Đọc truyện Quyền Lực Thứ Tư – Chương 32
Báo
WALL STREET JOURNAL
Ngày 12 tháng Chín, 1986
CỔ PHIẾU NEW YORK TỤT TỚI MỨC
KỶ LỤC : 86,61 ĐIỂM
“Thưa các quý ông và quý bà,” Armstrong mào đầu. “Tôi tổ chức buổi họp báo này để thông báo rằng sáng nay tôi đã báo cho Ủy ban Bảo mật Chuyển đổi là tôi quan tâm tới việc chính thức mua tờ báo New York Stars. Tôi vui mừng được báo tin cổ đông chính của tờ báo, bà Nancy Summers, đã bán số cổ phần của bà cho Công ty Truyền thông Armstrong với giá 4,140 đô la một cổ phần.”
Mặc dù một số nhà báo không ngừng chỉ trích Armstrong, trong hơn một tuần, mẩu tin này đã được đăng tải trên phần lớn các báo. Song ngòi bút của hầu hết các nhà báo vẫn đứng yên vì họ đợi những thông tin thực sự.
“Nhưng hôm nay tôi rất tự hào tuyên bố ” Armstrong tiếp tục, “rằng ngài Lloyd Summers, con trai bà Summers và là giám đốc quỹ mang tên bà, đã thế chấp 5% cổ phần đang nắm giữ của công ty cho tôi.
“Các bạn đừng ngạc nhiên vì đó là dự định của tôi để tiếp tục ủng hộ hoạt động nổi bật của Quỹ Summers trong việc hỗ trợ cho sự nghiệp của các họa sĩ và các nhà điêu khắc trẻ, những người thường không có cơ hội được triển lãm ở những phòng trưng bày lớn. Như nhiều người trong số các bạn biết, tôi đã từng có một thời gian lâu dài liên quan đến nghệ thuật, đặc biệt là với các họa sĩ trẻ.”
Không một nhà báo nào có mặt có thể nhớ được một hoạt động hội hoạ nào mà Armstrong đã từng tham gia, chứ đừng nói đến là ủng hộ. Phần lớn các ngọn bút vẫn nằm yên.
“Với sự ủng hộ của ngài Summers, hiện tôi đang quản lý 19% cổ phiếu của Star, và tôi mong trong một tương lai không xa sẽ trở thành cổ đông chính và được bổ nhiệm làm Chủ tịch của tờ báo tại Đại hội toàn thể thường niên tháng tới.”
Armstrong ngẩng đầu lên khỏi bài diễn văn đã được Russell Critchley chuẩn bị, và mỉm cười với rừng người. “Bây giờ, tôi rất sung sướng được trả lời câu hỏi của các ngài.”
Russell thấy Dick trả lời khá trôi chảy mấy câu hỏi đầu tiên. Rồi ông thấy Dick chỉ vào một phụ nữ ngồi ở hàng ghế thứ ba.
“J Brewer, Washington Post, tôi xin hỏi phản ứng của ông về bài báo sáng nay của Keith Townsend?”
“Tôi không bao giờ đọc những bài viết của Keith Townsend,” Armstrong nói “Chúng chỉ hợp với những tờ báo của ông ta.”
“Vậy hãy cho phép tôi đọc để cho ông rõ,” cô nói, nhìn xuống một tờ báo. “Có vẻ là ngài Townsend có sự hậu thuẫn của Giám đốc ngân hàng J.P. Greenville, người đã thế chấp 11% cổ phần vốn của họ ủng hộ gói thầu của ông ấy để chuyển nhượng tờ Star. Cùng với số cổ phiếu của bản thân, khoản này đem lại cho ông ấy hơn 15%.
Armstrong nhìn thẳng vào cô và nói, “Với cương vị là chủ tịch của Star, tôi sẽ vui mừng được đón ngài Townsend tại cuộc họp Đại hội toàn thể thường niên tháng tới như một cổ đông chính.”
Lúc này các ngọn bút bỗng lia lịa ghi lại từng lời của ông.
Ngồi trong trong căn phòng mới tại tầng 37 của Tháp Trump, Armstrong đọc qua bài viết của Townsend. Ông cười khoái trá khi đọc đến đoạn Townsend tán dương hoạt động của Quỹ Summers. “Muộn mất rồi,” ông nói lớn, “5% đó đã thuộc về ta.”
Ngay lập tức ông lệnh cho những người môi giới mua vào mọi cổ phiếu của Star có trên thị trường, với bất kỳ giá nào. Giá cổ phiếu tăng vọt vì rõ ràng là Townsend cũng đang làm một việc tương tự. Một số nhà phân tích tài chính chỉ ra rằng, vì “mối thâm thù riêng quá lớn”, cả hai người sẽ phải trả cao hơn giá trị thực tế.
Suốt 4 tuần sau đó, Armstrong và Townsend, được sự giúp đỡ của một đội ngũ các luật sư và kế toán, tốn không biết bao nhiêu giờ thức trắng trên máy bay, tầu hỏa và ô tô khi họ dọc ngang khắp nước Mỹ, cố thuyết phục các ngân hàng và các tổ chức, các tơrơt và thậm chí đôi khi cả những bà vợ góa giàu có để ủng hộ họ trong cuộc chiến chiếm tờ Star.
Chủ tịch tờ báo, Cornelius J. Adams IV, thông báo rằng ông sẽ chuyển giao quyền lực tại Đại hội toàn thể thường niên cho bất cứ địch thủ nào kiểm soát được 51% số cổ phần. Chỉ hai tuần trước Đại hội các biên tập viên tài chính vẫn không thể thống nhất ý kiến về việc ai là cổ đông lớn nhất của công ty. Townsend tuyên bố hiện đang kiểm soát 46% cổ phần, trong khi Armstrong tự nhận là đã có 41%. Do đó, các nhà phân tích kết luận rằng bất kỳ ai trong số họ giành được 10% do tập đoàn Applebaum nắm giữ, chắc chắn phải đăng ngay tin đó trong ngày.
Vic Applebaum được quyền định đoạt để có danh tiếng trong 15 phút, đã tuyên bố với bất kỳ ai quan tâm, rằng ý định của ông là được thấy cả hai làm chủ bút trước khi đi đến quyết định cuối cùng. Ông chọn ngày thứ Ba trước Đại hội để tiến hành cuộc phỏng vấn sẽ quyết định người được ông dành cho sự ủng hộ.
Các luật sư của hai đối thủ họp nhau ở một khu vực trung lập, và đồng ý để Armstrong gặp Applebaum trước, mà Tom Spencer đảm bảo với thân chủ của mình, đó là một sai lầm chiến thuật. Townsend đồng ý, cho tới khi Armstrong từ chỗ họp đi ra, tay nắm chặt số cổ phiếu chứng tỏ ông đã giành được 10% của Applebaum.
“Hắn ta xoay xở thế quái nào vậy,” Townsend nghi hoặc thốt lên.
Tom không trả lời được cho mãi đến sáng hôm sau, khi đọc số đầu tiên của tờ New York Times trong bữa điểm tâm. Các phóng viên của nó thông báo cho độc giả trên trang nhất rằng Armstrong đã không mất công giải thích cho ngài Applebaum rằng sẽ quản lý Star như thế nào, mà tập trung nhiều hơn vào việc nói chuyện với ông bằng tiếng Iđít (1), rằng ông ta chưa bao giờ thật sự hồi phục kể từ khi mất hết gia đình ở Holocaust, và đã kết thúc cuộc gặp bằng cách thổ lộ rằng thời khắc đáng tự hào nhất trong đời ông đã diễn ra khi Thủ tướng Israel bổ nhiệm ông làm đại sứ lưu động ở Liên Xô, đặc trách việc giúp đỡ những người Do thái gốc Nga mong muốn được nhập cư vào Israel. Tới lúc này hình như Applebaum đã bật khóc, đưa số cổ phiếu cho ông ta và từ chối gặp Townsend.
Armstrong tuyên bố hiện giờ đã kiểm soát được 51% công ty, do đó sẽ là người chủ mới của New York Stars. Tờ Wall Street Journal nhất trí với điều này, tuyên bố Đại hội toàn thể thường niên của Star chẳng hơn gì lễ xức nước thánh. Nhưng nó lại tái bút thêm rằng Townsend không nên quá buồn vì mất tờ báo cho địch thủ lớn nhất. Vì giá cổ phiếu tăng mạnh, ông ta sẽ được lãi 20 triệu đô la.
Chuyên mục nghệ thuật của New York Times nhắc độc giả là tối thứ Sáu, Quỹ Summers sẽ mở triển lãm tranh của trường phái Những người đi tiên phong. Sau xác nhận của những vua báo chí ủng hộ Lloyd Summers và hoạt động của quỹ, bài báo viết, mọi người đang thích thú chờ xem liệu ai trong số họ muốn tới xem.
Tom Spencer khuyên Townsend rằng có lẽ khôn ngoan hơn cả là ghé vào đó ít phút, vì Armstrong chắc chắn sẽ có ở đó, và người ta không bao giờ biết được mình có thể nhặt được gì trong những trường hợp như thế này.
oOo
Ngay khi tới, Townsend đã ân hận vì quyết định tham dự triển lãm. Khi đảo quanh phòng, xem lướt qua những bức tranh được các ủy viên quản trị chọn lựa và kết luận rằng tất cả số chúng, không có ngoại lệ, là cái mà Kate sẽ mô tả là “những đồ rác rưởi hợm hĩnh,” ông quyết định rời khỏi nó càng nhanh càng tốt. Ông đã đi được tới cửa thì Summers xuất hiện, tay khẽ đập vào micro và kêu gọi mọi người im lặng. Sau đó viên giám đốc lên nói “một vài điều”. Townsend xem đồng hồ. Khi ngửng lên ông thấy Armstrong, cầm chắc cuốn catalô đứng cạnh Summers và tươi cười với các nhóm khách.
Summers bắt đầu nói rằng anh ta rất buồn vì người mẹ không thể cùng tham dự do bà bị ốm đã lâu. Sau đó anh ta phát biểu một bài dài, tán dương những ưu việt của các hoạ sĩ có tác phẩm được chọn. Hai mươi phút sau anh ta tuyên bố rất lấy làm vui mừng vì chủ bút mới của New York Stars đã bớt chút thời gian đến dự “một trong những buổi dạ hội nhỏ của chúng ta”.
Tiếng vỗ tay lác đác nổi lên, bị cản trở bởi mọi người còn bận cầm ly rượu, và Armstrong lại tươi cười một lần nữa. Townsend chắc mẩm Summers đã phát biểu xong và quay người định bước đi, nhưng anh ta lại nói thêm. “Đáng buồn, đây sẽ là triển lãm cuối cùng được tổ chức tại đây. Vì tôi chắc tất cả đều biết, hạn thuê của chúng tôi sẽ hết vào tháng 12.” Có tiếng thở dài khắp phòng, nhưng Summers giơ tay và nói. “Xin đừng lo lắng, các bạn của tôi, sau một thời gian dài tìm kiếm, tôi tin rằng đã tìm thấy một địa điểm hoàn hảo để quỹ trú chân. Hy vọng tất cả chúng ta sẽ gặp nhau tại đó trong triển lãm sau.”
“Mặc dù chỉ có một hai người trong chúng ta biết tại sao địa điểm đặc biệt đó lại được chọn,” một người nào nào đó lẩm bẩm nói sau lưng Townsend. Anh nhìn quanh và thấy một phụ nữ mảnh khảnh quãng ngoài 30 tuổi, có mớ tóc nâu vàng ngắn và dầy, mặc chiếc áo choàng trắng và chiếc sơ mi hoa. Tấm biển nhỏ trên áo khoác cho biết đó là bà Angela Humphries, giám đốc thường trực.
“Và sẽ là một sự khởi đầu tuyệt vời,” Summers nói tiếp “nếu triển lãm đầu tiên ở tòa nhà mới của chúng ta sẽ được chủ bút mới của Star, người đã hào phóng cam kết tiếp tục giúp đỡ quỹ, khai trương.”
Armstrong mỉm cười và gật đầu.
“Nếu ông ta còn một chút thông minh, ông ta sẽ không làm thế,” người phụ nữ đứng sau Townsend nói. Ông lùi dần về phía sau tới mức đứng ngay cạnh Angela Humphries đang nhấm nháp ly sâm panh Tây Ban Nha.
“Xin cảm ơn, những người bạn yêu quý của tôi,” Summers nói. “Bây giờ, xin mời mọi người tiếp tục xem triển lãm.” Tiếp đó là một tràng vỗ tay, sau đó Armstrong bước lên phía trước và bắt tay vị giám đốc thật chặt. Summers bắt đầu đi xuống chỗ khách, giởi thiệu Armstrong với những người anh cho là quan trọng.
Townsend quay sang Angela Humphries khi cô đã uống xong. Ông nhanh chóng cầm lấy chai sâm panh Tây Ban Nha ở chiếc bàn phía sau họ và rót đầy cốc của cô.
“Cảm ơn ông,” cô nói, lần đầu tiên nhìn kỹ ông. “Như ông có thể thấy, tôi là Angela Humphries. Còn ông?”
“Tôi từ nơi khác đến.” Ông ngập ngừng. “Tôi vừa tới New York nhân một công chuyện.”
Angela uống một ngụm trước khi hỏi, “Công chuyện của ông thuộc loại gì vậy?”
“Tôi làm trong ngành vận tải, chủ yếu là máy bay và xe tải. Mặc dù tôi làm chủ hai mỏ than.”
“Phần lớn số chúng đáng bỏ xuống mỏ than.” Angela nói, tay không cầm cốc ra hiệu về phía những bức tranh.
“Tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của cô,” Townsend nói.
“Vậy điều gì đã khiến ông tới đây.”
“Tôi có một mình ở New York và đọc được trên tờ Times về cuộc triển lãm,” ông đáp.
“Vậy ông thích khuynh hướng nghệ thuật nào?” Cô hỏi.
Townsend tránh không nói “Boyd, Nolan và Williams,” những người đã tạo nên những bức tường của căn nhà anh ở Daring Point, và bảo cô “Bonnard, Camoir và Vuillard,” những người Kate đã nhiều năm sưu tập.
“Bây giờ họ đã có thể vẽ một cách thực sự,” Angela nói. “Nếu ông hâm mộ họ, tôi nghĩ có nhiều triển lãm đáng để đi xem vào buổi tốỉ.”
“Thật tuyệt, nếu cô biết chỗ nào đó đáng để đi xem, nhưng… có tiện cho cô không ?”
Cô nhướn mày. “Ông đã có gia đình chưa?”
“Chưa,” ông đáp, hy vọng cô tin. “Thế còn cô?”
“Tôi đã ly hôn,” cô nói. “Tôi đã lấy một họa sĩ, anh ta thuyết phục tôi rằng tài năng của anh ta chỉ đứng sau Bellini.”
“Còn thực tế thì sao?” Townsend hỏi.
“Bị từ chối, không được tham gia triển lãm này,” cô đáp, “điều đó có lẽ làm ông hiểu.”
Townsend cười phá lên. Mọi người bắt đầu tuôn ra cửa, Armstrong và Summers giờ chỉ cách họ một quãng ngắn. Khi Townsend rót cho Angela ly sâm panh nữa, Armstrong đã bất ngờ đứng đối mặt với ông. Trong một khoảnh khắc, hai người đàn ông nhìn nhau chằm chằm, sau đó Armstrong túm lấy Summers và nhanh chóng lôi anh ta trở lại giữa phòng.
“Ông có để ý anh ta không muốn giới thiệu tôi với chủ bút mới,” Angela buồn bã nói.
Townsend không buồn giải thích rằng đó có lẽ là do Armstrong không muốn ông gặp viên giám đốc.
“Rất vui được gặp ông, ông…”
“Bữa tối nay cô bận gì không?”
Cô lưỡng lự một lát. “Không, tôi chưa có kế hoạch gì cả, nhưng lại có việc phải làm vào sáng sớm ngày mai.”
“Tôi cũng vậy,” Townsend nói. “Tại sao chúng ta không kiếm chút gì ăn nhỉ?”
“Được thôi. Chờ tôi một phút để đi lấy áo khoác.”
Khi cô đã đi khuất vào phòng giữ áo, Townsend đưa mắt nhìn khắp phòng. Armstrong, với Summers theo sau, bị bao vây bởi một đám đông những người hâm mộ. Chẳng cần lại gần Townsend cũng biết ông ta sẽ ba hoa với họ về những kế hoạch đầy hứng khởi cho tương lai của quỹ.
Lát sau Angela quay lại, mặc trên người chiếc áo khoác mùa đông nặng và dài gần sát đất. “Cô muốn ăn ở đâu?” Townsend hỏi khi họ bắt đầu bước lên chiếc cầu thang rộng dẫn từ tầng hầm, nơi đặt phòng triển lãm, lên phố.
“Tất cả những nhà hàng lịch sự gần đây, vào giờ này của tối thứ Năm, đều đã hết chỗ,” Angela nói. “Ông nghỉ ở đâu?”
“Khách sạn Carlyle.”
“Tôi chưa bao giờ ăn ở đó. Nó có thể rất thú vị,” cô nói khi anh mở cửa. Lúc họ bước ra ngoài vỉa hè họ được đón chào bằng làn gió lạnh buốt của New York, và anh suýt ôm choàng lấy cô.
Người lái xe ngồi trong chiếc BMW đợi Townsend, ngạc nhiên thấy ông vẫy taxi, và còn ngạc nhiên hơn khi thấy cô gái cùng đi với ông. Thành thật mà nói, anh ta không nghĩ đấy là loại phụ nữ mà ngài Townsend thích. Anh ta nổ máy và bám sau chiếc taxi đến Carlyle, nhìn họ đi vào Madison và biến mất sau cánh cửa.
Townsend dẫn Angela vào phòng ăn ở tầng một, hy vọng người quản lý không nhớ tên anh.
“Chào ngài,” ông ta nói. “Ngài có đặt bàn trước không?”
“Không,” Townsend đáp. “Nhưng tôi đang nghỉ ở khách sạn này.”
Người quản lý cau mày. “Tôi rất tiếc, thưa ngài, nhưng tôi không thể xếp chỗ cho ngài, ít nhất là 30 phút nữa. Tất nhiên, ngài có thể được phục vụ tại phòng, nếu ngài muốn.”
“Không, chúng tôi sẽ đợi ở quầy bar,” Townsend nói.
“Thực sự là tôi có cuộc hẹn vào sáng sớm mai,” Angela nói. “Và tôi không thể đến muộn được.”
“Hay là chúng ta kiếm một tiệm ăn nào đó?”
“Tôi sẽ vui nếu được ăn trong phòng của ông, nhưng tới 11 giờ là tôi phải đi rồi.”
“Đúng ý tôi.” Townsend nói. Ông quay lại phía người quản lý và bảo, “Chúng tôi sẽ ăn tối ở phòng.
Ông ta hơi cúi đầu. “Tôi sẽ cho người lên đó ngay bây giờ. Số phòng của ngài bao nhiêu, xin lỗi ngài ?”
“712,” Townsend nói. Ông đưa Angela ra khỏi phòng ăn. Khi đi dọc hành lang họ lướt qua căn phòng Bobby Schultz đang biểu diễn.
“Giờ đây ông ấy đã thật sự tài năng,” Angela nói khi họ đi về phía thang máy. Townsend gật đầu và mỉm cười. Họ nhập vào một nhóm khách ngay trước cánh cửa đóng kín, và ông ấn nút tầng 17. Khi họ bước ra ngoài cô tặng anh một nụ cười căng thẳng. Anh muốn an ủi cô rằng cơ thể cô không phải là cái khiến anh quan tâm.
Townsend vặn khóa và đẩy cửa để Angela bước vào. Ông yên tâm khi nhìn thấy chai sâm panh được ca ngợi mà ông không buồn mở vẫn nằm trên chiếc bàn giữa phòng. Cô cởi áo khoác và quẳng nó lên chiếc ghế gần nhất trong khi ông bóc chiếc chụp màu vàng khỏi cổ chai, sau đó nhẹ nhàng mở nút và rót đầy đến miệng hai ly.
“Tôi không uống được nhiều đâu,” cô nói. “Tôi đã uống khá nhiều ở phòng trưng bày rồi.” Townsend nâng ly vừa lúc có tiếng gõ cửa. Người hầu bàn hiện ra, tay cầm bảng thực đơn, một tập giấy và chiếc bút chì.
“Một cá hồi và salát là đủ cho tôi,” Angela nói, không nhìn tờ thực đơn.
“Có xương hay rút xương, thưa bà?” Người hầu bàn hỏi.
“Rút xương.”
“Vậy tại sao anh không làm hai?” Townsend nói. Sau đó ông chọn hai chai rượu Pháp, bỏ qua món rượu Chardonnay Úc ưa thích của mình.
Khi họ đã yên vị, Angela bắt đầu kể về những họa sĩ khác đang triển lãm tranh ở New York, sự nhiệt tình và hiểu biết của cô về đề tài này khiến Townsend suýt quên mất lý do khiến ông mời cô đi ăn tối. Trong khi đợi các món ăn đưa tới, ông dần dần hướng câu chuyện xung quanh công việc của cô ở phòng trưng bày. Ông tán thành sự đánh giá của cô về những triển lãm gần đây, và hỏi tại sao cô, với cương vị là giám đốc thường trực, lại không làm một điều gì đó.
“Danh nghĩa lớn đó chỉ mang một chút hoặc hầu như chẳng mang lại ảnh hưởng gì,” cô nói với một tiếng thở dài.
“Vậy là Summers tự ra mọi quyết định?”
“Anh ta hẳn đang làm thế. Tôi sẽ không lãng phí tiền bạc của quỹ vào những đồ thông thái rởm đó. Ở ngoài còn có rất nhiều tài năng thật sự, nếu có một người nào đó nêu vấn đề ra và xem xét nó.”
“Triển lãm đã treo đẹp đấy chứ,” Townsend nói, cố đẩy cô đi xa hơn.
“Treo đẹp?” Cô nói bằng giọng hoài nghi. “Tôi không đề cập đến cách treo – hoặc về ánh sáng, hay khung tranh trong chuyện này. Tôi chỉ quan tâm tới các bức tranh. Dù sao đi nữa, đó là cái duy nhất mà một phòng trưng bày nên có.”
Có tiếng gõ cửa. Townsend đứng dậy và tránh sang bên để người hầu bàn đi vào, đẩy theo một chiếc xe nặng trĩu. Anh ta thu dọn chiếc bàn ở giữa phòng và bày lên đó bữa tối cho hai người, giải thích rằng cá được giữ trong ngăn ấm bên dưới. Townsend ký séc và thưởng cho anh ta 10 đô la. “Tôi có phải quay lại dọn các thứ không, thưa ngài?” Người hầu bàn lễ phép hỏi. Anh ta nhận được một cái lắc đầu khẽ nhưng rõ ràng.
Angela động thìa vào món salát khi Townsend ngồi xuống ghế đối diện. Ông gợi ý. “Vậy cô cho rằng Summers có lẽ đã tiêu nhiều hơn mức cần thiết cho cuộc triển lãm?”
“Nhiều hơn mức cần thiết à?” Angela nói khi cô nếm một ngụm rượu trắng. “Mỗi năm anh ta phung phí hơn một triệu đô la của quỹ. Chúng tôi chẳng thấy có gì hơn là vài bữa tiệc, mà mục đích duy nhất của chúng là đề cao cái tôi của anh ta.”
“Anh ta tiêu cách gì mà phung phí đến một triệu đôla một năm?” Townsend hỏi, giả bộ đang tập trung vào món salát.
” Ồ, thí dụ như tổ chức cuộc triển lãm tối nay. Nó tốn mất của quỹ 1/4 triệu đô la, chỉ để bắt đầu. Sau đó sẽ chưa biết là bao nhiêu.”
“Vậy anh ta làm thế nào để kiếm lại chúng?” Townsend hỏi, đổ đầy rượu vào ly của cô, hy vọng cô không nhận thấy ông quá chú ý tới Summers.
“Vì chẳng có ai kiểm tra xem anh ta đang hướng tới cái gì,” Angela nói. “Quỹ do mẹ của anh ta cai quản, bà ta nắm giữ cả loạt hầu bao – ít nhất là kể cả Đại hội toàn thể thường niên.”
“Bà Summers?” Townsend nhắc, cố giữ dòng câu chuyện.
“Không ít hơn,” Angela nói.
“Vậy tại sao bà ấy không làm gì cả?”
“Bà ấy có thể làm gì nào? Người đàn bà tội nghiệp đã nằm liệt giường suốt hai năm qua, hằng ngày chỉ có một người đến thăm nom. Tôi có thể nói thêm rằng bà ta đã dành hết tất cả cho đứa con trai duy nhất.”
“Tôi cho rằng mọi chuyện có thể thay đổi chừng nào Armstrong nắm được nó”
“Tại sao ông nói vậy? Ông biết ông ta à?”
“Không,” Townsend nói nhanh, cố sửa chữa sơ suất của mình. “Nhưng tất cả những gì tôi đã đọc về ông ấy cho thấy ông ấy không quan tâm nhiều đến những kẻ theo đóm ăn tàn.”
“Tôi chỉ hy vọng đúng là như thế,” Angela nói, tự rót thêm một ly nữa, “vì điều đó sẽ cho tôi cơ hội để chứng tỏ cho ông ta thấy tôi có thể làm được gì cho quỹ.”
“Có lẽ đó là lý do tại sao tối nay Summers không để Armstrong thoát khỏi tầm mắt.”
“Thậm chí anh ta không giới thiệu ông ấy với tôi,” Angela nói, “như tôi chắc là ông đã để ý thấy. Lloyd sẽ không từ bỏ kiểu sống của anh ta nếu không có một cuộc chiến, điều đó là chắc chắn.” Cô chọc nĩa vào một miếng bí. “Và nếu anh ta có thể kiếm được Armstrong để ký thuê nhà mới trước Đại hội toàn thể thường niên, sẽ chẳng có lý do gì để anh ta làm điều đó. Rượu này thực sự là đặc biệt,” cô nói, đặt chiếc ly không xuống. Townsend lại rót đầy nó, và không đóng nút chai thứ hai.
“Có phải ông cố làm tôi say không?” Cô vừa cười vừa hỏi.
“Tôi chưa bao giờ có ý nghĩ đó,” Townsend nói. Ông đứng lên, lấy hai đĩa ra khỏi ngăn giữ ấm và đặt chúng lên bàn. “Hãy cho tôi biết,” ông nói, “cô có mong chuyển đi không?”
“Chuyển đi?” Cô nói khi rưới một ít nước sốt Hollandaise lên đĩa.
“Tới khu nhà mới của quỹ“, Townsend nói. “Nghe đồn có vẻ Lloyd đã tìm được một khu vực hoàn hảo.”
“Hoàn hảo?” Cô nhắc lại. “Với 3 triệu đô la nó nên là hoàn hảo. Nhưng hoàn hảo với ai?” Cô nói, nhấc dao và dĩa lên.
“Vì, như anh ta giải thích,” Townsend nói, “họ không có nhiều cách để lựa chọn.”
“Không, Hội đồng Quản trị không có nhiều cách để lựa chọn vì anh ta bảo họ rằng không còn cách nào khác.”
“Nhưng hạn thuê tòa nhà hiện nay sắp hết mà?” Townsend nói.
“Cái mà anh ta không nói với ông trong bài diễn văn là người chủ sẽ rất hạnh phúc được ký lại hợp đồng cho thuê trong mười năm nữa mà không cần tăng giá,” Angela nói, nâng ly rượu lên. “Tôi thật sự không nên uống thêm nữa, nhưng sau những thứ rác rưởi mà họ đưa ra ở phòng trưng bày, đây là một bữa tiệc thực sự.”
“Vậy tại sao anh ta không làm?” Townsend hỏi.
“Tại sao anh ta không làm gì?”
“Ký lại hợp đồng thuê.”
“Vì anh ta thấy tòa nhà kia có thêm một căn hộ sát mái,” cô nói, đặt ly rượu xuống và lại tập trung vào món cá.
“Và anh ta có quyền sống ở tòa nhà đó,” Townsend nói. “Dù sao anh ta cũng là giám đốc.”
“Đúng thế, nhưng điều đó không cho anh ta quyền thuê riêng một căn hộ, vì thế, khi cuối cùng anh ta thôi việc, họ sẽ không thể dứt khỏi anh ta nếu không trả một khoản bồi thường lớn. Anh ta đã tính toán tất cả,” Cô bắt đầu líu lưỡi.
“Làm thế nào cô biết được những điều này?”
“Chúng tôi đã có lúc yêu nhau,” cô nói khá buồn bã.
Townsend nhanh chóng rót đầy ly cho cô. “Vậy tòa nhà đó ở đâu?”
“Tại sao ông quan tâm tới tòa nhà mới như thế?” Cô nói, lần đầu tiên tỏ ra nghi ngờ.
“Tôi muốn tới thăm cô khi tôi đến New York lần sau,” ông đáp bình thản.
Angela đặt dao và dĩa xuống dĩa, đẩy ghế ra sau và nói. “Ông không có chút rượu mạnh nào à? Chỉ một chút thôi, để tôi đủ ấm trước khi đối mặt với trận bão tuyết trên đường về.”
“Tôi chắc là có,” Townsend nói. Ông ra chỗ tủ lạnh, chọn bốn loại rượu mạnh có nguồn gốc khác nhau và rót chúng vào một chiếc ly lớn.
“Ông sẽ uống cùng tôi chứ?” Cô hỏi.
“Không, cảm ơn. Tôi còn chưa uống xong,” ông nói, giơ ]y rượu đầu tiên lên, nó gần như còn nguyên. “Và điều quan trọng hơn, tôi không phải đối mặt với bão tuyết. Hãy nói cho tôi biết, làm thế nào cô trở thành giám đốc thường trực.”
“Sau khi trong vòng 4 năm có năm giám đốc thường trực xin từ chức, tôi nghĩ tôi là người duy nhất đã nộp đơn”.
“Tôi ngạc nhiên không hiểu anh ta cần một giám đốc thường trực làm gì cho rắc rối.”
“Anh ta phải làm vậy.” Cô nhấp một ngụm rượu mạnh. “Điều đó có trong quy chế.”
“Nhưng hẳn cô phải có đủ tiêu chuẩn để được nhận chức vụ này,” ông nói, nhanh chóng thay đổi đề tài.
“Tôi đã học về lịch sử nghệ thuật tại trường Đại học Yale, và đã bảo vệ luận án tiến sĩ về thời kỳ Phục hưng 1527-1590 ở Viện Hàn lâm Venice.”
“Sau Caravaggio, Luini và Michelagelo, đó hẳn phải là sự xuống cấp lớn,” Townsend nói.
“Thậm chí tôi không hề quan niệm như vậy, nhưng tôi đã là giám đốc thường trực trong gần hai năm mà không được phép tổ chức một cuộc triển lãm. Chỉ cần ông ấy cho một cơ hội, tôi có thể tổ chức một cuộc triển lãm khiến quỹ phải tự hào, với chi phí chỉ bằng một phần mười chi phí của cuộc triển lãm này.” Cô nhấp một ngụm rượu mạnh nữa.
“Nếu cô quả quyết như vậy, tôi ngạc nhiên thấy cô vẫn quanh quẩn ở đó,” Townsend nói.
“Tôi sẽ không làm thế lâu nữa,” cô nói. “Nếu tôi không thể thuyết phục được Armstrong thay đổi chính sách về phòng trưng bày, tôi sẽ từ chức. Nhưng vì hình như Lloyd đang xỏ mũi ông ta mà dắt đi, nên tôi không tin tôi sẽ còn lảng vảng ở đó khi họ mở cửa triển lãm sau.” Cô ngừng lời và nhấp một ngụm rượu. “Thậm chí tôi còn chưa kể với mẹ tôi điều này,” cô thú nhận. “Nhưng đôi khi kể cho một người xa lạ lại dễ dàng hơn.” Cô lại uống một ngụm. “Ông không ở trong giới nghệ thuật, phải không?”
“Không, như tôi đã nói, tôi làm trong ngành vận tải và mỏ than.”
“Vậy thực sự ông-đang-làm-gì? Lái xe hay khai mỏ?” Cô nhìn ông chằm chằm, uống cạn ly rượu và cố nói lại. “Ý tôi là…”
“Sao?” Townsend nói.
“Bắt đầu bằng… ông chở cái gì, và đi đâu?” Cô nâng ly lên, dừng lại một lát, sau đó từ từ trượt khỏi ghế nhào xuống thảm, lẩm bẩm điều gì đó về những nhiên liệu hóa thạch ở La Mã thời Phục hưng. Trong mấy giây cô nằm cuộn tròn trên sàn, giống hệt một con mèo đang mãn nguyện. Townsend nhẹ nhàng nâng cô dậy và bế cô vào phòng ngủ. Ông lật chăn lên, đặt cô xuống giường và đắp cho cô một chiếc chăn mỏng, ông khâm phục ngắm nhìn cô một lát trước khi tạm biệt; có lẽ cô không nặng quá 50 cân.
Ông nhẹ nhàng đóng cửa buồng ngủ và quay lại phòng khách, lục tìm cuốn quy chế của New York Stars. Khi tìm thấy cuốn sách mỏng bìa đỏ nhét tít dưới đáy cặp, ông ngồi xuống ghế bành và bắt đầu chậm rãi đọc qua các điều lệ của công ty. Đọc được đến trang 47 thì ông gục xuống ngủ.
oOo
Armstrong không sao nghĩ ra được một lý do hợp lý để xin lỗi Summers khi anh ta đề nghị sau buổi triển lãm họ nên ăn tối cùng nhau. Ông yên tâm phần nào khi thấy luật sư của mình vẫn chưa về nhà. “Anh sẽ đi với chúng tôi nhé, Russell?” Ông quát viên luật sư khiến nó có vẻ như một mệnh lệnh hơn là một lời mời.
Armstrong đã nói riêng với Russell những ý nghĩ của mình về cuộc triển lãm mà ông cố giấu với Summers. Ông đã định trốn khỏi cuộc tụ họp từ lúc Summers thông báo anh ta đã tìm được một địa điểm hoàn hảo để chuyển quỹ đến. Nhưng Russell cảnh báo ông rằng Summers là người thiếu kiên nhẫn, và thậm chí đã bắt đầu dọa, “Đừng quên là tôi vẫn còn giải pháp thay thế.”
Armstrong phải thừa nhận tiệm ăn Summers chọn là khá đặc biệt, nhưng một tháng qua ông đã trở nên quen thuộc với nhiều loại khẩu vị vô lý của con người. Sau khi món chính đã được dọn đi; Summers nhắc lại tầm quan trọng của việc ký hợp đồng thuê tòa nhà mới càng sớm càng tốt, hoặc là quỹ sẽ không có trụ sở. “Tôi đã nói rõ trong ngày đầu tiên chúng ta gặp nhau, Dick, rằng điều kiện của tôi trong việc thế chấp số cổ phiếu của tơrơt cho ông là để đổi lấy việc ông sẽ mua khu trưng bày mới cho quỹ.”
“Tôi vẫn nhớ và vẫn có ý định làm như thế,” Armstrong khẳng định.
“Và trước Đại hội toàn thể thường niên.” Hai người đàn ông nhìn nhau chằm chằm. “Tôi cho rằng ông nên thảo hợp đồng thuê ngay đi, vì đến thứ Hai nó phải sẵn sàng để ký.” Summers nâng ly rượu mạnh và uống cạn. “Vì tôi biết một vài người nữa rất vui mừng được ký nó nếu ông từ chối.”
“Tôi sẽ thảo hợp đồng ngay,” Armstrong nói.
“Tốt. Vậy sáng mai tôi sẽ giới thiệu với ông tòa nhà mới.”
“Sáng mai?” Armstrong nói. “Tôi sợ là mình chưa thể sẵn sàng.”
“Vậy chúng ta hẹn nhau lúc 9 giờ được không?” Summers nói khi hầu bàn đặt cà phê trước mặt anh ta.
Armstrong uống ngụm cà phê. “9 giờ sẽ thích hợp,” cuối cùng ông nói trước khi gọi thanh toán. Ông đã làm giảm một sự phung phí khác của Summers, quẳng khăn ăn lại bàn và đứng lên. Viên giám đốc quỹ đi theo vả im lặng tiễn ông đến chỗ chiếc Limousine đang đợi.
“Tôi sẽ gặp ông vào lúc 9 giờ sáng mai,” Sumrmers nói khi Armstrong ngồi vào sau xe.
“Hầu như chắc chắn ông sẽ gặp.” Armstrong lẩm bẩm, không nhìn lại đằng sau.
Trên đường tới Pierre, Armstrong bảo Russell rằng ông muốn được trả lời 3 câu hỏi. Viên luật sư rút từ ví ra cuốn sổ nhỏ bìa da.
“Thứ nhất, ai đang kiểm soát quỹ? Thứ hai, lợi nhuận của Star bị tiêu đi mỗi năm là bao nhiêu? Và thứ ba, anh ta có giấu giếm nghĩa vụ pháp lý nào liên quan đến tôi khi chi 3 triệu đô la cho toà nhà mới này không?”
Russell ghi nguyệch ngoạc vào cuốn sổ nhỏ.
“Và tôi muốn có câu trả lời vào sáng mai.”
Chiếc Limousine đỗ lại bên ngoài khách sạn, ông gật đầu chúc Russell ngủ ngon, sau đó ra khỏi xe và đi bách bộ quanh khối nhà. Anh lấy một tờ New York Stars ở góc của phố 61 và Madison, mỉm cười khi thấy bức ảnh lớn của mình đăng trang trọng trên trang nhất, bên dưới là tiêu đề “Chủ tịch”. Điều khiến ông không hài lòng là ảnh của Townsend cũng được đăng trên cùng trang đó – mặc dù nhỏ hơn đáng kể và ở dưới chỗ gấp. Dòng chú thích ghi: “20 triệu đô la lợi nhuận?”
Armstrong cắp tờ báo trong tay. Khi tới khách sạn, ông bước vào chiếc thang máy đang đợi sẵn và nói với người gác, “Ai thèm để ý đến 20 triệu đô la, một khi anh có thể là ông chủ của Stars?”
“Ngài nói gì kia, thưa ngài?” Người gác bối rối hỏi.
“Anh muốn cái gì hơn,” Armstrong hỏi, “tờ New York Stars hay 20 triệu đô la?”
Ngưòi hầu nhìn lên người đàn ông to lớn có vẻ hoàn toàn tỉnh táo, và nói đầy hy vọng, “20 triệu đô la, thưa ngài.”
oOo
Sáng hôm sau khi thức giấc, Townsend thấy cổ đau cứng. Ông đứng dậy và vươn vai. Sau đó, ông thấy cuốn điều lệ của New York Stars nằm dưới chân và nhớ ra. Ông bước ngang qua phòng và thận trọng mở cửa phòng ngủ. Angela vẫn ngủ say. Ông nhẹ nhàng đóng cửa lại, gọi điện xuống phòng phục vụ, gọi bữa sáng với năm tờ báo, và yêu cầu dọn dẹp bàn ăn tối qua.
Khi cánh cửa phòng ngủ mở ra lần thứ hai, Angela rón rén bước ra ngoài, thấy Townsend đang đọc tờ Wall Street Journal và nhấm nháp cà phê. Cô hỏi ông đúng câu cô đã hỏi khi hai người gặp nhau ở phòng trưng bày. “Ông là ai?” Ông trả lời cô cũng câu trả lời giống thế. Cô mỉm cười.
“Tôi có thể mời cô dùng bữa sáng được không?”
“Không, cảm ơn, nhưng ông có thể rót cho tôi một tách cà phê đen lớn. Tôi sẽ đi ngay bây giờ.” Cánh cửa phòng ngủ đóng lại và mãi hai mươi phút sau mới mở ra. Khi Angela ngồi xuống chiếc ghế đối diện Townsend, trông cô rất căng thẳng. Ông rót cà phê cho cô, nhưng cô không muốn trò chuyện cho đến khi uống xong vài ngụm lớn.
“Tối qua tôi có làm điều gì ngu ngốc không?” cuối cùng cô hỏi.
“Không, cô chẳng làm gì cả,” Townsend mỉm cười nói.
“Đó chỉ là vì tôi chưa bao giờ….”
“Không có gì đáng lo đâu,” ông đảm bảo với cô. “Cô ngủ thiếp đi và tôi đưa cô vào giường.” Ông ngừng lời, “Nguyên cả quần áo.”
“Thật là một sự an ủi.” Cô xem đồng hồ. “Chúa ơi, bây giờ thực đã từng này giờ rồi à, hay tôi quăng quách cái đồng hồ này đi?”
“Bây giờ là 8 giờ 20,” Townsend nói.
“Tôi phải gọi taxi ngay bây giờ. Tôi có cuộc họp với chủ tịch mới ở SoHo lúc 9 giờ, và tôi phải gây được ấn tượng tốt. Nếu ông ấy từ chối mua toà nhà mới, đó có thể là cơ hội cho tôi.”
“Đừng bận tâm về chuyện taxi,” Townsend nói. “Lái xe của tôi sẽ đưa cô tới bất cứ nơi nào cô muốn. Cô sẽ thấy anh ta đỗ ngoài cửa, trong chiếc BMW màu trắng.
“Cảm ơn,” cô nói. “Ông thật là hào phóng quá.”
Cô nhanh chóng uống cạn tách cà phê. “Bữa tối qua thật ngon, và ông rất chu đáo,” cô nói khi đứng dậy. “Nhưng tôi phải đến đó trước ông Armstrong, tôi thật sự phải đi bây giờ.”
“Tất nhiên.” Townsend đứng lên và giúp cô mặc áo khoác.
Khi ra tới cửa cô quay lại và nhìn ông lần nữa. “Nếu tôi không làm gì ngu ngốc tối hôm qua, liệu tôi có nói ra điều gì bí mật không?”
“Không, tôi không nghĩ vậy. Cô chỉ tán gẫu về công việc của cô ở quỹ,” ông nói khi mở cửa cho cô.
“Thật dễ chịu khi nghe ông nói. Tôi hy vọng chúng ta còn gặp lại.”
“Tôi có cảm giác chúng ta sẽ gặp lại,” Townsend nói.
Cô ngả người về phía trước và hôn vào má ông. “Rút cục,” cô nói, “ông vẫn chưa cho tôi biết tên của ông.”
“Keith Townsend.”
“Ô, quái quỷ,” cô nói khi cánh cửa đóng lại sau lưng.
Khi Armstrong đến bên ngoài nhà 147 Lower Broadway vào buổi sáng, ông thấy Lloyd Summers đang đứng đợi bên cạnh một phụ nữ người hơi gầy, có vẻ trí thức, trông mệt mỏi hoặc đơn giản chỉ là buồn chán.
“Chào ông Armstrong,” Summers nói khi ông bước xuống xe.
“Chào ông,” ông đáp, cố rặn ra một nụ cười khi bắt tay viên giám đốc.
“Đây là Angela Humphries, giám đốc thường trực của tôi,” anh ta giải thích. “Có lẽ ông đã gặp cô ấy ở buổi khai mạc tối qua.”
Armstrong có thể hình dung lại khuôn mặt cô, nhưng không nhớ nổi là đã gặp cô. Ông gật đầu cộc lốc.
“Angela là chuyên gia về thời kỳ Phục hưng,” Summers vừa nói vừa mở cửa và đứng né sang bên.
“Thật thú vị,” Armstrong nói, giọng chẳng có gì thích thú.
“Hãy để tôi bắt đầu bằng việc đưa ông đi xem một vòng,” viên giám đốc nói khi họ bước vào căn phòng trống lớn ở tầng trệt. Armstrong thò tay vào túi bấm đồng hồ.
“Những bức tường để treo tranh rất tuyệt,” viên giám đốc tán tụng.
Armstrong cố tỏ ra say mê với một toà nhà mà ông hoàn toàn không định mua. Nhưng ông biết rằng mình không thể liều lĩnh chừng nào chưa được chính thức công nhận là chủ tịch New York Stars vào ngày thứ Hai, và điều này sẽ không thể có nếu thiếu 5% của Summers. Bằng cách này hay khác ông ngắt quãng bài độc thoại dạt dào tình cảm của viên giám đốc bằng những câu “Tuyệt vời,” “Lý tưởng,” “Hoàn hảo”, “Tôi hoàn toàn nhất trí,” và thậm chí là “Ông thật thông minh khi đã tìm được nơi này,” mỗi khi họ bước vào một căn phòng mới.
Khi Summers đã nắm lấy tay ông và bắt đầu dẫn ông trở xuống tầng trệt, Armstrong chỉ vào chiếc cầu thang đưa tới một tầng khác. “Nó dẫn đến đâu?” Ông nghi hoặc hỏi.
“Nó chỉ là gác mái thôi mà,” Summers thô bạo nói. “Nó để chứa đồ, và chỉ thế thôi.” Angela không nói gì và cố nhớ xem liệu cô có nói cho Townsend biết về căn phòng trên tầng thượng không.
Khi họ xuống tới tầng trệt, Armstrong dường như đã hết kiên nhẫn. Đứng trên vỉa hè, Summers nói. “Bây giờ ông hẳn đã hiểu tại sao tôi coi đây là nơi lý tuởng để quỹ tiếp tục hoạt động của nó trong thập kỷ mới.”
“Tôi hoàn toàn đồng ý với ông,” Armstrong nói. “Hoàn toàn lý tưởng.” Ông mỉm cười nhẹ nhõm khi thấy người đang đợi mình trên ghế sau chiếc Limousine. “Ngay khi về tới văn phòng tôi sẽ thảo mọi giấy tờ cần thiết.”
“Tôi sẽ ở phòng trưng bày hết ngày hôm nay,” Summers nói.
“Vậy tối nay tôi sẽ gửi cho ông các văn kiện để ký.”
“Bất kỳ lúc nào trong ngày hôm nay,” Summers nói và giơ tay ra.
Armstrong bắt tay viên giám đốc và lên xe, không buồn chào Angela. Ông thấy Russell, với tập giấy màu vàng để sẵn trên đùi, tay cầm bút. “Ông đã có mọi câu trả lời rồi chứ?” Ông hỏi, thậm chí trước khi tài xế kịp vặn khóa điện. Ông vẫy Summers khi xe lăn bánh.
“Tôi đã có,” Russell đáp, nhìn xuống tập giấy. “Thứ nhất, quỹ hiện do bà Summers làm chủ tịch, 6 năm trước bà ta đã chỉ định con trai làm giám đốc.” Armstrong gật đầu. “Thứ hai, năm ngoái họ đã tiêu ít nhất là một triệu đô la lợi nhuận của Star.”
Armstrong nắm chặt tay. “Họ làm điều đó thế quái nào vậy?”
“Ồ, bắt đầu là Summers được trả lương 150.000 đô la một năm. Nhưng còn đáng chú ý hơn nhiều,” Russell vừa nói vừa nhìn vào sổ, “bằng cách này hay cách khác anh ta đã tiêu 240 000 đô la chi phí mỗi năm trong 4 năm qua.”
Armstrong cảm thấy tim đập nhanh hơn. “Làm thế nào anh ta thu lại được khoản tiền ấy?” Ông hỏi khi họ vượt qua chiếc BMW trắng mà anh có thể thề rằng trước đây đã nhìn thấy ở đâu đó. Ông ngoái lại và nhìn nó chằm chằm.
“Tôi đoán bà mẹ anh ta không hay thắc mắc”.
“Cái gì?”
“Tôi đoán mẹ anh ta không hay thắc mắc,” Russell nhắc lại.
“Nhưng còn Hội đồng Quản trị? Chắc chắn họ phải cảnh giác chứ. Chưa nói đến các cổ đông.”
“Tại Đại hội thường niên năm ngoái đã có một số người nêu vấn đề,” Russell xem sổ, “nhưng chủ tịch đảm bảo với họ – và tôi đọc nguyên văn – rằng “các độc giả của Star hoàn toàn tán thành việc tờ báo có liên quan tới sự tiến bộ của văn hóa ở thành phố lớn của chúng ta.”
“Sự tiến bộ của cái gì?” Armstrong hỏi.
“Văn hóa”. Russell đáp.
“Còn về tòa nhà?”
“Ban giám đốc tương lai không phải chịu bất kỳ một nghĩa vụ gì khi mua toà nhà khác, một khi hạn thuê tòa nhà cũ đã hết.”
Lần đầu tiên trong buổi sáng hôm ấy Armstrong mỉm cười.
“Mặc dù, tôi vẫn phải báo trước với ông,” Russell nói, “tôi cho là phải thuyết phục Summers rằng ông đã mua tòa nhà đó trước Đại hội thường niên diễn ra vào ngày thứ hai. Nếu không, với cương vị chủ tịch tập đoàn, anh ta vẫn có thể chuyển đi 5% của mình vào thời điểm cuối cùng.”
“Vậy hãy gửi cho anh ta hai bản hợp đồng thuê nhà đã sẵn sàng để ký. Việc đó sẽ giữ cho anh ta im lặng đến sáng thứ hai.”
Trông Russell có vẻ không tin lắm.
Khi chiếc BMW quay lại khách sạn Carlyle, Townsend đã đợi sẵn ngoài vỉa hè. Ông ngồi vào cạnh người lái xe và hỏi, “Anh đã để cô gái ấy xuống chỗ nào?”
“SoHo, Lower Broadway,” người lái xe đáp.
“Vậy đó chính là nơi tôi muốn tới,” Townsend nói. Khi chiếc xe đã hòa vào dòng xe cộ trên Đại lộ 15, người lái xe vẫn không hiểu ngài Townsend thấy gì ở cô gái. Phải có một khía cạnh nào đó mà anh ta không tính tới. Có lẽ cô ta là người thừa kế.
Khi chiếc BMW rẽ vào đường Lower Broadway, Townsend không thể không trông thấỵ chiếc Limousine đậu bên ngoài một tòa nhà với tấm biển “Cho thuê” trên cửa sổ mặt tiền. “Hãy đỗ bên này đường, cách tòa nhà anh đã cho cô gái xuống sáng nay khoảng 50 yard,” ông nói.
Xe dừng lại, Townsend liếc nhìn qua vai anh ta và hỏi, “Anh có thể đọc được số điện thoại ghi trên những tấm biển kia không?”
“Có hai tấm biển, thưa ngài, mỗi cái ghi một số khác nhau.”
“Tôi cần cả hai,” Townsend nói. Người lái xe đọc từng số và Townsend ghi chúng lên mặt sau một tờ 5 đô la. Sau đó anh nhấc điện thoại trong xe và quay số thứ nhất.
Khi đầu dây kia có tiếng trả lời, “Chào ngài, đây là Công ty Wood, Knight & Levy. Tôi có thể giúp gì cho ngài?” Townsend nói anh quan tâm tới các chi tiết về tòa nhà 147 Lower Broadway.
“Tôi sẽ nối máy cho ông tới văn phòng,” anh ta nói. Tiếp theo một giọng thứ hai hỏi, “Tôi có thể giúp gì cho ngài?” Townsend nhắc lại câu hỏi, và máy được chuyển tới một người khác.
“Số 147 Broadway? À, vâng, tôi e rằng có người sắp mua bất động sản đó, thưa ngài. Chúng tôi đã được lệnh thảo hợp đồng thuê, với dự kiến hoàn thành vào ngày thứ Hai. Tuy nhiên, chúng tôi có những tòa nhà khác ở khu vực đó.”
Tovvnsend ấn nút “Chấm dứt” mà không nói thêm lời nào. Chỉ ở New York mới không có người ngạc nhiên về lối cư xử thô lỗ như vậy. Ông lập tức quay số thứ hai. Trong khi đợi nối máy với nguời có thẩm quyền, ông bị xao lãng bởi một chiếc taxi đỗ xịch bên ngoài tòa nhà, một người đàn ông trung niên cao lớn ăn mặc lịch sự bước xuống xe và đi đến chỗ chiếc Limousine. Ông ta nói vài câu gì đó với người lái xe, và sau đó lên ngồi ở ghế sau xe cùng lúc với giọng nói vang lên trong ống nghe.
“Ông sẽ phải hành động khẩn trương nếu ông quan tâm tới ngôi nhà số 147,” người nhân viên nói. “Vì tôi biết một công ty khác có liên quan đến bất động sản này, đã có một đối tác đáng quan tâm thiết tha muốn mua, và đó không phải là chuyện đùa. Trên thực tế hiện giờ họ đang xem xét tòa nhà, vì vậy tôi không thể đưa ông đi xem nó trước 10 giờ.”
“10 giờ là tiện cho tôi,” Townsend nói. “Vậy tôi sẽ gặp ông bên ngoài tòa nhà.” Ông ấn nút “Chấm dứt”.
Townsend chỉ phải đợi ít phút đã thấy Armstrong, Summers và Angela bước ra vỉa hè. Chỉ sau vài câu trao đổi và cái bắt tay vội vã, Armstrong trèo lên chiếc Limousine. Có vẻ ông ta không hề ngạc nhiên khi thấy có người đang ngồi đó đợi mình. Khi chiếc xe lăn bánh, Summers hân hoan vẫy mãi cho đến khi nó đi khuất.
Angela đứng sau anh ta một bước, có vẻ buồn chán. Townsend cúi người khi chiếc Limousine vượt qua và khi ngoái lại sau, ông thấv Summers gọi một chiếc taxi vàng. Anh ta và Angela bước vào đó, và Townsend nhìn họ đi khuất theo hướng ngược với hướng của chiếc Limousine.
Khi chiếc taxi đã rẽ vào góc phố, Townsend ra khỏi xe và băng qua đường để xem xét tòa nhà từ bên ngoài. Lát sau ông đi xuôi theo vỉa hè một chút và phát hiện ra cách đó vài nhà có một tòa nhà giống thế đang muốn bán. Ông ghi số nhà vào mặt sau tờ 5 đô la. Sau đó ông quay lại xe. Thêm một cú điện thoại nữa, ông biết được giá của nhà số 171 là 2,5 triệu đô la. Summers không chỉ có một căn hộ xây thêm, mà còn có một lợi nhuận đáng kể.
Người lái xe gõ nhẹ lên cửa sổ trong và chỉ về phía nhà 147. Townsend ngửng lên và thấy một người đàn ông còn trẻ đang sải từng bước dài. Ông đặt ống nghe xuống và chạy sang gặp anh ta.
Sau khi xem một lượt cả 5 tầng, Townsend đồng ý với Angela rằng, với giá 3 triệu đô la, quả là hoàn hảo – nhưng không phải chỉ đối với một người. Khi ra đến vỉa hè ông hỏi người nhân viên, “Ông cần số tiền đặt cọc tối thiểu cho ngôi nhà này là bao nhiêu?”
“10%, không hoàn lại,” anh ta đáp.
“Với thời hạn hoàn thành như thường lệ là 30 ngày?”
“Vâng, thưa ngài,” người nhân viên nói.
“Tốt. Vậy tại sao anh không thảo nó ngay lập tức,” Townsend nói và đưa cho anh ta tấm các của mình. “Hãy gửi nó đến khách sạn Carlyle cho tôi.”
“Vâng, thưa ngài,” người nhân viên nhắc lại. “Tôi đảm bảo sẽ gửi nó tới ông trước tối nay.”
Cuối cùng Townsend rút từ ví ra tờ 100 đô la và giơ lên tới mức người đàn ông trẻ có thể trông thấy trên đó là hình của vị Tổng thống nào. “Và tôi muốn người nhân viên khác đang cố bán bất động sản này biết rằng tôi sẽ là người đặt khoản tiền cọc đầu tiên trong sáng thứ hai.”
Người đàn ông trẻ nhét tờ 100 đô la vào túi và gật đầu.
Ngay khi về tới phòng khách sạn, Townsend gọi điện tới văn phòng Tom. “Anh đã có kế hoạch gì cho kỳ nghỉ cuối tuần chưa?” Ông hỏi luật sư của mình.
“Phần lớn là chơi gôn, và làm vườn một chút,” Tom nói. “Và tôi cũng hy vọng được xem đứa con út của tôi chơi cho đội bóng trường trung học của nó. Nhưng theo cái cách ông nêu câu hỏi này, Keith, tôi có cảm giác sẽ không được đón tàu trở về Greenwich.”
“Anh nói đúng, Tom. Chúng ta có nhiều việc phải làm trước sáng thứ Hai nếu tôi muốn trở thành chủ bút mới của tờ New York Stars.”
“Tôi sẽ bắt đầu từ đâu?”
“Từ một hợp đồng thuê nhà cần kiểm tra lại trước khi tôi ký nó. Sau đó tôi muốn anh giao dịch chặt chẽ với một người có thể làm cho việc đó trở thành khả thi.”
Khi đặt điện thoại xuống, ông ngả người ra sau ghế và nhìn chằm chằm vào quyển sách bìa đỏ đã làm mình mất ngủ tối qua. Lát sau, ông nhặt nó lên, giở ngay trang 47.
Lần đầu tiên trong đời ông biết ơn sự giáo dục của trường Đại học Oxford.
(1) Iđít = Tiếng Đức cổ của người Do thái ở Đông và Trung Âu