Quyền Lực Thứ Tư

Chương 18


Đọc truyện Quyền Lực Thứ Tư – Chương 18

Báo

DAILY MAIL

Ngày 13 tháng Tư, 1961

TIẾNG NÓI TỪ VŨ TRỤ: “TÔI ĐANG BAY”.

GAGARIN NÓI VỚI KHRUSHCHEV VỀ TRÁI ĐẤT MÀU XANH

Heather đặt cốc cà phê nóng trước mặt anh. Townsend bắt đầu lấy làm tiếc đã chấp nhận cho phỏng vấn, nhất là lại với một phóng viên tập sự. Quy tắc vàng của anh là không bao giờ cho phóng viên phỏng vấn có ghi chép. Một số chủ bút thích người ta viết về mình ngay trên các báo của họ. Townsend không nằm trong số đó, nhưng khi bị Bruce Kelly thúc ép, còn nói rằng chỉ có tốt cho tờ báo và cho anh, anh đành miễn cưỡng đồng ý.

Sáng đó anh phải hoãn đi hoãn lại hai ba lần, rồi một loạt điện thoại và họp hành liên miên làm anh quên phắt nó đi. Sau đó Heather phải nhắc với anh rằng cô phóng viên trẻ đang đợi ngoài phòng. “Tôi cho cô ta vào được không?” Heather hỏi.

“Được”, anh nói, nhìn đồng hồ. “Nhưng tôi không muốn quá dài. Còn một vài việc nữa cần phải làm trước cuộc họp Hội đồng quản trị ngày mai”.

“Mười lăm phút sau tôi sẽ vào, nói với anh có điện thoại gọi từ nước ngoài”.

”Hay đấy”, anh nói. “Nhưng hãy nói là từ New York. Chả hiểu sao, nhưng nói thế họ thường kết thúc nhanh hơn.”

Heather gật đầu ra khỏi phòng trong khi Townsend rê ngón tay theo chương trình nghị sự cuộc họp Hội đồng và dừng ở mục 7. Anh cần biết thêm về tổ hợp West Riding nếu anh muốn thuyết phục Hội đồng ủng hộ. Ngay cả khi họ đồng ý, anh vẫn phải ký hợp đồng trong chuyến đi Anh tới đây. Trên thực tế, anh sẽ phải tới thẳng Leeds nếu anh cảm thấy cần phải theo đuổi hợp đồng đó.

“Chào ông Townsend”.

Keith ngẩng lên, nhưng không nói gì.

“Thư ký của ông bảo tôi ông cực kỳ bận, vì vậy tôi sẽ không làm lãng phí nhiều thời gian của ông”, cô nói khá nhanh.

Anh vẫn không nói gì.

“Tôi là Kate Tulloh, phóng viên của tờ Chronicle”.

Keith ra khỏi bàn, bắt tay cô phóng viên trẻ, dẫn cô tới chiếc ghế xoay thường dành cho các thành viên Hội đồng, Tổng biên tập hoặc người mà anh định ký những hợp đồng quan trọng. Khi cô đã yên vị, anh ngồi xuống ghế đối diện.

“Cô làm cho công ty được bao lâu rồi ?” Anh hỏi trong khi cô ta lấy cuốn sổ tốc ký và cây bút chì ra khỏi túi xách.

Cô ngồi tréo chân, trả lời: “Thưa ông Townsend, mới được vài tháng. Tôi làm cho tờ báo với tư cách phóng viên tập sự sau khi tốt nghiệp. Ông là người quan trọng đầu tiên tôi phỏng vấn”.

Lần đầu tiên trong đời, Keith cảm thấy mình già, tuy anh mới vừa kỷ niệm sinh nhật lần thứ ba mươi ba.

“Cô nói giọng đâu thế nhỉ? Tôi chịu không nhận ra”.

“Tôi sinh ra ở Budapest, nhưng cha mẹ tôi chạy khỏi Hung trong thời kỳ cách mạng. Chiếc tàu duy nhất chúng tôi lên được lại sang Úc”.

“Ông bà tôi cũng chạy sang Úc”, Keith nói.

“Và cũng vì cách mạng?”

“Không. Ông tôi là người Scottland, chỉ muốn tránh càng xa người Anh càng tốt”. Keith cười. “Gần đây cô được giải phóng viên trẻ, đúng không?” Anh hỏi, cố nhớ lại những thông tin Heather chuẩn bị cho anh.

“Vâng. Bruce trao giải cho tôi năm ngoái, vì thế mà tôi vào làm cho tờ Chronicle”.


“Cha cô làm gì?”.

“Hồi ở Hung, ông là kiến trúc sư, nhưng qua đây ông chỉ kiếm được công việc lao động chân tay. Chính phủ không chịu công nhận văn bằng của ông, còn nghiệp đoàn thì không thông cảm”.

“Họ cũng đâu có thích tôi”, Keith bảo. “Còn mẹ cô?”.

“Thưa ông Townsend. Tôi xin lỗi không muốn mang tiếng là vô lễ, nhưng tôi nghĩ tôi đến đây để phỏng vấn ông”.

“A, tất nhiên. Xin mời cô”. Anh nhìn cô gái, không biết mình có làm cô sợ không. Anh chưa từng gặp ai quyến rũ như cô, Kate Tulloh. Tóc cô đen, dài buông xoã trên vai, khuôn mặt trái xoan hoàn hảo chưa bị mặt trời xứ Úc tàn phá. Cô lại gác tréo chân, váy hơi hếch lên. Anh cố không nhìn xuống.

“Tôi xin phép được nhắc lại câu hỏi, thưa ông Townsend?”

“A… xin lỗi”.

Heather vào, ngạc nhiên thấy họ ngồi ở góc dành cho các Giám đốc.

“Có điện thoại gọi ông từ New York”, cô bảo. “Ông Lazar. Ông ta muốn nói về phản đề nghị mà ông ta vừa nhận được của Kênh truyền hình số 7 về chương trình mùa tới”.

“Bảo ông ta tôi gọi lại sau”, Keith nói, không ngẩng lên. “A, Kate. Cô dùng cà phê chứ?

“Vâng, cám ơn ông Townsend”.

“Đen hay nâu?”

“Nâu, nhưng không cho đường. Cám ơn”, cô nhắc lại, nhìn về phía Heather.

Heather ra ngoài, không hỏi Keith xem anh có muốn uống cà phê nữa không.

“Xin lỗi, câu hỏi của cô thế nào nhỉ?”

“Ông có viết hay xuất bản gì trong thời gian ở trường không?”

“Có. Năm cuối cùng, tôi là Tổng biên tập tờ báo của trường”, anh trả lời. Kate ghi lia lịa. “Giống như cha tôi trước đây”. Đến khi Heather mang cà phê vào, anh mới đang kể cho Kate nghe đến đoạn thành công của anh trong đợt vận động quyên góp xây sân vận động.

“Còn khi học ở Oxford, tại sao ông không biên tập tờ báo của sinh viên, hoặc tiếp quản ISIS, tờ tạp chí của trường?”

“Vào những ngày này, tôi quan tâm nhiều tới chính trị nhưng rồi tôi biết suốt quãng đời còn lại, tôi sẽ chỉ hoạt động trong giới báo chí”.

“Có phải khi trở lại Úc, ông cảm thấy nản lòng khi mẹ ông đã bán tờ Melbourne Courier không?”

“Đúng thế”, Keith thừa nhận trong lúc Heather bước vào. “Nhưng một ngày nào đó tôi sẽ mua lại”.

“Có vấn đề gì không, Heather?” Anh nhướng mày hỏi. Cô đứng cách anh chỉ một bước chân.

“Có. Tôi xin lỗi lại phải ngắt lời ông, nhưng ngài Keh Sterling suốt buổi sáng nay đã cố liên hệ với ông. Ông ta muốn bàn với ông về chuyến đi Anh sắp tới”.

“Vậy tôi sẽ phải gọi lại cho ông ta, đúng không?”

“Ông ta nói sẽ không có ở văn phòng cả buổi chiều”.

“Thế thì nói tối nay tôi sẽ gọi về nhà vậy”.


“Tôi thấy là ông đang bận”, Kate nói. “Tôi có thể đợi, hoặc lúc nào đó sẽ quay lại”.

Keith lắc đầu, mặc dù Heather vẫn đứng im đó. Anh thậm chí còn tự hỏi có phải thật sự là Ken gọi không.

Kate lại hỏi tiếp. “Có nhiều tư liệu còn lưu về việc bằng cách nào ông kiểm soát được tờ Adelaide Courier, và cú ông làm với Hầu tước Collin Grant quá cố”.

“Hầu tước Collin là bạn thân của cha tôi”, Keith nói. “Việc sáp nhập luôn luôn vì lợi ích cao nhất của cả hai tờ báo”. Kate có vẻ không tin lắm. “Tôi chắc cô cũng đọc thấy Hầu tước Collin là Chủ tịch đầu tiên của tờ báo sáp nhập”.

“Nhưng ông ta chỉ chủ trì duy nhứt một phiên họp Hội đồng”.

“Tôi nghĩ cô sẽ thấy là hai”.

“Có phải Hầu tước Somerset Kenwright cùng chịu chung số phận khi ông tiếp quản tờ Chronicle”

“Không, không chính xác. Tôi có thể bảo đảm với cô không ai ngưỡng mộ Hầu tước Somerset hơn tôi”.

“Nhưng Hầu tước Somerset có lần đã mô tả ông”, Kate nói, nhìn xuống tờ giấy cô ghi chép, ” là người thích đứng dưới chân núi nói dối, rồi nhìn người khác trèo núi”.

“Tôi nghĩ cô sẽ thấy Hầu tước Somerset cũng giống như Shakespear, thường bị người ta trích dẫn sai”.

“Thật khó để chứng minh điều ngược lại”. Kate nói, “vì ông ta cũng đã chết”.

“Đúng thế”, Keith nói với vẻ thủ thế. “Nhưng những lời Hầu tước Somerset nói mà tôi thường nhớ là: Không gì làm tôi vui mừng hơn là tờ Chronicle được chuyển vào tay con trai Hầu tước Townsend”.

“Nhưng Hầu tước Somerset chỉ nói câu đó”. Kate lại nhìn vào tờ giấy ghi chép, “trước khi ông thực sự tiếp quản tờ báo?”

“Thì có gì khác nhau đâu?” Keith nói, cố làm vẻ ngơ ngác.

“Đơn giản là ngay ngày đầu tiên đến toà báo với tư cách chủ bút, ông đã cho thôi việc Tổng biên tập và Giám đốc điều hành. Một tuần sau, họ ra một tuyên bố chung nói, và lần này tôi xin trích nguyên văn…”

“Thưa ông Townsend. Đã đến giờ cuộc hẹn tiếp của ông”, Heather nói, đứng ngay giữa cửa, tựa như chuẩn bị để ai bước vào.

“Ai vậy?” Keith hỏi.

“Andrew Blacker”.

“Đổi lại chương trình”.

“Xin ông đừng làm thế”, Kate nói. “Tôi đã hỏi quá đủ rồi”.

“Đổi lại chương trình”, Keith cương quyết.

“Nếu ông muốn”, Heather nói không kém cương quyết. Cô lùi ra, vẫn để ngỏ cửa.

“Thưa ông Townsend. Tôi xin lỗi đã chiếm mất nhiều thời gian của ông”, Kate nói. “Tôi sẽ cố gắng nhanh hơn”, cô nói thêm, trước khi trở lại danh sách dài các câu hỏi. “Giờ tôi chuyển sang việc cho ra tờ Continent được không ạ?”

“Nhưng tôi chưa nói xong về Hầu tước Somerset Kenwright và thực trạng của tờ Chronicle khi tôi tiếp quản”.


“Tôi xin lỗi”, Kate nói. “Chỉ vì tôi lo ông sẽ phải gọi điện thoại và cảm thấy ái ngại cho ông Blacker”.

Im lặng kéo dài trước khi Keith thú nhận. “Chẳng có ông Blacker nào cả”.

“Tôi không hiểu”, Kate nói.

“Đó là mật hiệu. Heather dùng chúng để cho tôi biết cuộc gặp đã kéo dài bao lâu: New York là mười lăm phút; ông Andrew Blacker là ba mươi phút. Mười lăm phút nữa cô ta sẽ lại vào và bảo tôi có cú điện thoại từ London và Los Angeles. Còn nếu thực sự bực với tôi, cô ta sẽ đo thời gian bằng Tokyo”.

Kate cười.

“Ta hãy cứ thử làm tròn một tiếng. Không biết sau một tiếng, cô ta sẽ đo bằng cái gì”.

“Thành thật mà nói, thưa ông Townsend. Tôi chỉ nghĩ được phỏng vấn ông không quá mười lăm phút”, Kate nói, nhìn xuống bảng câu hỏi.

“Cô bắt đầu hỏi tôi về tờ Continent”, Keith nhắc.

“A, đúng rồi”, Kate nói. “Báo chí đưa tin ông hoàn toàn suy sụp sau khi Alan Rutledge từ chức Tổng biên tập”.

“Đúng thế”, Keith thừa nhận. “Ông ấy là một phóng viên giỏi, chúng tôi đã trở thành bạn gần gũi. Nhưng tờ báo chỉ phát hành dưới 50.000 bản một ngày, mỗi tuần chúng tôi lỗ 100.000 bảng. Bây giờ, dưới thời Tổng biên tập mới, chúng tôi trở lại mức 200.000 bản một ngày và đầu năm tới sẽ phát hành tờ Sunday Continent”.

“Nhưng chắc ông phải chấp nhận rằng tờ báo không còn có thể được mô tả như một loại The Times của Úc?”

“Đúng, và tôi thật sự tiếc”. Đây là lần đầu tiên Keith thú nhận điều này với người khác, trừ mẹ anh.

“Tờ Sunday Continent cũng theo mô thức như báo ngày, hay ông sẽ cho ra một tờ báo quốc gia có chất lượng mà nước Úc đang rất cần?”

Keith bắt đầu hiểu tại sao cô Tulloh lại được giải phóng viên trẻ, tại sao Bruce lại đánh giá cao về cô ta đến thế. Lần này anh chọn từ rất cẩn thận. “Tôi sẽ cố gắng cho ra đời một tờ báo mà đa số người Úc sẽ thích có trên bàn ăn vào mỗi sáng Chủ nhật. Cái đó đã trả lời đúng câu hỏi của cô chưa, Kate?”

“Tôi sợ rằng đúng”, cô ta mỉm cười nói.

Keith cũng mỉm cười đáp lại. Nụ cười nhanh chóng biến mất khi anh nghe câu hỏi tiếp theo.

“Bây giờ tôi xin phép nói đến một sự kiện trong cuộc đời ông đã được đưa rất nhiều trên cột Tin vặt”. Keith hơi đỏ mặt trong khi cô ta đợi câu trả lời. Bản năng mách anh nên chấm dứt cuộc phỏng vấn ở đây, nhưng anh chỉ gật đầu.

“Có đúng là trong ngày cưới, ông đã ra lệnh cho lái xe chạy thẳng qua nhà thờ chỉ vài phút trước khi cô dâu tới không?”.

Keith nhẹ người khi Heather mạnh bước vào phòng. “Thưa ông Townsend. Ông sẽ có điện thoại trong vòng vài phút tới”.

“Điện thoại à?” Anh hỏi, mắt sáng lên.

“Vâng, thưa ngài”. Chữ “ngài” cô dùng chỉ khi rất cáu.

“London và Los Angeles”. Cô ngừng lại trước khi nói tiếp. “Và Tokyo”. Rất bực rồi đấy, Keith nghĩ. Nhưng ít ra cô cũng cho anh lối thoát. Kate đã gập cuốn sổ tốc ký.

“Chuyển sang chiều nay”, anh nói khẽ. Anh không rõ trong hai cô, cô nào ngạc nhiên hơn. Heather bỏ ra ngoài, không nói một lời, lần này khép cửa lại.

Cả hai người không ai nói gì, cho đến khi Keith bảo: “Đúng. Đúng đấy. Nhưng xin cô đừng đưa nó vào bài viết của mình.”

Kate bỏ bút chì xuống bàn, trong khi Keith quay người nhìn qua cửa sổ. “Xin lỗi ông Townsend”, cô nói. “Tôi thật không tế nhị”.

Tôi chỉ thực hiện công việc của mình, là câu các phóng viên thường nói”, Keith nhẹ nhàng bảo.

“Có lẽ chúng ta chuyển sang việc ông tiếp quản 2WW một cách lạ lùng, nếu không nói là quái lạ”.

Keith ngồi thẳng người, lần đầu tiên có vẻ thoải mái đôi chút.

“Khi tin được đưa lần đầu trên tờ Chronicle trùng vào sáng ngày cưới của ông, ngài Somerset đã gọi ông là đồ ăn cướp”.

“Tôi tin ông ta muốn dùng nó như một lời khen”.


“Lời khen?”

“Đúng. Tôi cho rằng ông ta muốn nói tôi đã theo đúng truyền thống của những nguời đi trước”.

“Ông nghĩ đến ai vậy?” Kate ngây thơ hỏi.

“Walter Raleigh và Francis Drake”, Keith trả lời.

“Tôi lại nghĩ có nhiều khả năng ngài Somerset nói tới Râu Xanh hoặc thuyền trưởng Morgan cơ đấy”, Kate mỉm cười đáp lại.

“Có thể. Nhưng tôi nghĩ cô sẽ thấy cả hai bên đều thoả mãn với hợp đồng đặc biệt đó”.

Kate lại nhìn xuống phần ghi chép của mình. “Thưa ông Townsend. Hiện giờ ông có sở hữu, hoặc có cổ phần lớn trong mười bảy tờ báo, mười một đài phát thanh, một hãng sản xuất máy bay, một khách sạn và hai mỏ than”. Cô ngưóc nhìn anh. “Tới đây ông còn định làm gì nữa?”

“Tôi muốn bán khách sạn và mỏ than, vì vậy nếu cô tình cờ gặp ai quan tâm…”.

Kate cười. “Không, tôi hỏi nghiêm chỉnh”, cô nói khi Heather xông thẳng vào phòng.

“Ngài Thủ tướng đang trong thang máy trên đường lên đây, thưa ông Townsend”, cô ta nói, giọng Scottland càng nặng hơn lúc bình thường. “Nếu ông nhớ, trưa nay ông phải chiêu đãi Thủ tướng trong phòng họp Hội đồng”.

Keith nháy mắt với Kate lúc ấy đang cười rũ. Heather giữ cửa, lùi qua bên nhuờng đường cho một người tóc bạc trắng, ăn mặc lịch sự bước vào.

“Chào ngài Thủ tướng”, Keith nói, vội đứng dậy bước tới chào Robert Menzies. Hai người bắt tay nhau trước khi Keith quay lại giới thiệu Kate, lúc này đang cố trốn vào góc phòng. “Thưa ngài thủ tướng. Tôi không nghĩ ngài đã gặp Kate Tulloh. Cô là một trong những phóng viên trẻ đầy triển vọng của tờ Chronicle. Tôi biết cô hy vọng được phỏng vấn ngài vào một ngày nào đó”.

“Tôi sẽ rất vui lòng”, Menzies nói. “Cô cứ gọi tới văn phòng tôi, chúng ta sẽ hẹn một lúc nào đó, cô Tulloh nhé”.

Hai ngày tiếp theo, Keith không sao gạt Kate ra khỏi đầu. Một điều chắc chắn là cô không nằm trong những kế hoạch đã được tính toán kỹ của anh.

Khi ngồi vào bàn ăn trưa, vị Thủ tướng tự hỏi không hiểu sao chủ nhân trầm tư đến thế. Townsend có vẻ thờ ơ với những đề nghị mang tính cách tân nhằm hạn chế quyền của nghiệp đoàn, mặc dù chính báo chí của anh từ vài năm nay đã thúc ép chính phủ về vấn đề này.

Sáng hôm sau, Townsend cũng không lanh lợi lắm khi điều khiển cuộc họp hàng tháng của Hội đồng. Thực tế là người kiểm soát vương quốc truyền thông lớn nhất của Úc đã tỏ ra thiếu cởi mở một cách đáng ngờ. Một hai vị giám đốc bạn anh tự hỏi có phải anh đang mưu tính gì đó chăng? Khi anh nói về mục 7 — việc anh sắp tới Anh quốc với mục đích tiếp quản một nhóm báo nhỏ ở phía bắc nước này, thì chẳng mấy ai thấy cần phải có chuyến đi đó. Anh hoàn toàn thất bại trong việc thuyết phục họ rằng đó là việc đáng làm.

Khi cuộc họp giải tán, các giám đốc đã về hết, Townsend trở lại văn phòng, ngồi đọc báo mãi cho tới khi Heather bỏ đi. Anh nhìn đồng hồ khi cô đã khép cửa lại. Đã hơn bảy giờ tối, anh chợt nghĩ cô đã phải làm việc quá muộn. Khi đã chắc chỉ còn một mình, anh nhấc điện thoại, rồi quay ba số trực tiếp đến văn phòng Tổng biên tập.

“Bruce này. Về chuyến đi London sắp tới, tôi cần một phóng viên đi cùng, để nếu có chuyện gì thì anh là người đầu tiên được biết”.

“Lần này anh định mua gì?” Bruce hỏi. “Tờ The Times chăng?”

“Không, không phải trong chuyến đi này. Tôi chỉ tìm kiếm thứ gì mang lại lợi nhuận”.

“Tôi sẽ gọi cho Ned Brewer ở Văn phòng London. Nếu có gì, anh ta rõ ràng là người có thể theo được”.

“Tôi không rõ đó có phải việc của một Giám đốc văn phòng hay không”, Townsend nói. “Tôi tính lang thang ở vùng bắc nước Anh vài ngày, xem các nhà in, gặp gỡ các phóng viên, cố gắng quyết định nên giữ Tổng biên tập nào. Tôi không muốn Ned xa văn phòng một thời gian dài”.

“Vậy thì tôi có thể nhả Ed Makins cho anh một tuần. Nhưng tôi cần anh ta khi Quốc hội bắt đầu họp, nhất là nếu anh linh cảm đúng, Menzies thông báo về một dự luật hạn chế quyền của nghiệp đoàn”.

“Đừng, đừng. Tôi không muốn người cao đến mức ấy. Nhìn chung tôi cũng không chắc mình sẽ đi bao lâu. Một nguời mới vào có tay nghề kha khá là đủ”. Anh ngừng lại, nhưng Bruce không gợi ý giúp thêm. “Tôi rất có ấn tượng với cô gái anh cử đến phỏng vấn tôi hôm trước”, anh nói. “Tên cô ta là gì nhỉ?”

“Kate Tulloh”, Bruce trả lời. “Nhưng cô ta còn quá trẻ, chưa có kinh nghiệm trước một việc lớn như thế này”.

“Khi chúng ta gặp nhau, anh cũng thế thôi, Bruce. Việc đó không ngăn tôi giao anh chức Tổng biên tập”.

Im lặng một lát, rồi Bruce bảo: “Để tôi xem lúc đó cô ta có rảnh không”.

Townsend mỉm cười đặt máy xuống. Anh không thể giả bộ rất mong chuyến đi Anh lần này, mặc dù anh biết đã đến lúc cần mở rộng chân trời của anh ra khỏi nước Úc.

Anh nhìn đám giấy tờ để đầy mặt bàn. Mặc dù có hẳn một đội chuyên gia quản lý xem xét chi tiết các tổ hợp báo chí ở Anh, cuối cùng họ cũng chỉ đi đến kết luận tập trung vào một tổ hợp mà thôi.

Một hồ sơ đã được chuẩn bị để anh nghiên cứu vào cuối tuần. Anh lật trang đầu và bắt đầu đọc hồ sơ về tổ hợp West Riding. Trụ sở chính của nó đóng ở Leeds. Anh mỉm cười. Nơi gần Leeds nhất mà khi còn học ở Oxford anh đã tới là trường đua ở Doncaster. Vào dịp đó, nếu anh nhớ chính xác, anh đã cược đúng con ngựa thắng cuộc.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.