Quyền Lực Thứ Tư

Chương 25


Đọc truyện Quyền Lực Thứ Tư – Chương 25

Báo

OCEAN TIME

Ngày 6 tháng Sáu, 1967

CHÀO MỪNG CHUYẾN ĐI!

Keith hạ cánh xuống sân bay Kingston bốn giờ trước khi tàu cập bến. Anh kiểm tra lại hộ chiếu và vẫy taxi đến phòng đăng ký vé Cunard trong cảng. Một người đàn ông mặc bộ đồng phục trắng bảnh bao, với dải viền hơi quá lòe loẹt đối với một nhân viên bán vé, hỏi xem liệu anh ta có giúp được anh gì không.

“Tôi muốn đặt phòng hạng nhất trên tàu Nữ hoàng Elizabeth tới New York,” Townsend nói. “Bà bác tôi đang ở trên tàu trong chuyến đi nghỉ hàng năm, và tôi nghĩ không biết có thể có một phòng ở đâu đó gần chỗ bà ấy.”

“Thế tên bà bác ông là gì?” Nhân viên bán vé hỏi.

“Bà Margaret Sherwood,” Townsend đáp.

Tay anh ta rà theo bản danh sách hành khách. “À, vâng, bà Sherwood ở phòng Trafalgar như mọi khi. Nó ở khoang thứ ba. Chúng tôi chỉ còn một phòng hạng nhất ở khoang này, và nó không xa phòng bà ấy”. Anh ta mở tờ sơ đồ rộng của con tàu và chỉ vào hai ô, ô thứ hai có vẻ rộng hơn ô thứ nhất.

“Tốt quá rồi,” Townsend nói và đưa thẻ tín dụng cho anh ta.

“Chúng tôi sẽ cho bác của ông biết ông lên tàu chứ?” Người nhân viên hỏi nhiệt tình.

“Không”, Townsend nói thản nhiên. “Tôi muốn làm bà ấy ngạc nhiên.”

“Nếu ông vui lòng để hành lý cho tôi, tôi sẽ trông coi việc chuyển chúng lên phòng của ông ngay khi tàu cập bến.”

“Cảm ơn,” Townsend nói. “Làm ơn cho tôi biết làm thế nào tới được trung tâm thành phố?”

Khi đi tản bộ ra khỏi cảng anh bắt đầu nghĩ về Kate, và tự hỏi không biết nàng đã tìm được cách để đăng bài trong tờ báo của tàu hay không.

Anh đã ghé vào ba đại lý báo trên dọc đường đi tới Kingston, mua hai tờ Time, Newsweek và tất cả các tờ báo địa phương. Sau đó anh dừng ở một hiệu ăn có biển đề Tiệm ăn nhanh kiểu Mỹ mà anh tình cờ bắt gặp, chiếm một bàn còn trống ở trong góc và đặt một bữa trưa chán ngắt.

Báo chí của những người khác luôn làm mê hoặc anh, nhưng anh biết anh sẽ rời đảo mà không mong muốn chút nào được trở thành chủ bút của tờ Jamaica Time, một tờ báo mà thậm chí không còn việc gì để làm nữa cũng chỉ đọc trong mười lăm phút. Giữa những bài báo về việc kỳ nghỉ của vợ Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp đã diễn ra như thế nào và tại sao đội cricket của đảo lại thua liên tục như vậy, ý nghĩ anh quay lại với thông tin của Sally Carr đã được ghi âm ở Sydney. Anh thấy khó mà tin được rằng Sharon lại có thể bất tài như Carr mô tả, nhưng nếu cô ta như vậy, anh vẫn phải thừa nhận sự đánh giá của Carr rằng hẳn Sharon phải rất xuất sắc ở trên giường.

Trả tiền xong cho bữa trưa đáng quên nhất, Townsend rời tiệm ăn và bắt đầu thả bộ quanh thành phố. Đây là lần đầu tiên anh có được cái giống như một cuộc du lịch, kể từ khi anh tới Berlin hồi còn sinh viên. Cứ ít phút anh lại xem đồng hồ, nhưng điều ấy chẳng giúp thời gian trôi đi nhanh hơn. Cuối cùng anh nghe thấy tiếng còi tàu ở phía xa: con tàu lớn ghé vào cảng cuối cùng. Ngay lập tức anh quay trở lại cảng. Lúc anh tới nơi, đoàn thủy thủ đang hạ ván cầu tàu xuống, sau khi hành khách đã đổ lên bờ, vui vẻ tìm kiếm vài giờ thoải mái, Townsend bước xuống cầu tàu và đề nghị người phục vụ dẫn anh về phòng.

Ngay khi vừa tháo xong va li, anh bắt đầu xem xét cách bố trí ở khoang ba và vui mừng thấy rằng từ phòng anh tới phòng bà Sherwood mất chưa đầy một phút, nhưng anh không muốn liên lạc ngay với bà ta. Thay vào đó anh dùng những giờ còn lại đi dạo quanh tàu và kết thúc ở phòng ăn.

Người quản lý nhà ăn mỉm cười với nguời đàn ông gầy gò, ăn mặc không được thích hợp lắm khi anh ta bước vào gian phòng rộng rãi, trống trải đang được chuẩn bị cho bữa tối. “Tôi có thể giúp gì được, thưa ông?” Ông ta hỏi, cố không lớn tiếng mặc dù cảm thấy vị khách đã vào nhầm khoang.

“Tôi hy vọng thế,” Townsend nói. “Tôi vừa mới lên tàu, và muốn biết các ông sẽ cho tôi ăn ở đâu.”

“Phòng ăn này chỉ dành cho hành khách khoang hạng nhất, thưa ông.”

“Vậy là tôi đã vào đúng chỗ,” Townsend nói.

“Tên ông là gì?” Người kia hỏi, vẫn còn nghi hoặc.

“Keith Townsend.”

Ông ta kiểm tra danh sách hành khách khoang hạng nhất đã lên tàu ở Kingston. “Ngài ngồi bàn tám, thưa ngài Townsend.”

“Bà Sherwood cũng ngồi bàn đó chứ?”

Người phục vụ kiểm tra lại lần nữa. “Không, thưa ngài, bà ấy ngồi bàn ba.”

“Liệu ông có thể xếp cho tôi một chỗ ở bàn ba được không?” Townsend đề nghị.

“Tôi sợ là không được, thưa ngài. Không có ai ở bàn đó rời tàu ở cảng Kingston cả.”

Townsend móc ví và lấy ra tờ một trăm đô la.

“Nhưng tôi cho rằng nếu tôi chuyển ngài phó giáo chủ sang bàn của thuyền trưởng thì có thể giải quyết được vấn đề.”

Townsend mỉm cười rồi quay ra.

“Xin lỗi, thưa ngài. Ngài có muốn ngồi cạnh bà Sherwood không?”

“Đó là hy vọng lớn nhất của tôi,” Townsend nói.

“Việc đó có một khó khăn nhỏ, ông biết đấy, bà ấy đã đi cùng chúng tôi suốt cuộc hành trình, và chúng tôi đã phải chuyển bà ấy hai lần vì bà ấy không thích nhiều người ngồi ở bàn mình.”

Townsend lại rút ví lần nữa. Lát sau anh rời phòng ăn, chắc mẩm sẽ được ngồi cạnh con mồi của mình.

Khi anh quay về phòng, các hành khách trên tàu bắt đầu lục tục trở về. Anh đi tắm, đổi lấy bữa trưa và đọc lại lần nữa tiểu sử của bà Sherwood mà Kate đã sưu tập cho anh. Lúc tám giờ kém vài phút anh đi xuống phòng ăn.

Đã có một cặp vợ chồng ngồi ở bàn. Người đàn ông lập tức đứng lên và tự giới thiệu. “Bác sĩ Arnold Percival ở bang Ohio,” ông ta nói và bắt tay Townsend. “Và đây là người vợ yêu quý của tôi, Jenny – cũng ở bang Ohio.” Ông ta cười khàn khàn.

“Tôi là Keith Townsend,” anh nói với họ. “ Ở…”

“ Úc, nếu tôi không nhầm, ông Townsend,” viên bác sĩ nói. “Rất vui vì họ đã xếp ông ngồi ở bàn chúng tôi. Tôi mới nghỉ hưu, và Jenny với tôi đã hứa cùng nhau đi du lịch trong năm nay. Ngọn gió nào đã đưa ông lên con tàu này vậy?” Trước khi Townsend kịp trả lời, một đôi khác bước tới. “Đây là ông Keith Townsend từ Úc tới,” bác sĩ Percival nói. “Cho phép tôi giới thiệu ông với ông bà Osborne từ Chicago, Illinois.”

Họ vừa bắt tay nhau xong thì vị bác sĩ nói,”Xin chào, bà Sherwood. Cho phép tôi giới thiệu ông Keith Townsend.”

Qua bản tiểu sử của Kate, Townsend biết bà Sherwood đã sáu mươi bảy, nhưng rõ ràng bà ta đã tiêu một phần lớn thời gian và tiền bạc để cố phủ nhận thực tế đó. Anh không cho là bà ta có nhan sắc, nhưng sự mô tả “được giữ gìn tốt” chắc chắn là đúng ý anh. Chiếc váy buổi tối rất hợp thời trang, mặc dù gấu váy hơi ngắn một vài phân. Townsend mỉm cười như thể bà ta mới hai mươi lăm tuổi.

Khi lần đầu tiên nghe giọng nói của Townsend, bà Sherwood có thể công khai che giấu sự chê bai của mình, nhưng lát sau, có hai người khách khác cùng đến đã làm bà ta xao lãng. Townsend không nắm được tên vị tướng, nhưng người phụ nữ tự giới thiệu là Claire William, chiếm chỗ ngồi cạnh bác sĩ Percival ở phía bên kia bàn. Townsend mỉm cười với cô nhưng cô chẳng phản ứng gì.


Thậm chí Townsend còn chưa kịp ngồi, bà Sherwood đã muốn biết tại sao ngài phó giáo chủ lại bị đưa đi.

“Tôi thấy ông ấy ngồi ở bàn của thuyền trưởng,” Claire nói.

“Tôi hy vọng ngày mai ông ấy sẽ trở lại,” bà Sherwood nói và lập tức bắt đầu trò chuyện với ông Osborne đang ngồi bên phải mình. Vì bà ta cương quyết từ chối bắt chuyện với Townsend trong lúc ăn món thứ nhất, anh bắt đầu tán gẫu với bà Percival trong khi cố dỏng tai nghe cuộc trò chuyện của bà Sherwood. Anh nhận thấy việc ấy khá khó khăn.

Cho tới lúc các món ăn chính đã được dọn đi Townsend khó khăn lắm mới nói được vài từ với bà Sherwood. Khi uống cà phê, Claire, từ phía bàn bên kia hỏi thăm đã có lúc nào anh tới nước Anh chưa.

“Rồi, tôi mới rời trường Đại học Oxford sau chiến tranh,” lần đầu tiên trong mười lăm năm Townsend thú nhận điều này.

“Trường nào?” Bà Sherwood quay ngoắt về phía anh.

“Worcester,” anh trả lời dịu dàng. Nhưng đó là câu hỏi đầu tiên và cuối cùng bà ta gửi đến anh tối hôm đó. Townsend đứng dậy khi bà ta rời khỏi bàn, và tự hỏi liệu ba ngày có đủ không. Khi uống xong cà phê, anh chúc Claire và viên tướng ngủ ngon trước khi quay lại phòng để xem lại hồ sơ một lượt nữa. Ở đó không đề cập đến thành kiến và sự hợm mình, nhưng phải công bằng với Sally, cô ta chưa bao giờ gặp Margaret Sherwood.

Khi Townsend ngồi ăn bữa sáng hôm sau, chỉ có duy nhất một chỗ trống là chiếc ghế bên phải anh, và mặc dù anh là người cuối cùng rời phòng, bà Sherwood vẫn không xuất hiện. Anh liếc nhìn Claire khi cô rời khỏi bàn và tự hỏi liệu có nên đi theo cô không, nhưng sau đó anh quyết định thôi, vì nó không có trong kế hoạch. Những giờ sau đó anh lang thang khắp tàu, hy vọng tình cờ gặp cô. Nhưng buổi sáng ấy anh không nhìn thấy cô lần nào nữa.

Khi anh đến ăn trưa muộn vài phút, anh chưng hửng thấy bà Sherwood đã chuyển chỗ ngồi sang phía bàn bên kia, và giờ bà ta ngồi giữa vị tướng và bác sĩ Percival. Thậm chí bà ta chẳng nhìn lên khi anh ngồi vào chỗ của mình. Lát sau khi Claire tới, cô đành phải ngồi cạnh anh, mặc dù ngay sau đó là cô bắt chuyện với ông Osborne.

Townsend cố nghe xem bà Sherwood nói chuyện gì với viên tướng, hy vọng có cơ hội tham gia vào câu chuyện của họ, song tất cả chỉ là chuyện chuyến du lịch vòng quanh thế giới lần thứ mười chín của bà ta, và rằng bà ta biết rõ về con tàu cũng như thuyền trưởng.

Anh tình cờ quay sang bên phải khi nghe thấy bác sĩ Percival hỏi Claire là cô có đọc cuốn Lễ cầu hồn cho nữ tu sĩ không.

“Không,” cô trả lời, “Tôi không đọc. Nó có gì hay không?”

“Ô, tôi có đọc,” Bà Sherwood nói từ mé bàn bên kia, “và tôi có thể nói vói cô rằng nó còn lâu mới là tác phẩm hay nhất của ông ấy.”

“Tôi rất tiếc phải nghe thấy điều ấy, thưa bà Sherwood,” Townsend nói, hơi quá nhanh.

“Tại sao thế, ông Townsend?” Bà ta hỏi, không giấu nổi sự ngạc nhiên vì thấy anh thậm chí biết tác giả là ai.

“Vì tôi có bản quyền xuất bản sách của Faulkner (1).”

“Tôi không hề nghĩ ông lại là nhà xuất bản,” bác sĩ Percival nói. “Thật thú vị. Tôi đánh cuộc là có nhiều người trên con tàu này có thể kể cho ông những câu chuyện rất hay.”

“Thậm chí ngay ở bàn này cũng có thể có một hai người,” Townsend nói, tránh cái nhìn chăm chăm của bà Sherwood.

“Bệnh viện là một nguồn chuyện bất tận,” Bác sĩ Percival nói tiếp. “Tôi biết.”

“Đúng thế.” Townsend nói, phấn khởi với chính mình.”Nhưng có một câu chuyện hay chưa đủ, ông còn phải thể hiện được nó lên trên giấy. Điều đó cần năng lực thực sự.”

” Ông đang làm cho công ty nào?” bà Sherwood hỏi, làm như vô tình.

Townsend buông câu và bà ta đã mắc mồi. “Schumann & Co., ở New York,” anh đáp, cũng với vẻ hờ hững như vậy.

Đến lúc đó viên tuớng bắt đầu nói với Townsend là có nhiều người đã nài ông viết hồi ký. Sau đó ông tiếp tục mô tả cho mọi người ở bàn biết hương vị chương đầu tiên có thể là như thế nào.

Đến bữa tối Townsend không ngạc nhiên khi thấy bà Sherwood thế chỗ của Claire bên cạnh anh. Qua món cá hồi bốc khói anh dành thời gian giải thích cho bà Percival rằng một cuốn sách được liệt vào danh sách bán chạy nhất phải có những điều kiện gì.

“Tôi có thể quấy rầy ông được không, ông Townsend?” Bà Sherwood hỏi khẽ, khi món thịt cừu được đưa lên.

“Rất vui lòng, thưa bà,” Townsend nói, quay sang phía bà ta.

“Tôi rất muốn biết ông làm cho phòng nào ở công ty của Schumann.”

“Tôi không làm ở một phòng đặc biệt nào,” anh nói

“Tôi không hiểu,” bà Sherwood nói. “Điều đó có nghĩa là ông có thể không thèm đếm xỉa tới quyết định của tổng biên tập?” bà ta hỏi.

“Tôi có thể không thèm đếm xỉa tới quyết định của bất cứ ai,” Townsend nói.

“Chuyện là…” Bà ta ngập ngừng để chắc không có ai khác nghe lỏm chuvện của họ – điều đó thực ra không có ý nghĩa, vì Townsend đã biết bà ta định nói gì. “Chuyện là cách đây ít lâu tôi đã gửi một bản thảo tới Công ty Schumann. Ba tháng sau tất cả những gì tôi nhận được là lời từ chối in thử mà chẳng có bất kỳ một lá thư giải thích nào.”

“Tôi rất tiếc phải nghe điều đó,” Townsend nói, dừng một lát trước khi cân nhắc kỹ những điều sắp nói ra. “Tất nhiên, có một sự thật là nhiều bản thảo chúng tôi nhận được đã không bao giờ được đọc.”

“Tại sao vậy?” Bà ta ngờ vực hỏi.

“Vâng, bất kỳ nhà xuất bản lớn nào cũng có khả năng phải nhận tới một trăm, thậm chí hai trăm bản thảo một tuần. Không ai có thể thuê đủ nhân viên để đọc hết số bản thảo đó. Vì vậy bà đừng quá buồn.”

“Vậy làm thế nào để một tiểu thuyết gia lần đầu tiên như tôi kiếm được một người nào đó quan tâm tới công việc của mình?” bà ta thì thầm.

“Lời khuyên của tôi cho những ai phải đối mặt với vấn đề này là hãv tự tìm cho mình một nhân viên tốt – một người biết rõ phải tiếp cận với nhà xuất bản nào, và thậm chí biết được biên tập viên nào có thể quan tâm đến mình.”

Townsend tập trung vào món thịt cừu của mình trong lúc đợi bà Sherwood dồn đủ can đảm. “Luôn để bà ta bắt đầu,” Kate đã nhắc nhở anh như vậy,”sau đó sẽ không có lý do gì để bà ta nghi ngờ.” Anh không rời mắt khỏi đĩa của mình.

“Tôi không dám mong là ông sẽ vui lòng đọc cuốn tiểu thuyết của tôi và góp cho tôi một vài ý kiến chuyên môn?”

“Tôi rất vui mừng,” Townsend nói. Bà Sherwood mỉm cười. “Tại sao bà không gửi nó tới văn phòng của tôi ở công ty Schumann khi chúng ta về tới New York. Tôi sẽ xem xét để một trong những biên tập viên cao cấp của tôi đọc nó và cho tôi một báo cáo viết đầy đủ.”

Bà Sherwood mím môi. “Nhưng tôi có mang nó theo trên tàu,” bà ta nói. “Ông biết đấy, những chuyến du lịch hằng năm luôn cho tôi cơ hội sửa đổi chút ít.”

Townsend những muốn nói cho bà ta biết rằng nhờ bà nấu bếp của ông em chồng bà ta, anh đã biết điều đó. Nhưng anh đành tự bằng lòng với câu, “Vậy tại sao bà không quăng nó sang phòng tôi để tôi có thể đọc một hai chương đầu, ít nhất nó cũng giúp tôi sơ bộ hình dung về văn phong của bà.”

“Ông nói thật đấy chứ, ông Townsend? Ông thật tử tế quá. Người chồng yêu quí của tôi vẫn thường nói rằng không được coi tất cả những người Úc đều là những kẻ bị lưu đày.”

Townsend phá lên cười khi Claire ngả người qua bàn. “Có phải ông là ông Townsend mà bài báo trên tờ Ocean Time sáng nay đã nói đến không?” Cô hỏi.


Townsend ngạc nhiên. “Tôi không biết,” anh nói. “Tôi không xem nó.”

“Nó viết về một người đàn ông có tên là Richard Armstrong,” không ai để ý đến phản ứng của bà Sherwood, “ cũng làm trong ngành xuất bản.”

“Tôi có biết một Richard Armstrong,” Townsend thừa nhận, “vì vậy cũng có thể.”

“Đã chiếm MC,” viên tướng phản đốỉ, “nhưng đó là điều tốt đẹp duy nhất bài báo đã nói về ông ta. Chắc ông cũng không thể tin vào tất cả những gì ông đọc trên các báo.”

“Tôi hoàn toàn đồng ý,” Townsend nói khi bà Sherwood rời bàn mà thậm chí không chúc họ ngủ ngon.

Bà ta vừa đi khỏi, viên tướng bắt đầu mua vui cho bác sĩ Percival và bà Osbone bằng chương hai cuốn tự truyện của ông ta. Claire đứng lên và nói, “Đừng để tôi làm gián đoạn cuộc nói chuỵện của ông, thưa tướng quân, nhưng tôi cũng phải vào giường thôi.” Townsend thậm chí không liếc nhìn cô. Ít phút sau, khi người lính già bắt đầu chuyển khỏi bãi biển Dunkirk, anh cũng xin lỗi, rời khỏi bàn và trở về phòng.

Anh vừa tắm xong thì có tiếng gõ cửa. Anh mỉm cười, xỏ vào một trong những chiếc áo choàng tắm do khách sạn của tàu cung cấp, và chậm rãi đi ra cửa. Ít ra, nếu bà Sherwood mang bản thảo tới bây giờ, anh sẽ có lý do xin lỗi hợp lý để chuẩn bị cho buổi gặp sáng mai. Anh mở cửa phòng.

“Chào bà Sherwood,” anh mới nói được như vậy, thì nhận ra là Kate đứng ngay trước mặt, trông hơi lo lắng. Nàng vội vàng bước vào và đóng cửa lại.

“Anh nghĩ chúng ta đã thỏa thuận không gặp nhau trừ phi có tình huống khẩn cấp?” Keith nói.

“Đây là tình huống khẩn cấp,” Kate trả lời, “Nhưng em không thể mạo hiểm nói với anh ở bàn ăn tối.”

“Đó có phải là lý do tại sao em hỏi anh bài báo về chủ đề đang diễn ra ở Broadway?”

“Đúng đấy,” Kate đáp. “Đừng quên là em đã có thêm một số ngày để biết bà ta, và bà ta đã gọi điện đến phòng em để hỏi xem liệu em có thực sự tin anh là chủ bút không.”

“Và em nói gì với bà ta?” Keith hỏi đúng lúc có tiếng gõ cửa. Anh đặt ngón tay lên môi và chỉ về hướng phòng tắm. Anh đợi đến khi biết chắc bức màn đã kéo xuống, rồi ra mở cửa.

“Bà Sherwood,” Townsend nói. “Rất mừng được gặp bà. Mọi chuyện đều ổn cả chứ?”

“Vâng, cảm ơn ông Townsend. Tôi nghĩ tôi nên mang nó xuống cho ông tối nay,” bà ta nói, đưa ra một bản thảo dày. “Chỉ khi ông không phải làm việc gì khác.”

“Bà thật chu đáo quá,” Keith nói, cầm lấy tập bản thảo. “Sao chúng ta không gặp nhau một lát vào sau bữa sáng mai? Lúc đó tôi có thể cho bà biết những ấn tượng đầu tiên của tôi.”

” Ồ, ông nói thật đấy chứ, ông Townsend? Tôi rất muốn biết ông nghĩ gì về nó.” Bà ta ngập ngừng. “Tôi không quấy rầy ông đấy chứ.”

“Quấy rầy tôi?” Keith không hiểu.

“Khi ở ngoài hành lang hình như tôi nghe thấy giọng ai đó.”

“Tôi đoán đó chỉ là tiếng tôi âm a trong nhà tắm” Keith nói hơi yếu ớt.

“À, điều đó giải thích được.” bà Sherwood nói. “Vậy tôi hy vọng tối nay ông sẽ bớt chút thời gian đọc vài trang cuốn Cô nhân tình của ngài thượng nghị sĩ này.”

“Chắc chắn là được,” Keith nói. “Chúc ngủ ngon, bà Sherwood.”

” Ồ, hãy gọi tôi là Margaret.”

“Tôi là Keith,” anh nói với một nụ cười.

“Tôi biết, tôi đã đọc bài báo về ông và Armstrong. Rất thú vị. Có thật ông ta tồi tệ vậy không?” Bà ta hỏi.

Keith không bình luận gì khi anh đóng cửa lại. Anh quay vào thấy Kate từ phòng tắm bước ra, mặc một chiếc áo choàng khác. Khi nàng bước về phía anh, chiếc dây thắt rơi xuống đất và áo choàng hé mở. ” Ô, hãy gọi tôi là Claire,” nàng nói khi quàng tay qua lưng anh. Anh kéo nàng lại phía mình.

“Có thật anh tồi tệ vậy không?” Kate cười khi anh dẫn cô vào phòng.

“Đúng đấy,” anh nói khi họ cùng ngã xuống giường.

“Keith,” nàng thì thầm, “anh không nghĩ là phải bắt đầu đọc bản thảo à?”

oOo

Mới có mấy giờ sau khi Sharon được nhấc từ phòng ngủ tới văn phòng, Armstrong đã nhận ra rằng Sally đã không nói quá về nghiệp vụ thư ký của cô ta. Nhưng anh ngượng không dám gọi điện cho Sally thú nhận điều này.

Cho đến hết tuần thứ hai, bàn làm việc của anh đã chất đống những bức thư chưa được trả lời hoặc, tồi tệ hơn, những bức thư trả lời mà anh không biết ký vào đâu. Sau nhiều năm làm việc với Sally, anh đã quên mất rằng hiếm khi anh tốn nhiều hơn vài phút mỗi ngày để xem qua công việc của cô trước khi đơn giản đặt bút ký vào tất cả những gì cô đặt trước mặt anh. Trên thực tế, văn bản duy nhất anh ký trong tuần đó là bản hợp đồng của Sharon, nói rõ không phải cô ta tự đề bạt mình.

Vào hôm thứ Ba của tuần thứ ba, Armstrong tới Hạ nghị viện để ăn trưa với Bộ trưởng Y tế, song phát hiện ra rằng mình được hẹn vào ngày hôm sau. Hai mươi phút sau anh về đến văn phòng, cực kỳ tức giận.

“Nhưng em đã nói với anh rằng hôm nay anh ăn trưa với Chủ tịch NatWest,” Sharon khăng khăng. “Ông ta vừa gọi từ Savoy để hỏi xem anh ở đâu.”

“Nơi cô bảo tôi đến,” anh quát, “là toà nhà Hạ nghị viện.”

“Em không thể làm hết mọi thứ hầu anh được?”

“Sally đã quản lý những việc như thế này bằng mọi cách,” Armstrong nói, rõ ràng rất khó khăn để kiềm chế cơn giận của mình.

“Nếu tôi còn nghe thấy cái tên đó một lần nữa, tôi thề là tôi sẽ bỏ anh.”

Armstrong không nói gì thêm, nhưng lao ra khỏi phòng và lệnh cho Benson đưa anh tới Savoy càng nhanh càng tốt. Khi anh tới được Grill, Mario bảo rằng người khách của anh vừa đi khỏi. Và khi quay lại văn phòng, anh được báo là Sharon đã về nhà, nói rằng cô ta bị một cơn đau đầu nhẹ.

Armstrong ngồi phịch xuống bàn và gọi cho Sally, nhưng không có ai trả lời. Anh tiếp tục gọi cho cô ít nhất một lần mỗi ngày, nhưng anh chỉ nhận được lời nhắn trong máy. Cuối tuần sau đó anh bảo Fred trả cho cô lương tháng cuối cùng.

“Nhưng tôi đã gửi cho cô ấy 45 xu đúng như chỉ thị của ông,” người kế toán trưởng nhắc anh.


“Đừng tranh luận với tôi, Fred.” Armstrong nói. “Hãy gửi đi.”

Vào tuần thứ năm những thư ký tạm thời bắt đầu tới và làm các công việc cơ bản hàng ngày, một số chỉ kéo dài được một vài giờ. Nhưng Sharon là người mở bức thư của Sally và thấy trong đó tờ séc bị xé làm đôi và lời nhắn đính kèm: “Tôi đã được trả nhiều gấp bội cho tháng làm việc vừa qua.”

Sáng hôm sau, khi Keith tỉnh dậy, anh ngạc nhiên thấy Kate, trong chiếc áo choàng của anh, đang đọc tập bản thảo của bà Sherwood. Nàng liếc nhìn và tặng anh một chiếc hôn trước khi đưa anh bảy chương đầu tiên. Anh ngồi dậy, dụi mắt một lúc, nhìn trang đang mở và đọc câu đầu tiên: “Khi cô bước vào bồn tắm, chỗ lồi ra trên người ông ta bắt đầu phình lên.” Anh nhìn sang Kate, nàng nói, “Cứ đọc đi. Nó có một cái nồi hơi.”

Keith đọc xong khoảng bốn mươi trang thì Kate nhảy khỏi giường và đi vào nhà tắm. “Đừng bực mình quá,” nàng nói. “Em sẽ nói cho anh biết nó kết thúc như thế nào.”

Khi nàng quay lại, Keith đã đọc được tới giữa chương ba. Anh thả cuốn sách xuống sàn. “Em nghĩ sao?” Anh hỏi. Nàng bước lại giường, trèo lên đệm và nhìn chằm chằm vào thân thể trần truồng của anh. “Xét từ phản ứng của anh, hoặc anh vẫn không hiểu em, hoặc em có thể nói rằng chúng ta đang cầm trong tay một cuốn sách rất ăn khách.”

Sau đó khoảng một giờ Townsend vào phòng ăn sáng, chỉ có Kate và bà Sherwood ngồi ở bàn. Họ đang nói chuyện say sưa. Câu chuyện ngừng lại ngay khi anh ngồi xuống. “Tôi không tin là…” bà Sherwood mở đầu.

“Tin gì kia?” Townsend ngây thơ hỏi.

Kate quay đi, không để bà Sherwood nhìn thấy mặt.

“Rằng ông đã có thể xem lướt qua cuốn tiểu thuyết của tôi?”

“Lướt qua ư?” Townsend nói. “Tôi đã đọc nó từ đầu đến cuối. Và có một điều rõ ràng là, thưa bà Sherwood: chưa một ai ở Công ty Schumann đã nhìn thấy bản thảo này, hoặc là họ sẽ vồ lấy nó ngay lập tức.”

“Ôi, ông thực sự cho là nó hay như vậy à?” Bà Sherwood hỏi.

“Tôi chắc chắn như vậy,” Townsend nói. “Và tôi chỉ có thể hy vọng rằng, mặc dù phản ứng thiếu suy xét của chúng tôi với lần gửi ban đầu của bà là không thể tha thứ được, bà vẫn sẽ cho phép Công ty Schumann có một đơn đặt hàng.”

“Tất nhiên rồi,” bà Sherwood phấn khởi.

“Tốt lắm. Tuy nhiên, tôi cho rằng đây không phải là nơi để thảo luận những việc quan trọng.”

“Tất nhiên. Tôi hiểu rõ điều đó, Keith,” bà ta nói. “Tại sao lát nữa ông không tới phòng tôi?” Bà ta nhìn đồng hồ. “Chúng ta sẽ nói chuyện vào khoảng 10 giờ 30?”

Townsend gật đầu. “Giờ đó hoàn toàn phù hợp với tôi.’’ Anh đứng lên khi bà ta tháo khăn ăn và rời khỏi bàn.

“Em có tìm hiểu được gì mới không?” Anh hỏi Kate ngay khi bà Sherwood ra ngoài tầm nghe.

“Không nhiều,” nàng nói, nhấm nháp miếng bánh nhân nho khô. “Nhưng em không nghĩ bà ta thực sự tin là anh đã đọc toàn bộ tập bản thảo.”

“Cái gì khiến em nói vậy?”

“Vì bà ta vừa nói với em là đêm qua trong phòng anh có phụ nữ.”

“Bà ta nói thế thật à?” Townsend giật giọng. Anh dừng lại. “Và còn nói gì nữa?”

“Bà ấy tranh luận về một chi tiết lớn trong bài báo của tờ Ocean Times, và hỏi em liệu…”

“Chào ông Townsend. Chào cô,” viên tướng nói khi ngồi xuổng ghế. Kate tặng cho ông ta một nụ cười rạng rỡ và đứng dậy.

“Chúc may mắn,” nàng nói khẽ.

“Tôi vui mừng có cơ hội được nói với ông một điều, ông Townsend. Ông biết đấy, tôi đã viết xong tập một cuốn hồi ký của tôi, và vì tôi tình cờ mang nó theo lên tàu, liệu ông có thể đọc nó và cho tôi một vài ý kiến nghề nghiệp được không ?”

Townsend mất hai mươi phút để trốn thoát được một cuốn sách mà anh không muốn đọc và càng không muốn in nó ra. Vị tướng đã không để anh có nhiều thời gian chuẩn bị cho cuộc gặp với bà Sherwood. Anh quay về phòng và ôn lại những lưu ý của Kate lần cuối cùng rồi đến phòng bà ta, gõ cửa đúng lúc 10 giờ 30. Cánh cửa mở ra ngay lập tức.

“Tôi thích những người đúng giờ,” bà ta nói.

Phòng bà Sherwood chiếm hai tầng, với một ban công riêng. Bà ta mời anh ngồi vào chiêc ghế bành ở giữa phòng khách.

“Ông có muốn dùng cà phê không, Keith?” Bà ta hỏi khi ngồi xuống đối diện với anh.

“Không, cảm ơn. Margaret,” anh đáp, “tôi vừa mới ăn sáng.”

“Tất nhiên,” bà ta nói. “Vậy ta có một vụ làm ăn?

“Chắc chắn rồi. Như tôi đã nói với bà sáng nay.” Townsend nói. “Công ty Schumann muốn xem xét độc quyền xuất bản cuốn tiểu thuyết của bà.”

“ Ồ, tôi rất vui,” bà Sherwood nói. “Ước gì chồng tôi còn sống. Ông ấy luôn tin rằng một ngày nào đó tôi sẽ được in sách.”

“Chúng tôi sẵn sàng trả cho bà khoản tiền đặt cọc là 100.000 đô la,” Townsend nói tiếp, và 10 phần trăm giá bìa, sau khi đã trừ khoản đặt cọc. Sách bìa thường sẽ được xuất bản sau sách bìa cứng hai tháng. Và sẽ có một khoản tiền thưởng cho tất cả những tuần cuốn sách của bà được nằm trong danh mục sách bán chạy nhất của tờ New York Times.”

“ Ồ, ông thực sự tin là nỗ lực nhỏ của tôi có thể xuất hiện trong danh mục sách ăn khách?”

“Tôi sẵn sàng đánh cuộc vào điều đó,” Townsend nói.

“Thật không?” bà Sherwood vặn.

Townsend lo lắng nhìn bà ta, tự hỏi không biết liệu anh có đi quá xa không.

“Tôi vui mừng chấp nhận đề nghị của ông, ông Townsend”. bà ta nói. “Tôi tin đây là dịp cần ăn mừng.”

Bà ta rót cho anh ly sâm panh từ cái chai còn một nửa trong xô đá bên cạnh. “Giờ đây chúng ta đã đạt được thoả thuận về cuốn sách,” lát sau bà ta nói, “liệu ông có thể cho tôi lời khuyên về một vấn đề nhỏ mà tôi đang phải đối mặt?”

“Tôi rất vui lòng, nếu tôi có thể,” Townsend nói, nhìn chằm chằm vào bức vẽ nhìn nghiêng của vị đô đốc đã chết.

“Tôi rất lo lắng về bài báo trên tờ Ocean Times mà cô Williams mang đến cho tôi,” bà Sherwood nói. “Nó đề cập tới một ông Richard Armstrong nào đó.”

“Tôi không hiểu.”

“Tôi sẽ giải thích,” bà ta chậm rãi kể cho Townsend nghe câu chuyện mà anh còn biết nhiều hơn cả bà, rồi kết thúc bằng câu nói. “Claire cho rằng vì ông ở trong ngành xuất bản, ông có thể giới thiệu một người nào đó muốn mua cổ phần của tôi.”

“Bà đòi bao nhiêu cho số cổ phần đó?” Townsend hỏi.

“Hai mươi triệu đô la. Đó là số tiền tôi đã thỏa thuận với anh Alexander, và anh ấy đã chuyển nhượng số cổ phần của mình cho Richard Armstrong với cái giá ấy.

“Khi nào bà sẽ gặp ông Armstrong?” Townsend lại đặt một câu hỏi mà anh đã biết câu trả lời.

“Anh ta sẽ đến căn hộ của tôi ở New York vào 11 giờ trưa thứ Hai.”

Townsend tiếp tục nhìn chằm chằm vào bức tranh trên tường, giả vờ cân nhắc vấn đề. “Tôi cho rằng công ty của tôi có thể trả ngang với giá đó,” anh nói, “nhất là với số tiền đã được thỏa thuận.” Anh hy vọng bà ta không nghe thấy trống ngực anh đập thình thịch.

Bà Sherwood hạ cặp mắt xuống và nhìn vào cuốn catalô của nhà bán đấu giá Sotheby mà tuần trước một người bạn đã gửi cho bà ta từ Geneva. “Thật may là chúng ta đã gặp nhau,” bà ta nói. “Người ta không thể tạo ra sự trùng hợp như thế này trong một cuốn tiểu thuyết được.” Bà ta cười, nâng ly lên và nói. “Định mệnh.”


Townsend không bình phẩm gì.

Sau khi đặt ly xuống, bà ta nói, “Đêm nay tôi cần suy nghĩ một chút về vấn đề này. Tôi sẽ cho ông biết quyết định cuối cùng của tôi trước khi chúng ta lên bờ.”

“Tất nhiên,” Townsend nói, cố che giấu nỗi thất vọng. Anh đứng dậy và được bà ta tiễn ra cửa.

“Tôi phải cảm ơn ông, Keith, vì tất cả những gì ông đã làm.”

“Tôi rất vui lòng,” anh nói khi bà ta đóng cửa.

Townsend quay về phòng và thấy Kate đang đợi anh.

“Chuyện đến đâu rồi?” Nàng nôn nóng.

“Bà ta chưa quyết định, nhưng anh cho là bà ta gần như đã cắn câu, nhờ bài báo của em đã làm bà ta lưu ý.”

“Còn số cổ phần?”

“Như mức giá đã định, dường như bà ta chẳng quan tâm tới việc ai mua chúng, chừng nào cuốn sách của bà ta được xuất bản.”

“Nhưng bà ta muốn có thêm thời gian suy nghĩ.” Kate nói, im lặng một lát rồi nàng thêm. “Tại sao bà ta không hỏi anh kỹ hơn về lý do anh muốn mua những cổ phần đó?”

Townsend nhún vai.

“Em bắt đầu tự hỏi không biết liệu có phải bà Sherwood chẳng ngồi đợi chúng ta mà đang tìm cách khác hay không.”

“Đừng có điên.” Townsend nói. “Sau hết, bà ta sẽ phải quyết định điếu gì quan trọng hơn: việc xuất bản cuốn sách hay là bất hòa với Alexander, người đã khuyên bà ta bán cổ phần cho Armstrong. Và nếu bà ta quyết định như vậy, sẽ có một điều ủng hộ chúng ta.”

“Là cái gì?” Kate hỏi.

“Nhờ Sally, chúng ta biết rõ trong mười năm qua bà ta đã bị bao nhiêu nhà xuất bản từ chối. Và khi đã đọc cuốn sách, anh không thể hình dung được có ai trong số họ lại cho bà ta nhiều lý do để hy vọng.”

“Chắc chắn Armstrong cũng biết điều này, và sẽ sẵn sàng in sách cho bà ta?”

“Nhưng bà ta lại không chắc như vậy,” Townsend nói.

“Có lẽ bà ta có thể, và nó còn sáng sủa hơn triển vọng chúng ta đem lại. Có điện thoại trên tàu không?”

“Có, có một cái ở khoang chỉ huy. Anh đã thử gọi cho Tom Spencer ở New York vì vậy anh ta có thể bắt đầu sửa bản hợp đồng, nhưng anh được biết không được tùy tiện sử dụng điện thoại, trừ phi có tình huống khẩn cấp.”

“Thế ai sẽ quyết định cái gì là tình huống khẩn cấp?” Kate hỏi.

“Ngưòi tài công nói rằng thuyền trưởng là người phán xử việc này.”

“Vậy là chẳng ai trong chúng ta có thể làm được gì cho tới khi đến New York.”

Bà Sherwood đến ăn trưa muộn, và chiếm chỗ ngồi cạnh viên tướng. Bà ta dường như bằng lòng với việc ngồi nghe phần tóm tắt dài lê thê của chương ba cuốn hồi ký của ông ta, và không một lần nào nêu lên chủ đề cuốn sách của mình. Sau bữa trưa, bà ta biến vào phòng.

Khi họ gặp nhau trong bữa tối, họ nhận ra là bà Sherwood đã được mời ngồi ở bàn thuyền trưởng.

Sau một đêm mất ngủ Keith và Kate xuống ăn sáng khá sớm, hy vọng được biết quyết định của bà ta. Nhưng nhiều phút trôi qua và bà Sherwood không xuất hiện, rõ ràng là bà ta đã dùng bữa sáng trong phòng.

“Có lẽ hành lý của bà ấy bị thất lạc,” bác sĩ Percival, con người luôn có ích, phỏng đoán.

Trông Kate không tin tưởng lắm.

Keith quay về phòng, đóng gói hành lý và sau đó gặp Kate trên boong khi mũi tàu rẽ nước hướng về Hudson.

“Em có cảm giác chúng ta đã thất bại trong vụ này,” Kate nói khi họ đi ngang qua tượng Nữ thần Tự do.

“Anh nghĩ có lẽ em đúng. Anh sẽ không bận tâm nhiều nếu nó lại về tay Armstrong.”

“Việc chống lại anh ta trở nên quan trọng vậy sao?”

“Đúng. Em phải hiểu đó là…”

“Chào ông, ông Townsend,” một giọng nói vang lên cạnh họ. Keith từ từ quay đầu lại và nhìn thấy bà Sherwood đang lại gần. Anh hy vọng bà ta không nhận thấy Kate lúc này đang lẩn vào đám đông.

“Chào bà Sherwood,” anh trả lời.

“Sau khi cân nhắc,” bà ta nói. “Tôi đã đi đến một quyết định.”

Keith nín thở.

“Nếu ông chuẩn bị xong hai hợp đồng để tôi ký lúc mười giờ sáng mai, sau đó ông sẽ có, nói như cách thô tục của người Mỹ, một vụ mua bán”.

Mặt Keith tươi rói.

“Tuy nhiên,” bà ta nói tiếp, “Nếu cuốn sách của tôi không được xuất bản trong vòng một năm kể từ khi ký hợp đồng, ông sẽ bị phạt một khoản tiền là một triệu đô la. Và nếu nó không lọt được vào danh mục sách bán chạy của tờ New York Times, ông sẽ phải bồi thường hai triệu đô la.

“Nhưng…”

“Khi tôi hỏi ông về danh mục sách bán chạy ông đã nói rằng ông sẵn sàng đánh cuộc vào cuốn sách của tôi, đúng không, ông Townsend ? Vì vậy tôi sẽ cho ông cơ hội để làm điều đó.”

“Nhưng…” Keith nhắc lại.

“Tôi rất mong được gặp ông tại căn hộ của tôi lúc mười giờ sáng mai, ông Townsend. Luật sư của tôi đã xác nhận rằng anh ta sẽ tham dự. Nếu ông không tới, tôi sẽ ký hợp đồng với ông Armstrong lúc mười một giờ.” Bà ta dừng lại và nhìn thẳng vào Keith, nói. “Tôi có cảm giác anh ta cũng sẽ sẵn sàng xuất bản cuốn tiểu thuyết này.”

Không nói thêm lời nào nữa, bà ta bước đi. Kate đuổi kịp anh ở chỗ rào chắn và họ nhìn bà ta chậm rãi bước lên xe, hai chiếc Roll-Royce xịch đến, một người lái xe nhảy ra khỏi chiếc xe thứ nhất để mở cửa sau xe cho bà ta. Chiếc thứ hai để chở hành lý.

“Bà ta làm thế nào để nói chuyện được với luật sư?” Keith hỏi. “Nói với hắn ta về cuốn tiểu thuyết khó có thể được mô tả như một sự kiện nổi bật.”

Ngay trước khi vào trong xe, bà Sherwood ngẩng đầu lên và vẫy một người nào đó. Họ cùng quay lại và nhìn về phía cầu.

Một viên đại uý đang đứng đó chào đáp lễ.

— —— —— —— —–

(1) Faulkner: Nhà văn Mỹ hiện đại. Giải thưởng Nobel.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.