Đọc truyện Quyền Lực Thứ Tư – Chương 34
Báo
THE SUN
Ngày 12 tháng Sáu, 1987
NHIỆM KỲ THỨ BA CỦA MAGGIE
ĐẢNG BẢO THỦ THẮNG DỄ DÀNG VỚI 110 GHẾ
Khi Armstrong lao ra khỏi phòng Lincoln, không chịu bị làm nhục bằng việc ngồi nghe bài diễn văn nhậm chức của Townsend, một số nhà báo vội đi theo ông. Nhưng hai người đàn ông đã đến từ Chicago thì không. Chỉ thị của thân chủ họ không thể rõ ràng hơn. “Hãy đặt giá để không ai trong bọn họ được trở thành chủ tịch của Post.”
Armstrong đứng một mình ở lối đi, sai một trong những luật sư đắt tiền của mình đi tìm chiếc Limousine. Không thấy người quản lý khách sạn đâu. “Cái xe của nợ của tôi đâu?” Armtrong quát, chằm chằm nhìn chiếc BMW trắng đậu bên kia đường.
“Lát nữa nó sẽ tới đón chúng ta.” Russell nói khi tới bên cạnh ông. “Làm thế nào hắn ta sắp đặt được cuộc bỏ phiếu?” Armstrong gặng hỏi.
“Trong 24 giờ qua ông ta phải tạo ra một số cổ đông lớn, những người ít nhất trong hai tuần nữa sẽ không có tên trong đăng ký.”
“Vậy tại sao họ lại được phép vào dự họp?”
“Tất cả những gì họ làm là trình cho người kiểm tra một danh mục với bằng chứng về số cổ phần tối thiểu cần có. Ví dụ một trăm cổ phần cho mỗi một người trong hai trăm người đó, thế là đủ. Họ có thể mua số cổ phần nàv từ bất kỳ người môi giới nào trên phố Wall, hoặc Townsend có thể chia cho họ 20 000 cổ phần của ông ta trong sáng nay.”
“Và điều đó là hợp pháp?”
“Cho phép tôi nói rằng điều này nằm trong khuôn khổ pháp luật,” Russell nói. “Lời khuyên của tôi là ông nên bán số cổ phần của ông đi và tự bằng lòng với một khoản lợi nhuận đáng kể.”
“Đó đúng là loại lời khuyên mà tôi nghĩ ông sẽ đưa ra.” Armstrong nói. “Còn tôi thì không định làm thế. Tôi sẽ đòi ba chỗ trong Hội đồng Quản trị và sẽ làm cho hắn khốn khổ trong suốt những ngày còn lại.”
Hai người đàn ông cao lớn, lịch sự trong những chiếc áo khoác dài màu đen do dự đứng cách họ vài yard. Armstrong đoán chắc họ thuộc nhóm nhân viên pháp luật của Critchley. “Vậy tôi phải trả cho hai người kia bao nhiêu?” Ông hỏi.
Russell liếc nhìn họ và nói, “Tôi chưa bao giờ gặp họ.”
Dường như theo một hiệu lệnh, vì một trong hai người lập tức tiến vài bước về phía trước và nói, “Ngài Armstrong?”
Armstrong định trả lời thì Russell đã đáp. “Tôi là Russell Critchley, luật sư của ngài Armstrong ở New York. Tôi có thể giúp gì được cho các ông?”
Ngưòi đàn ông cao hơn mỉm cười. “Xin chào ngài Critchley.” anh ta nói. “Tôi là Earl Withers thuộc công ty Spender, Dickson và Withers ở Chicago. Tôi tin rằng trước kia chúng tôi đã từng làm ăn rất thuận lợi với công ty của ông.”
“Trong nhiều hoàn cảnh,” Russell nói và lần đầu tiên ông mỉm cười.
“Rất ăn ý,” Armstrong nói.
Người đàn ông thấp hơn khẽ gật đầu. “Công ty chúng tôi có vinh dự được đại diện cho Tập đoàn Chicago News Group, tôi và đồng nghiệp của tôi mong muốn được thảo luận về một vụ làm ăn với thân chủ của ông.
“Vậy tại sao các ông không liên hệ với tôi tại văn phòng vào sáng ngày mai?” Russell nói khi chiếc Limousine tới nơi.
“Vụ làm ăn gì vậy?” Armstrong hỏi khi người lái xe ra mở cánh cửa sau.
“Chúng tôi được trao quyền đưa cho ông cơ hội mua tờ New York Tribune.”
“Như tôi đã nói…” Russell cố nói lại.
“Tôi sẽ gặp lại cả hai ông tại phòng của tôi ở tháp Trump trong 15 phút nữa,” Armstrong vừa nói vừa chui vào xe. Withers gật đầu khi Russell chạy vòng sang mở cửa xe phía bên kia. Ông đóng cửa, ấn nút và không nói gì cho đến khi tấm kính được kéo lên ngăn cách họ với người lái xe.
“Dick, dưới bất kỳ tình huống nào tôi không thể đề nghị…” viên luật sư mở đầu.
“Sao không?” Armstrong hỏi.
“Khá đơn giản,” Russell nói. “Mọi người biết rằng Tribune đang bị cầm cố với giá 200 triệu đô la, và mỗi tuần mất đứt một triệu đô la. Chưa nói đến việc nó bị kẹt trong một cuộc tranh chấp giữa hai công đoàn ngang ngạnh. Tôi xin hứa với ông, Dick, không ai có thể vực được tờ báo đó lên đâu.”
“Townsend đã làm được thế với tờ Globe,” Armstrong nói. “Như tôi được biết, với giá khá đắt.”
“Đấy là hai trường hợp khác nhau,” Russell nói, giọng bắt đầu tuyệt vọng.
“Và tôi cuộc là hắn ta sẽ lại làm được với tờ Star.”
“Từ một xuất phát điểm khá xa nhau. Đó chính xác là lý do vì sao tôi khuyên ông nên tăng khoản trả giá trong lần đầu tiên.”
“Và ông đã thất bại,” Armstrong nói. “Vì vậy tôi không thấy có bất kỳ ký do gì để chúng ta không ít ra là nghe họ nói.”
Chiếc Limousine đỗ trước tháp Trump. Hai viên luật sư từ Chicago đã đứng đó đợi họ. “Họ làm thế quái nào vậy?” Armstrong vừa hỏi vừa đẩy cửa xe và bước ra.
“Tôi đoán là họ đi bộ.” Russell nói.
“Đi theo tôi.” Armstrong nói với hai viên luật sư khi ông đến phía thang máy. Không ai trong số họ nói lời nào cho đến khi tới được khu phòng sát mái. Armstrong không hỏi họ muốn cởi áo ngoài không, cũng chẳng mời họ ngồi dùng cà phê. “Luật sư của tôi nói rằng tờ báo của các ông đang phá sản và rằng ngay cả việc tôi đồng ý nói chuyện với các ông cũng đã là không khôn ngoan rồi.”
“Lời khuyên của ngài Critchley có lẽ hóa ra lại đúng. Tuy nhiên, Tribune vẫn là địch thủ duy nhất của New York Star.” Withers, người hình như đảm nhiệm vai trò phát ngôn viên, nói. “Và cho dù đang có nhiều vấn đề, nó vẫn có số phát hành vượt xa Star.”
“Chỉ khi nó còn ở trên phố,” Russell nói.
Withers gật đầu nhưng không nói gì, rõ ràng hy vọng là họ sẽ đi tới một câu hỏi khác.
“Và có đúng là nó đang nợ 200 triệu đô la?” Armstrong nói.
“Chính xác là hai trăm linh bảy triệu.” Withers nói.
“Và mất một triệu mỗi tuần.”
“Khoảng một triệu ba trăm ngàn.”
“Và công đoàn đang túm yết hầu của các ông.”
“Ở Chicago, thưa ngài Armstrong, chúng tôi gọi đó là bị đẩy vào hoàn cảnh khó khăn. Nhưng đó chính là lý do vì sao các thân chủ của tôi lại thấy chúng tôi nên tiếp xúc với ngài, vì chúng tôi không có nhiều kinh nghiệm trong việc giao dịch với các công đoàn.”
Russell hy vọng thân chủ mình nhận ra rằng Withers sẽ rất vui sướng chuyển tên Armstrong thành Townsend nếu cuộc bầu cử nửa giờ trước đây rẽ theo một ngả khác, ông bắt đầu lo rằng Armstrong đang dần bị mê hoặc bởi hai người đàn ông từ Chicago.
“Sao tôi lại có thể làm được điều gì một khi các ông đã thất bại thảm thương đến vậy?” Armstrong hỏi khi nhìn qua khung cửa sổ mầu hồng ra toàn cảnh Manhattan.
“Tôi e rằng mối quan hệ lâu dài giữa thân chủ tôi và công đoàn đang trở nên không thể chịu đựng được. Tôi cần nói thêm rằng tờ báo sẽ phải thuộc về một ngưòi có năng lực dàn xếp chuyện này. Một người nào đó sẵn sàng đứng trên công đoàn như cách ngài Townsend đã thực hiện thành công ở nước Anh.”
Russell chờ xem phản ứng của Armstrong. Ông không thể tin thân chủ của mình lại bị lừa bởi một sự nịnh bợ như vậy.
Armstrong quay phắt lại. “Và nếu tôi không mua chúng, thì ai sẽ là người thay thế?”
Russell cúi xuống ghế, lấy tay đỡ trán và thở một hơi dài.
“Chúng tôi sẽ chẳng còn cách nào khác là phải đóng cửa tờ báo và để cho Townsend độc quyền ở thành phố này.”
Armstrong không nói gì, nhưng tiếp tục nhìn chằm chằm vào hai người khách lạ vẫn chưa cởi áo khoác.
“Ông hy vọng sẽ bán được nó với giá bao nhiêu?”
“Chúng tôi không hạn chế việc đặt giá.” Withers nói.
“Tôi cuộc là ông làm thế,” Armstrong nói.
Russell nghĩ là ông ta sẽ trả một mức giá mà họ có thể sẽ từ chối. “Phải.” Armstrong nói, tránh cái nhìn nghi hoặc của viên luật sư. “Đây là mức giá của tôi. Tôi sẽ lấy đi tờ báo trong tay ông với giá 25 xu, giá bìa hiện nay.” Ông cười phá lên. Lần đầu tiên hai viên luật sư Chicago cũng mỉm cười, và trán Russell tỳ mạnh hơn xuống tay. Ông nói trong sự tuyệt vọng.
“Nhưng ông sẽ phải mang khoản nợ 207 triệu đô la và mọi phí tổn sẽ tiếp tục thuộc về trách nhiệm của ông.”
Armstrong lờ đi sự dọa dẫm đó, bảo Russell. “Hãy mời hai đồng nghiệp của ông một ly trong khi họ xem xét đề nghị của tôi.”
Ông tự hỏi không biết họ sẽ mặc cả trong bao lâu. Nhưng sau đó, ông thấy rằng Withers đã được lệnh bán tờ báo chỉ với giá 1 đô la. Viên luật sư sẽ phải báo cáo lại với các thân chủ của mình rằng họ đã để mất 75 xu trong vụ giao dịch này. “Chúng tôi sẽ quay về Chicago để nhận chỉ thị,” Withers nói.
Khi hai viên luật sư Chicago đã đi khỏi, Russell dùng cả buổi chiều còn lại cố thuyết phục thân chủ mình về sai lầm khi mua Tribune, dù với mức giá nào.
Khi ông rời khỏi tháp Trump, lúc sáu giờ vài phút – sau bữa ăn trưa dài nhất trong đời – họ đã thỏa thuận là nếu Withers gọi lại Armstrong sẽ nói cho họ rõ rằng ông không còn quan tâm đến chuyện ấy nữa.
Sáng hôm sau, khi Withers gọi điện đến báo rằng các thân chủ của anh ta đã chấp nhận lời đề nghị, Armstrong trả lời rằng mình đã nghĩ khác.
“Tại sao ông không đến thăm tờ báo trước khi quyết định?” Withers gợi ý.
Armstrong thấy điều này chẳng có hại gì, và thậm chí còn cảm thấy nó sẽ đem lại một lối thoát dễ dàng. Ông báo cho Russell chuẩn bị lên đường.
Khi họ tới tòa soạn báo New York Tribune cuối buổi chiều hôm ấy, Armstrong đứng trên lối đi và dán mắt vào kiểu dáng nghệ thuật của tòa nhà chọc trời, ấn tượng đầu tiên là nó thật quyến rũ. Khi ông đi vào hành lang và thấy quả địa cầu cao 17 foot đánh dấu khoảng cách tới thủ đô trên toàn thế giói, bao gồm London, Moscow và Jerusalem, ông có ý định trong đầu. Còn tới khi hàng trăm nhân viên đã đứng chật sảnh reo mừng đón ông, ý định đó đã chuyển thành quyết định, bỏ mặc mọi sự can ngăn của Russell.
Sáu tuần sau Amstrong giành được quyền sở hữu tờ New York Tribune. Tiêu đề trang nhất của tờ báo nói với toàn thể dân New York, “Dick đã tiếp quản !”
oOo
Lần đầu tiên Townsend biết tin Armstrong mua Tribune với giá 25 xu là từ chương trình truyền hình Today, trước khi ông định đi tắm. Ông dừng lại và nhìn chằm chằm địch thủ của mình, ngồi lún mình trong chiếc ghế bành với chiếc mũ lưỡi trai màu đỏ có in rõ dòng chữ “N.Y. Tribune”.
“Tôi muốn giữ lại trên đường phố một tờ báo danh tiếng nhất của New York.” Ông ta nói với Barbara Walters, “cho dù bản thân tôi có phải thiệt hại đến mức nào.”
“Trên đường phố đã có Star rồi,” Townsend nói như thể Armstrong đang ngồi trước mặt.
“Và giữ cho những nhà báo ưu tú nhất nước Mỹ có việc làm.”
“Họ đang làm cho Star.”
“Và có lẽ nếu gặp may mắn, tôi sẽ tạo ra một lợi nhuận nho nhỏ,” Armstrong nói thêm và cười.
“Mi sẽ phải rất may mắn,” Townsend nói. “Bây giờ hãy hỏi xem hắn định điều đình với công đoàn thế nào,” ông nói thêm, dán mắt vào Barbara Walters.
“Nhưng phải chăng không có những vấn đề lớn với người lãnh đạo đã bao vây Tribune suốt ba thập kỷ qua hay sao?”
Townsend để mặc vòi hoa sen tuôn nước khi đợi nghe câu trả lời: “Có lẽ trường hợp này trước kia đã xảy ra, thưa cô Barbara,” Armstrong nói. “Nhưng tôi sẽ nói rõ hơn với tất cả các công đoàn có liên quan rằng nếu họ không đồng ý với đề xuất cắt giảm lực lượng lao động của tôi, tôi sẽ chẳng còn cách nào khác là phải đóng cửa tờ báo vĩnh viễn.”
“Mi sẽ cho họ bao lâu?” Townsend gặng hỏi, không rời mắt khỏi màn hình.
“Tôi không thể đặt ra một thời hạn rõ ràng hơn với những ngưòi lãnh đạo công đoàn,” Armstrong nói kiên quyết. “Tối đa là sáu tuần.”
“Vâng, chúc may mắn, thưa ngài Armstrong.” Barbara Walters nói. “Tôi mong được phỏng vấn lại ngài sau sáu tuần nữa.”
“Tôi rất vui mừng được nhận lời hẹn này, thưa cô Barbara,” Armstrong nói, giơ tay chạm vào chiếc mũ lưỡi trai. Townsend tắt ti vi, cởi áo khoác ngoài và đi tắm.
Kể từ lúc ấy ông không cần nhờ bất kỳ ai nói cho biết Armstrong đang định làm gì. Với khoản đầu tư là một phần tư ngày ông đã có thể theo kịp tình hình bằng cách đọc trang nhất của tờ Tribune. Woody Allen gợi ý rằng phải có một vụ đâm máy bay ở miền Trung nước Anh mới có thể lôi Armstrong ra khỏi trang nhất tờ báo – và thậm chí đó phải là máy bay Concorde.
Townsend cũng gặp rắc rối với công đoàn. Khi Star xảy ra bãi công, chỉ qua một đêm, tờ Tribune đã hầu như tăng gấp đôi số phát hành. Armstrong xuất hiện ở tất cả các kênh truyền hình mời ông ta, nói với dân chúng New York rằng “Nếu các bạn biết cách đàm phán với công đoàn, các cuộc bãi công sẽ trở nên không cần thiết.” Những người lãnh đạo công đoàn nhanh chóng đoán ra rằng Armtrong thích lên trang nhất của báo và đặc biệt thích xuất hiện trên truyền hình và rằng ông ta sẽ rất miễn cưỡng phải đóng cửa Tribune hoặc thừa nhận mình đã thất bại.
Khi cuối cùng Townsend dàn xếp xong với công đoàn, Star đã vắng mặt trên đường phố hơn hai tháng, và đã mất vài triệu đô la. Nó khiến anh phải thực hiện một cuộc cải tổ lớn để khôi phục lại số phát hành. Tuy nhiên, hàng loạt những tiêu đề nói với người dân New York rằng “Dick đang cắn vào quả táo lớn.” “Dick bắt chước giọng Mỹ” và “Dick thần kỳ sút thủng lưới Nicks” chẳng giúp gì được cho số phát hành của Tribune, nhưng chúng lại xuất hiện khiêm tốn khi những đoàn quân từ vùng Vịnh trở về (và thành phố đã tặng cho những người lính đó một cuộc diễu hành chào mừng dọc theo Đại lộ 15). Trang nhất của Tribune đăng ảnh Armstrong đứng trên bục giữa Đại tướng Schwavzkopf và Thị trưởng Dinkins; còn câu chuyện ở trang trong thì lại đề cập tới chi tiết mọi sự kiện nói về đại úy Armstrong, đăng kín tới bốn trang.
Nhưng khi nhiều tuần đã qua đi, Townsend không thể phát hiện được bất kỳ kết quả nào mà Arsmtrong tuyên bố đã đạt được một thỏa thuận với công đoàn ngành in, như ông có thể thấy, thông qua các cột báo của tờ Tribune. Khi Barbara Waters mời ông ta quay lại tham dự chương trình 6 tuần sau đó, thư ký của Armstrong nói với cô rằng chẳng có gì làm ông ta vui mừng hơn là được làm thế, nhưng ông phải về Lon don tham dự cuộc họp hội đồng quản trị của công ty Mẹ.
Ít nhất thì đó cũng là sự thực – nhưng chỉ vì Peter Wakeham đã gọi điện cảnh báo cho ông rằng ngài Paul đang sẵn sàng gây sự và muốn biết ông định giữ tờ New York Tribune bao lâu nữa trong khi mỗi tuần nó mất hơn một triệu đô la.
“Ai làm ông ta tưởng rằng mình còn được ngồi trên ghế chủ tịch?” Armstrong hỏi.
“Tôi hoàn toàn đồng ý với ông,” Peter nói. “Nhưng tôi nghĩ ông nên biết ông ấỵ đã nói gì vói mọi người.”
“Vậy là tôi phải trở về và giải thích một chút sự thật cho ngài Paul, có phải không?”
oOo
Trước 10 giờ 30 vài phút, một chiếc Limousine dừng lại bên ngoài tòa án quận ở Lower Manhattan. Townsend cùng luật sư của ông ra khỏi xe và nhanh nhẹn bước lên những bậc thềm của tòa án. Hôm trước, Tom Spencer đã đến tòa nhà để dàn xếp mọi thủ tục luật pháp, vì vậy ông biết rõ nơi thân chủ mình cần tới, và dẫn ông đi qua một mô cung những hành lang. Khi đến phòng xử, họ len vào một trong những chiếc ghế băng đã chật ních người ở gần phía cuối và kiên nhẫn chờ đợi. Căn phòng chen chúc những người nói bằng đủ thứ tiếng khác nhau. Họ ngồi im lặng giữa hai người Cuba, và Townsend tự hỏi không biết liệu ông quyết định có đúng không. Tom khư khư ý kiến cho rằng đây là con đường duy nhất để ngỏ cho ông nếu ông muốn mở rộng đế chế của mình, nhưng ông biết rằng những người đồng hương của mình, không kể đến giới lãnh đạo Anh, sẽ khinh miệt những lý do đó. Cái ông không thể nói với họ là không có kiểu ngôn ngữ nào đã từng khiến ông cảm thấy ông là cái gì khác hơn một người Úc.
Hai mươi phút sau, viên chánh án trong chiếc áo thụng đen bước vào phòng xử và mọi người đứng dậy. Khi ông ta đã yên vị trên ghế, một nhân viên văn phòng nhập cư bước lên trước và nói, “Thưa ngài, tôi xin được phép giới thiệu 172 người nhập cư để ngài xem xét việc cho họ trở thành công dân Mỹ.”
“Tất cả những người đó đã theo đúng các thủ tục như yêu cầu của luật pháp?” Chánh án long trọng hỏi.
“Vâng, thưa ngài.” Người nhân viên tòa án đáp.
“Vậy ông có thể cho tuyên thệ.”
Townsend và 171 người sẽ là người Mỹ khác đồng thanh nhắc lại những từ mà ông vừa mới đọc lần đầu tiên khi ngồi xe trên đường tới tòa.
“Tôi xin thề sẽ từ bỏ hoàn toàn và tuyệt đối
mọi bổn phận và lòng trung thành với
hoàng đế, vua chúa, quốc gia hoặc chính thể
mà tôi đã từng là thần dân hoặc công dân;
tôi sẽ ủng hộ và bảo vệ hiến pháp và luật
pháp của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ chống
lại mọi kẻ thù trong và ngoài nước; tôi sẽ
mang trong lòng nghĩa vụ và niềm tin; tôi sẽ
mang sức mạnh nhân danh nước Mỹ khi
luật pháp yêu cầu; tôi sẽ thực hiện công tác
phục vụ không tham chiến trong quân đội
Hợp chủng quốc khi luật pháp đòi hỏi tôi
làm như vậy, tôi sẽ thực hiện những công
việc có tầm quan trọng quốc gia dưới sự điều
khiển dân sự khi luật pháp yêu cầu, và tôi
sẽ tự do gánh lấy bổn phận này mà không bị
bất cứ một sự ép buộc hay lẩn tránh nào.
– Xin Chúa phù hộ.”
Viên chánh án mỉm cười với những khuôn mặt hân hoan. “Cho phép tôi là người đầu tiên được đón chào các vị như những công dân của Hợp Chủng Quốc,” ông ta nói.
oOo
Khi chuông đồng hồ điểm 11 tiếng, ngài Paul Maitland khẽ ho và cho rằng có lẽ đã đến lúc tiến hành cuộc họp. “Tôi muốn mở đầu bằng việc chúc mừng ngài giám đốc điều hành của chúng ta đã từ New York trở về,” ông nói và liếc nhìn sang bên phải. Có những tiếng rì rầm tán thưởng vang lên quanh bàn. “Nhưng sẽ là yếu đuối nếu tôi không thừa nhận có chút lo lắng do một số báo cáo đến từ nơi khác.” Những tiếng rì rầm nhắc lại, và lần này có lớn hơn một chút.
“Hội đồng quản trị đã ủng hộ ông, Dick, khi ông mua tờ New York Tribune với giá 25 xu khi chưa có sự chấp nhận của Hội đồng,” Paul tiếp tục nói. “Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng ông nên cho chúng tôi biết ông còn sẵn sàng chịu cả triệu đô la mỗi tuần bao lâu nữa. Do tình hình hiện nay,” ông ta vừa nói vừa đưa ra trước mặt Armstrong một dẫy những con số, “là lợi nhuận của tập đoàn ở London chỉ vừa đủ bù đắp những thiệt hại mà chúng ta đang duy trì ở New York. Trong thời gian vài tuần nữa chúng ta sẽ phải đối mặt với các cổ đông tại Đại hội toàn thể thường niên,” ông ta nhìn lên những cộng sự của mình đang ngồi quanh bàn, “và tôi không tin họ sẽ chấp nhận sự điều hành của chúng ta nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài lâu hơn. Như các ông đều biết rõ, trong tháng qua, giá cổ phiếu của chúng ta đã giảm từ 3,10 bảng xuống 2,70 bảng.” Paul ngả người ra sau ghế và quay sang Armstrong, tỏ ra sẵn sàng nghe lời giải thích của anh.
Armstrong chậm rãi nhìn suốt lượt phòng họp, biết rõ ràng hầu hết mọi người có mặt ở đây là vì sự bảo trợ của ông.
“Thưa ngài chủ tịch, tôi có thể nói với hội đồng quản trị rằng,” ông mở đầu, “cuộc đàm phán của tôi với những công đoàn New York, mà tôi phải thừa nhận là đã khiến tôi nhiều đêm mất ngủ, cuối cùng đã đạt được thỏa thuận.” Ông ngừng lời khi một vài nụ cười xuất hiện trên những gương mặt quanh bàn.
“720 thành viên công đoàn ngành in đã đồng ý nghỉ hưu sớm, hoặc chấp nhận là số lao động dôi dư. Tôi sẽ thông báo chính thức ngay khi quay lại New York.”
“Nhưng tờ Wall Street Journal đã đánh giá,” Paul vừa nói vừa rút từ trong cặp ra một tờ báo ,”rằng chúng ta cần giảm từ 1500 đến 2000 lao động.”
“Cái gì đã tạo ra những hiểu biết nhiều nhặn ấy, phải chăng là việc ngồi trong khu văn phòng có điều hòa không khí dễ chịu?” Armstrong nói. “Tôi mới là người phải trực tiếp nói chuyện với từng người trong số họ.”
“Tuy nhiên…”
“Cuộc đàm phán thứ hai với những người bị sa thải và dôi dư sẽ diễn ra trong vài tuần nữa,” Armstrong tiếp lời. “Tôi vẫn tin rằng tôi sẽ đạt được kết quả với cuộc đàm phán này trước khi diễn ra cuộc họp Hội đồng Quản trị lần sau.”
“Và ông hình dung là còn bao nhiêu tuần nữa chúng tôi mới nhìn thấy lợi ích của những cuộc đàm phán này?”
Armstrong ngập ngừng. “Sáu tuần, nhiều nhất là tám tuần, thưa ngài chủ tịch. Nhưng tất nhiên là tôi sẽ làm mọi điều trong khả năng của tôi để đẩy nhanh tiến trình này.”
“Và chi phí trọn gói cuối cùng của công ty sẽ là bao nhiêu?” Paul vừa hỏi vừa lật bản tài liệu đánh máy trước mặt. Armstrong có thể thấy ông đã đánh dấu từng câu hỏi ghi sẵn trong đó.
“Tôi không có con số chính xác trong tay, thưa ngài chủ tịch,” Armtrong đáp.
“Theo như mục đích của cuộc họp, tôi sẽ bằng lòng,” Paul nói và nhìn vào cuốn vở của mình, “với cái mà người Mỹ gọi là con số dự kiến.” Vài tiếng cười nổ ra phá vỡ không khí căng thẳng quanh bàn họp.
“Hai trăm, có lẽ là hai trăm ba mươi triệu.” Armstrong nói, biết rõ là các nhân viên kế toán ở New York đã cảnh báo ông nó có thể lên tới gần ba trăm triệu. Không một ai trong số những người ngồi quanh bàn có ý kiến gì, mặc dù một hai người đã ghi lại những con số.
“Một điều có thể nằm ngoài sự lưu ý của ngài chủ tịch.” Armstrong nói, “đó là trụ sở của New York Tribune đã được thể hiện trên sổ sách, và ước tính khiêm tốn là 150 triệu.”
“Chừng nào nó còn cho ra báo,” Paul vừa nói vừa lật những trang của tập tài liệu bóng loáng do công ty luật mang tên Spender, Dickson & Withers cung cấp. “Nhưng trong tình huống xấu, tôi có thông tin đáng tin cậy là giá trị của nó không hơn 50 triệu.”
“Chúng ta không ở trong tình huống xấu.” Armstrong nói, “như mọi người sẽ sớm thấy rõ.”
“Tôi chỉ có thể hy vọng là ông đúng,” Paul nói khẽ.
Armstrong vẫn im lặng khi Hội đồng Quản trị tiến hành thảo luận những việc còn lại của chương trình nghị sự. Ông ngồi đó tự hỏi tại sao lại bị đập tơi bời ở chính đất nước mình, trong khi lại được tung hô như một anh hùng ở xứ sở khác. Tâm trí ông lan man quay trở lại đúng lúc Eric Chapman, thư ký công ty, đang nói “… và lúc này chúng ta có một số dư đáng hài lòng trong tài khoản, thưa ngài chủ tịch.”
“Khá hợp lẽ và thích đáng.” Paul nói. “Có lẽ ông sẽ vui lòng cho chúng tôi xem các số liệu, thưa ông Chapman.”
Viên thư ký công ty nâng cuốn sổ cái bìa da đã cũ lên bàn và chậm rãi giở qua các trang. “Quỹ trợ cấp,” anh ta bắt đầu, “như mọi thành viên Hội dồng đều biết, được tài trợ bởi các khoản đóng góp. Mỗi nhân viên nộp vào quỹ 4% lương. Nửa còn lại do người sử dụng lao động đóng góp. Trên cơ sở từng năm, chúng ta hiện đang trả cho các nhân viên cũ gần 34 triệu bảng, trong khi nhận được từ các nhân viên hiện đang làm việc 51 triệu bảng. Một phần nhờ ngân hàng của chúng ta đã tiến hành một chương trình đầu tư hết sức khôn ngoan, số dư tài khoản hiện đứng ở mức hơn 631 triệu bảng một chút, so với nghĩa vụ cần thực hiện đầy đủ theo luật định với những nhân viên cũ là khoảng 400 triệu bảng.”
“Rất đáng hài lòng,” Paul đồng tình. Armstrong tiếp tục chăm chú nghe.
“Mặc dù phải báo cho Hội đồng biết.” Chapman nói tiếp, “rằng tôi đã nhận được một số lời khuyên thực tế, và rằng mặc dù có thể xuất hiện một số dư lớn trên giấy, với tuổi thọ dự kiến tăng lên hằng năm, khoản tiền này không lớn hơn một khoản dự trữ cần thiết.”
“Chúng tôi ghi nhận lưu ý của ông,” Paul nói. “Còn việc gì nữa không?”
Không ai nói gì, và các giám đốc bắt đầu cho bút vào túi, gấp tài liệu lại và mở cặp ra.
“Tốt.” Paul nói. “Vậy tôi tuyên bố bế mạc cuộc họp và tất cả chúng ta có thể nghỉ ăn trưa”. Họ rời phòng họp để vào phòng ăn tối. Armstrong đi thẳng đến đầu bàn, ngồi xuống và bắt đầu tấn công vào món đầu tiên trước khi mọi người kịp ngồi vào chỗ. Ông ngoắc Eric Chapman khi anh này bước vào phòng, ra hiệu là muốn anh ta ngồi phía bên phải mình, trong khi Peter Wakeham chiếm chỗ ngồi bên tay trái. Ngài Paul tìm thấy một chỗ còn trống ở quãng giữa bàn, phía tay phải.
Armstrong để viên thư ký công ty luôn mồm nói về trận chơi golf của anh ta, về tình trạng chính phủ và kinh tế. Ông không chú ý nhiều đến những quan điểm của anh ta về Nick Faldo, Neil Kinnock và Alan Walter. Nhưng khi Chapman chuyển sang đề tài say mê nhất là quỹ trợ cấp, thì ông chăm chú như nuốt từng lời của anh ta.
“Công bằng mà nói thì chúng tôi phải cảm ơn ông, Dick ạ.” Chapman thừa nhận “Ông là người đã chỉ ra cái mỏ vàng mà họ giao lại cho chúng ta. Tất nhiên, thực ra nó không phải là của chúng ta. Nhưng những số dư luôn tạo ra một ấn tượng tốt trong bảng thu chi, chứ chưa nói đến những tài khoản kiểm toán phải trình ra tại Đại hội toàn thể thường niên.”
Sau khi rưới nước sốt lên năm miếng thịt bò rán khéo đã được đặt vào đĩa. Armstrong chuyển sự chú ý sang Peter, người vẫn rất mực trung thành với ông kể từ khi họ cùng nhau phục vụ ở Berlin.
“Tại sao anh lại không bay sang New York với tôi trong vài ngày, Peter?” Ông gợi ý khi người hầu gái bỏ khoai tây lên nửa đĩa bên kia. “Bằng cách đó anh sẽ có thể thấy được tôi sắp đặt được cái gì với công đoàn – và quan trọng hơn, là cái tôi đạt được. Sau đó, nếu vì lý do nào đó tôi không tham dự được cuộc họp tháng tới, anh có thể thay mặt tôi báo cáo với Hội đồng Quản trị.”
“Nếu đó là điều ông muốn,” Peter nói, thích thú với ý nghĩ được đi thăm New York, nhưng còn hy vọng hơn rằng người báo cáo ở cuộc họp lần sau sẽ vẫn là Dick.
“Hãy đặt một chiếc Concorde vào thứ Hai tới,” Armstrong nói. “Tôi có cuộc họp với Sean OReilly, một trong những nhà lãnh đạo công đoàn quan trọng nhất của tờ báo vào chiều hôm đó. Tôi muốn anh có mặt ở đó để thấy cách tôi đối xử với anh ta.”
Sau bữa trưa, Armstrong quay lại văn phòng và thấy một núi thư trên bàn. Ông chẳng buồn xem qua chúng. Thay vào đó ông nhấc điện thoại và yêu cầu nối máy đến phòng kế toán. Khi có tiếng trả lời ông nói, “Fred, anh có thể cho tôi một quyển séc được không? Tôi chỉ ở Anh trong ít giờ, và…”
“Tôi không phải là Fred, thưa ngài,” đầu dây bên kia đáp. “Tôi là Mark Tenby.”
“Vậy hãy cho tôi gặp Fred.”
“Fred đã nghỉ hưu ba tháng trước, thưa ngài”, kế toán trưởng nói, “ngài Paul bổ nhiệm tôi thay thế ông ấy.”
Armstrong suýt nữa định nói. “Với quyền của ai?” thì anh chợt đổi ý. “Phải,” ông nói. “Vậy có lẽ ông sẽ gửi ngay cho tôi cuốn séc. Vài giờ nữa tôi sẽ đi Mỹ.”
“Tất nhiên, thưa ngài Armstrong. Séc cá nhân hay công ty ạ?”
“Tài khoản quỹ trợ cấp,” ông đều đều nói. “Tôi sẽ thay mặt công ty tiến hành một hai vụ đầu tư trong thời gian ở Mỹ.”
Tiếp theo là một khoảng im lặng lâu hơn Armstrong mong đợi. “Vâng, thưa ngài. Tất nhiên, như tôi chắc là ngài cũng biết, ngài sẽ cần có chữ ký của một giám đốc thứ hai cho tài khoản đặc biệt này. Và tôi cũng cần nhắc ngài là luật công ty không cho phép đầu tư tiền trong quỹ trợ cấp vào bất kỳ công ty nào mà chúng ta đã có cổ phần chính ở đó.”
“Anh bạn trẻ, tôi không cần anh đọc luật công ty cho tôi,” Armstrong quát và dập máy. “Kiểm tra chết tiệt,” ông nói thêm trong căn phòng trống. “Hắn ta tưởng ai là người trả lương cho hắn chứ?”
Khi séc đã được gửi tới, Armstrong phớt lờ mọi lời lẽ giả dối được gửi kèm theo nó, và chạy ra khỏi phòng, thậm chí không tạm biệt Pamela. Ông đón thang máy lên sân thượng và bảo viên phi công trực thăng đưa ông đến Heathrow. Khi họ cất cánh, ông nhìn xuống London chẳng có chút cảm xúc nào như giờ đây ông đang cảm thấy đối với New York.
Hai mươi phút sau ông hạ cánh xuống sân bay Heathrow, và nhanh chóng đi vào phòng đợi. Trong khi đợi máy bay, có một vài người Mỹ tới bắt tay cảm ơn ông vì tất cả những gì ông đã làm cho người dân New York. Ông mỉm cười và tự hỏi không biết liệu điều gì sẽ xảy ra với cuộc đời ông nếu chuyến tàu mà ông trốn trên đó nhiều năm trước lại cập cảng đảo Ellis thay vì Liverpool? Có lẽ ông đã có thể kết thúc ở Nhà Trắng.
Chuyến bay của ông được thông báo, và ông đi ra máy bay. Sau khi được phục vụ một bữa ăn chẳng đủ no, ông ngủ chập chờn được khoảng vài giờ. Càng tới gần bò biển phía đông của nước Mỹ, ông càng tin rằng mình vẫn thắng được nó. Năm tới tờ Tribune sẽ không chỉ bán chạy hơn tờ Star, mà nó sẽ công bố một lợi nhuận mà ngay cả Paul Maitland cũng sẽ phải thừa nhận là do một tay ông đã đạt được. Và với triển vọng chính phủ của Công đảng sẽ nắm quyền, không ai nói trước được ông có thể đạt tới cái gì. Ông nguyệch ngoạc viết lên tờ thực đơn “Ngài Richard Amrstrong,” và sau đó một lát, ông gạch nó đi và viết bên dưới “Huân tước Armstrong của vùng Headley”.
Khi máy bay hạ cánh xuống đường băng sân bay Kenedy ông cảm thấy như trẻ lại, và không thể ngồi đợi để được đưa về văn phòng. Khi sải chân băng qua phòng kiểm tra hộ chiếu, các hành khách chỉ trỏ vào ông và ông có thể nghe thấy họ thì thầm, “Nhìn kìa, Dick Armstrong đấy.” Một số người thậm chí còn vẫy tay. Ông giả bộ như không để ý, nhưng một nụ cười tủm tỉm không lúc nào rời miệng ông. Chiếc Limousine đã đợi sẵn ở khu dành cho những nhân vật quan trọng, và nó nhanh chóng mang ông lướt về hướng Manhattan. Ông ngả người ra sau ghế và bật ti vi, chuyển hết kênh này đến kênh khác cho tới khi một khuôn mặt quen thuộc đột nhiên xen vào sự chú ý của ông.
“Đây là lúc tôi nên nghỉ hưu và tập trung vào hoạt động ở quỹ của tôi,” Henry Sinclair, chủ tịch tập đoàn Multi Media, một đế chế xuất bản lớn nhất thế giới, nói.
Amstrong lắng nghe Sinclair và tự hỏi không biết ông ta sẽ đòi giá bao nhiêu khi chiếc xe dừng lại bên ngoài tòa nhà Tribune. Armstrong gắng sức ra khỏi xe và khệ nệ đi qua vỉa hè. Sau khi đẩy cánh cửa quay, ông được mọi người trên suốt quãng từ hành lang dẫn đến thang máy đều vỗ tay chào đón. Ông mỉm cười với họ như thể đó là điều tất nhiên ở bất kỳ nơi nào mình tới. Một thành viên công đoàn nhìn cánh cửa thang máy đóng lại và tự hỏi liệu viên chủ bút có bao giờ nhận ra rằng tất cả các nhân viên của ông ta đã được lệnh phải hoan hô khi ông ta xuất hiện bất cứ lúc nào và ở bất cứ đâu. “Hãy đối xử với ông ta như với tổng thống và ông ta sẽ bắt đầu tin mình là tổng thống,” Sean OReilly đã nói trong cuộc họp kín, “Và hãy tiếp tục hoan hô cho đến chừng nào tiền bạc chảy ra.”
Cứ mỗi tầng, khi cửa thang máy mở ra tiếng hoan hô lại vang lên. Khi tới tầng 21, Armstrong thấy thư ký riêng đang đứng đợi ông. “Chào mừng ông trở về nhà”. Cô nói.
“Cô nói đúng đấy.” ông đáp khi ra khỏi thang máy. “Đây là nhà tôi. Tôi chỉ ước gì mình được sinh ra ở Mỹ, nếu được thế, giờ đây tôi đã có thể là tổng thống.”
“Ngài Critchley vừa tới trước ngài vài phút, và đang đợi ngài trong văn phòng,” cô thư ký nói khi họ đi xuôi theo hành lang.
“Tốt, Armstrong vừa nói vừa sải chân vào căn phòng rộng nhất của tòa nhà. “Rất vui được gặp lại ông, Russell,” ông nói khi viên luật sư đứng lên chào. “Vậy có phải ông đã sắp xếp được vấn đề công đoàn cho tôi không?”
“Tôi e là không phải, Dick,” Russell nói khi họ bắt tay. “Thực ra, việc này kết thúc không được tốt. Tôi rất tiếc phải báo là chúng ta sẽ phải bắt đầu lại.”
“Ông định nói gì, bắt đầu lại?” Armstrong nói.
“Trong khi ông đi, công đoàn đã từ chối khoản tiền 230 triệu đô la bồi thường trọn gói cho việc dư thừa lao động mà ông đã đề nghị. Họ đòi khoản tiền 370 triệu.”
Armstrong đổ sụp xuống ghế. “Tôi chỉ đi có vài ngày, và ông đã để tất cả sụp đổ hết!” Ông rít lên, nhìn ra cửa khi cô thư ký vào phòng và đặt bản đầu tiên cùa tờ Tribune lên bàn trước mặt ông. Ông chằm chằm nhìn xuống dòng tiêu đề: “Chúc mừng Dick trở về!”