mà chúng đi vào và chờ. Chừng nào nghe có tiếng ở cánh bên kia, chúng ta chạy ra ngoài về hướng hàng rào. Nếu bị phát hiện, bắn ngay lập tức; lần lượt hạ những tên khác khi chúng bước vào, sau đó leo xuống và chạy.

Nếu có hai nhóm trở lên, chờ đến khi David ném lựu đạn rồi bắn; dù cho chúng có ống nhòm xuyên đêm thì cũng sẽ bị che mắt bởi lựu đạn. Nếu chúng phản công, hãy leo xuống phía sau, dùng các thùng làm lá chắn…”

Cô chưa kịp ôn đến phần tiếp theo thì nghe thấy tiếng cửa bên kia đang lắc. Lắc và bật mở.

Bình!

Cánh cửa mở toang, có tia sáng yếu ớt xuất hiện trong bóng tối. Những ánh đèn pin như xé toạc cả màn đêm, quét ngang hàng dãy thùng, rồi quay về phía cánh cửa.

Có tiếng lách cách khe khẽ – rồi tiếng rủa thầm.

“Gì?”. Thêm một giọng thì thầm nữa.


“Tối như mực”, dừng một chút, và rồi, “Thôi nào. Tụi nó ắt là ở nhà bên kia chứ làm gì có ở đây.”

“Ơn Chúa. Có hy vọng thoát rồi, anh David”. Hai người mới vào bắt đầu tìm kiếm, có vẻ không ngờ đến sự tồn tại của bọn cô.

Một luồng sáng nữa xuất hiện, và Claire có thể thấy dáng người mờ mờ in bóng dưới những ánh đèn, căn cứ theo giọng thì chắc là nam giới. Chúng bắt đầu tiến tới trước, những ngọn đèn pin nhảy múa trên hàng đống thùng kệ.

“Yên lặng, không cử động, chờ đợi”. Claire nhắm mắt lại, không muốn hai kẻ đó có cảm giác bị theo dõi, cô từng nghe nói rằng đây là một mánh khóe để ẩn thân. Không nhìn gì hết.

“Tao sẽ coi phía nam”, một giọng thầm thì, và Claire tự hỏi, không biết chúng có nghĩ tới việc những âm thanh này nghe rõ mồn một không?

“Bọn này nghe hết rồi nhá”. Một ý nghĩ hài hước, nhưng rồi cô cảm thấy sợ. Bọn zombie ít ra cũng không mang súng…

Ánh đèn tách ra, một rời đi chỗ khác, cái còn lại hướng đến vị trí của họ. Nó đang quét dưới thấp; có vẻ người cầm đèn không nhận thấy là người ta có thể leo lên trên đống thùng.

“Tốt thôi, làm nhanh lên rồi xéo lẹ đi, đặng bọn này có thể chuồn mà không phải đánh nhau”.

David đã nói là họ sẽ quay lại tìm John và Leon, khi nào Umbrella đi hết; anh nói chúng sẽ chỉ cử một hoặc hai tên canh gác, và việc xử lý một tên lính gác đương nhiên dễ hơn một đội nhiều –

– và ngọn đèn rọi ngay mặt Claire, ánh sáng làm cô lóa cả mắt.

“Hey!”. Một tiếng thốt kinh ngạc bên dưới, và đoàng, tiếng súng nổ, rồi cô cảm giác có gì đó khang khác bên dưới, cùng lúc Rebecca thở dốc, đống thùng lật nghiêng ra đằng sau.

Lưng Claire nện vô tường, cô vội vã chộp lấy cái thùng mình đang nằm lên, rồi có tiếng la phát ra từ bên ngoài, ánh lửa màu cam lóe lên từ họng súng của David…

…và toàn bộ đống thùng đổ rầm xuống, Claire rơi tọt vào trong bóng tối.

—–

Khi nghe thấy tiếng đập cánh mạnh mẽ và tiếng rít nhức cả óc, John cảm giác nổi hết da gà. Anh chẳng ưa lũ chim chút nào, chẳng bao giờ, huống hồ là chạy vào giữa một bầy chim của Umbrella, vào một khu rừng quái dị khô cằn…

“Vớ vẩn”, anh nói, và nâng khẩu M-16 lên, tỳ tay vịn lên bả vai. Leon cũng đang nhắm tới khoảng không mười lăm feet trên đầu, nơi cao vượt khỏi những cái cây và sơn một màu xanh thẫm. Đám cây cao từ mười tới hai mươi lăm, ba mươi feet, và ở tận trên đỉnh, John thấy có những “nhánh” cây sào chìa ra, mỗi cái bự như gậy bóng chày.

“Lũ chim này phải có chân to như quỷ mới bám được trên đó…”

Tiếng rít liên thanh đã dứt và John cũng không nghe tiếng đập cánh nữa, nhưng anh không khỏi tự hỏi, chừng nào thì bọn chim mới bắt đầu săn mồi đây.

“Căn cứ theo cái tên Dac”, Cole thì thầm, lạc cả giọng. “Thì chúng có lẽ là loài thằn lằn ngón cánh.”

“Cậu đùa hả”, John thở mạnh, và thấy anh nhân viên Umbrella ốm tong đang lắc đầu, trong lúc vẫn nhìn xa xăm.

“Có lẽ không phải là những con thực thụ, chẳng qua đó là cái biệt hiệu mà tôi đã nghe”, Cole nói với vẻ kinh hoàng.

“Tiến tới chỗ cửa thôi”, Leon nói, dấn bước vào khu rừng nhân tạo tối tăm.

“Cầu Chúa phù hộ.”

John theo sát Leon, mười, rồi mười lăm feet, cố gắng vừa nhìn lên vừa ngó chừng theo chân anh ta. Chưa gì anh đã xém bị té, khi vấp phải một tảng đá mốc meo, và phải cố gượng để không ngã sóng xoài.

“Không ổn rồi”, anh nói. “Cole, Henry Cole?”


Anh nhìn lại và thấy Cole vẫn đang co cụm chỗ cửa, khuôn mặt tái nhợt vẫn ngửng nhìn trời –

– “ trên trần, khốn thật” –

Leon dừng bước và chờ, chăm chú quan sát những cây sào. “Tôi sẽ cảnh giới cho,” anh nói.

John quay lại, cảm thấy bực bội, nản chí, và cực kỳ lo lắng; họ đang ở trong một tình thế hiểm nghèo, David và hai cô gái có lẽ đang liều mạng trên mặt đất, và anh không muốn mất thì giờ để dỗ dành một tên Umbrella thối chí. Nhưng dù sao, họ không thể bỏ mặc anh ta mà không thèm nỗ lực.

“Henry. Này, Cole”, John vói tay vỗ anh ta, cuối cùng thì Cole cũng nhìn lại anh. Đôi mắt nâu nhạt tràn ngập nỗi kinh hoàng. John thở dài, cảm thấy hơi thương hại anh chàng. Anh ta chỉ là một thợ điện, và bỏ mặc anh ta có lẽ là một tội ác không thể tha thứ.

“Nhìn đây. Tôi biết cậu đang sợ, nhưng cứ đứng đây thì cậu cũng sẽ bị giết thôi. Cả tôi và Leon đều từng có kinh nghiệm với lũ vật nuôi của Umbrella; nên cơ may duy nhất của cậu là đi theo bọn tôi – hơn nữa, bọn tôi cần cậu, vì cậu biết rõ nơi này. Được chứ?”

Cole run rẩy gật đầu: “Vâng, được rồi. Xin lỗi. Tôi chỉ – tôi sợ quá.”

“Vậy thì nhập hội sợ chim với tôi được rồi. Về cái khoản biết bay thì cũng hay đấy, nếu không tính chuyện tụi nó có mắt ti hí và chân thì xếp vảy – với lại cậu có thấy diều hâu chưa? Đầu chúng nó y như cái đít vậy”. John làm điệu bộ như phát ớn, và thấy Cole hơi bớt căng thẳng, thậm chí còn cố nở một nụ cười run rẩy.

“Được rồi”, Cole lên tiếng một cách quả quyết. Họ quay lại nơi Leon đang đứng, lúc này vẫn đang ngó chừng không trung.

“Henry, bọn này có súng, vậy cậu đi đầu nhé?”, John đề nghị. “Tôi và Leon sẽ quan sát, và bọn tôi cần cậu dẫn đường để khỏi bị vướng vào các chướng ngại vật. Được chứ?”

Cole gật đầu, mặc dù trông vẫn còn tái nhợt, nhưng John nghĩ cậu ta đã trấn tĩnh lại rồi. Chỉ một lúc thôi, tất nhiên.

Anh chàng dẫn đường đi trước Leon, và di chuyển gần gần với hướng tây nam, len lỏi theo một con đường quanh co xuyên qua khu rừng quái dị. Leon và John bám sát theo, John nhanh chóng nhận ra là có Cole dẫn đường thì cũng chẳng khá hơn mấy tí.

“Nếu không ngó chừng chỗ đặt chân xuống thì thế nào cũng bị vấp”, John chán nản nghĩ thầm, sau khi đã đá trúng một “khúc gỗ” tới lần thứ sáu. “Chẳng có đường nào đi vòng hết.”

Bọn Dac, như Cole đã gọi tên, chẳng thấy xuất hiện và cũng không phát ra thêm thanh âm nào. Tốt thôi, và John nghĩ tới việc họ đủ sức kiểm soát được chuyến đi qua khu rừng nhân tạo. Một cảm giác thật lạ lùng, khi chứng kiến những cây cối và bụi rậm y như thật, cảm nhận thấy không khí ẩm thấp, nhưng lại không có mùi của đất hay những thứ đang sinh trưởng, không có gió, không một tiếng di chuyển nhỏ nào, không sâu bọ. Giống như đang trải qua một giấc mơ hãi hùng.

John lách mình về phía trước, không rời mắt khỏi những thanh sào bắt chéo nhau trên đầu, thì Cole dừng lại.

“Chúng ta… có một khoảng rừng thưa ở đây”, anh ta nói.

Leon quay lại nhìn John: “Có nên đi vòng qua nó không?”

John bước lên, chăm chú nhìn những thân cây được bố trí có vẻ rải rác trong khoảng rừng trước mặt. Nó kéo dài ít nhất năm mươi feet, nhưng John thấy tốt hơn là họ nên đổi sang đường khác; bị tấn công phủ đầu bởi thằn lằn ngón cánh thì không dễ chịu cho lắm.

“Ừ, Henry, vòng sang phải. Chúng ta sẽ…”

Phần còn lại của câu nói bị át đi bởi tiếng rít phát ra từ khu rừng nhân tạo, một cái bóng xám nâu lao xuống khoảng trống và bay về phía họ, móng vuốt giang rộng. John thấy một sải cánh của nó rộng có đến tám hoặc mười feet, cặp cánh được bao bọc bởi những cái móc cong cong. Anh còn thấy một cái mỏ khoằm có răng, với cái đầu thon dài, đôi mắt đen dẹt to cỡ cái đĩa nhỏ đang nhấp nháy –

– và cả anh lẫn Leon cùng khai hỏa, khi sinh vật đó lao đến hàng cây nhân tạo trước mặt họ, móng vuốt bự chảng bấu vào lớp nhựa rắn chắc. Nó bám vào đó, đôi cánh xòe ra cố giữ thăng bằng –

– đoàng! đoàng! đoàng! Đạn khoét thành những lỗ thủng trên lớp thịt của nó, từng dòng máu lỏng tuôn ra từ vết thương. Nó gào lên, tiếng gần đến mức John không nghe được tiếng súng, không nghe được gì khác ngoài tiếng kêu the thé – rồi rơi thịch xuống nền đất tối tăm, hai cánh xếp lại…

…và đi về phía họ bằng cánh khuỷu, y như một con dơi. Nó lắc lư di chuyển qua những thân cây mọc rải rác, phát ra tiếng kêu sắc gọn. Đằng sau nó, một con khác đang hạ xuống khoảng đất trống, một cơn gió không mùi thổi ngang qua họ khi nó xếp cánh lại, cái mỏ dài nhọn há ra, để lộ hàm răng lởm chởm.

“Quá, quá tệ.”

Khi cái sinh vật đó còn cách chừng năm feet, John ngắm đầu ruồi trên nòng súng vào cái đầu lắc lư của nó, vào con mắt tròn lấp lánh, và siết cò.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.