Bạn đang đọc Quỷ ám – Chương 18 – part 02
Karras gật đầu.
” Cái gì trên áo thun của cha vậy ?” nhà thám tử hỏi vị linh mục, vừa hất đầu về phía ngực áo ông.
” Cái gì đâu ?”
” Trên ngực áo thun đó,” nhà thám tử nói rõ. ” Hàng chữ ấy, Các Triết Gia.”
” À, có một năm tôi đã dạy vài khoá,” Karras nói, ” ở chủng viện Woodstock, bang Maryland. Tôi chơi trong đội dã cầu lớp dưới. Các cầu thủ được gọi là Các Triết Gia.”
” À, còn đội lớp trên ?”
” Các Nhà Thần Học.” Kinderman mỉm cười và lắc đầu. ” Các Nhà Thần Học ba, Các Triết Gia hai,” ông ngẫm nghĩ.
” Các Triết Gia ba, Các Nhà Thần Học hai.”
” Dĩ nhiên.”
” Dĩ nhiên.”
” Những chuyện lạ lùng.” Nhà thám tử trầm ngâm. ” Lạ lùng thật. Này, thưa cha..” Ông bắt đầu một chiến thuật dè dặt. ” Này, bác sĩ ơi, … tôi có điên không, hay là có thể có một ổ phù thủy tại Quận này ngay lúc này đây ? Ngay hôm nay đây ?”
” Ôi, nào.” Karras nói.
” Thế là có thể có rồi.”
” Tôi không hiểu ý ông.”
” Bây giờ tôi sẽ đóng vai bác sĩ đây,” nhà thám tử tuyên bố với linh mục, ngón tay trỏ của ông ta vung vẩy trong không khí. ” Cha không nói là không, mà lại tỏ ra tinh ranh một lần nữa. Thế là cha thủ thế rồi, thưa cha nhân lành, đúng là cha thủ rồi. Cha sợ rằng cha sẽ trông ra vẻ cả thộn, dễ tin, có lẽ vậy, ra vẻ một ông cha mê tín trước mặt Kinderman nhà trí tuệ bậc thầy, nhà duy lý,” ông vỗ vỗ ngón tay lên trán. ” Bậc thiên tài bên cạnh cha đây. Thời đại của lý trí biết đi đây. Đúng không ? Tôi nói có đúng không ?”
Vị linh mục Dòng Tên nhìn chăm chăm nhà thám tử với vẻ ức đoán và sự nể vì càng lúc càng tăng. ” Chà, thật là hết sức sắc sảo, khôn ngoan,” ông nhận xét.
” Được rồi,” Kinderman lầu bầu. ” Thế thì tôi xin hỏi cha một lần nữa, có thể có những hang ổ của bọn phù thủy ngay tại quận này không ?”
” Chà, điều này thì quả thật tôi không biết,” Karras trầm ngâm đáp, hai tay ông khoanh trước ngực. ” Nhưng tại nhiều khu vực ở châu Âu, người ta vẫn cử hành Lễ Đen.”
” Ngày nay à ?”
” Ngày nay.”
” Có phải cha muốn nói là cũng y như thuở xưa vậy, hở cha ? Này, tình cờ tôi có được đọc về mấy chuyện đó, nào là chuyện tình dục, chuyện tượng thánh, và cơ man những điều chẳng ai biết đâu mà lần. Tôi không làm cha ghê tởm, nhưng tiện thể xin hỏi cha là họ quả có làm tất cả những điều ấy không ? Thật không ?”
” Tôi không biết.”
” Vậy thì ý kiến của cha ra sao, thưa cha Phòng Thủ.”
Vị linh mục Dòng Tên bật cười. ” Thôi được rồi, tôi nghĩ là điều đó có thật đấy. Hay chí ít tôi cũng nghĩ là như vậy. Nhưng hầu hết các luận điểm của tôi đều căn cứ trên bệnh lý học. Chắc chắn như vậy, cái vụ Lễ Đen đó. Bất cứ kẻ nào làm những hành động đó đều là một con người hết sức rối loạn, và rối loạn hết sức đặc biệt. Thật vậy, thuật ngữ y học, có một cái tên gọi loại chứng rối loạn kiểu đó được mệnh danh là hội chứng quỷ xa-tăng – Satanism – hay là sự sùng bái xa-tăng, ý muốn nói những kẻ không thể nào đạt được khoái lạc nhục dục mà không kèm theo một hành động báng bổ thần thánh nào đó. Vâng, điều đó không phải là bất thường lắm đâu ngay cả trong thời đại ngày nay, và Lễ Đen được sử dụng đến chỉ như một cách biện minh đó thôi.” ” Một lần nữa, xin thứ lỗi cho tôi, nhưng còn những hành vi dâm loạn người ta thực hiện trên tượng Chúa Giê-su và trinh nữ Marie thì sao ?”
” Những hành động ấy ra sao cơ ?”
” Mà chúng có thật không ?”
” Vâng, tôi nghĩ là điều này có lẽ khiến ông quan tâm với tư cách là một viên chức cảnh sát.” Máu học giả của vị linh mục lại được kích thích sôi sục lên, cử chỉ của Karrsas trở nên hùng hồn một cách lặng lẽ. ” Tàng thư văn khố của Sở Cảnh sát Paris vẫn còn lưu trữ hồ sơ vụ hai tu sĩ thuộc một tu viện lân cận, để xem nào… ” ông gãi đầu như cố gắng nhớ lại. ” À, phải rồi, tu viện ở Crépy, tôi tin như thế. Hay bất cứ tu viện nào,” ông nhún vai, ” ở vùng gần đó. Hai tu sĩ này bước vào một lữ quán, hung hăng đòi một chiếc giường ba người nằm. À, nhân vật thứ ba thì họ vác trên vai : một tượng Đức Mẹ lớn cỡ bằng người thật.”
” Trời đất, kinh khủng quá,” nhà thám tử thở hào hển. ” Kinh khủng quá !”
” Nhưng sự thực đúng như vậy, và đó là một chỉ dẫn khá rõ ràng những điều ông đọc đã được căn cứ trên thực tế.”
” Chà, chuyện tình dục, có lẽ vậy rồi, có lẽ như vậy. Tôi có thể hiểu được. Đó lại là một chuyện hoàn toàn khác. Không hề gì. Nhưng đàng này, xét đến những vụ giết người theo nghi lễ thì sao đây, thưa cha ? Có thật không ? Cha nói đi ! Cái vụ lấy máu trẻ sơ sinh ấy ?” Nhà thám tử đang ám chỉ đến một điều khác ông đã được đọc trong sách biên khảo về thuật phù thủy, chương mô tả thế nào trong cuộc Lễ Đen, thầy tế lễ không mặc áo dòng kia lắm lúc thường rạch cườm tay một trẻ sơ sinh làm áu nó chảy vào một chén thánh, sau đó chén máu được hiến tế và dùng trong nghi thức thông công. ” Điều đó giống hệt những chuyện người ta hay kể về người Do Thái,” nhà thám tử nói tiếp, ” thế nào họ bắt cóc những hài nhi Thiên Chúa giáo rồi uống máu chúng. Chà, xin thứ lỗi cho tôi, nhưng chính dân tộc cha đã kể các câu chuyện đó.”
” Nếu họ đã làm điều đó, thì xin hãy tha thứ cho tôi.”
” Cha đã được giải tội, cha đã được giải tội rồi mà.”
Một cái gì đen tối, một cái gì đó buồn thảm, lướt qua mắt vị linh mục, giống như cái bóng của một niềm đau được hồi tưởng lại trong chốc lát. Ông vội chú tia mắt mình vào lối đi ngay trước mặt.
” Thực sự tôi không biết gì về chuyện giết người theo nghi lễ.” Karras nói. ” Tôi không biết thật. Nhưng có dạo, một bà mụ ở Thụy Sĩ đã thú nhận đã giết ba mươi hoặc bốn mươi trẻ sơ sinh để sử dụng tại Lễ Đen. Ồ, thì có lẽ bà ta đã bị tra khảo,” ông nói thêm. ” Ai mà biết được. Nhưng rõ ràng bà ta đã kể một câu chuyện hết sức thuyết phục, rất đáng tin cậy. Bà kể rằng bà thường dấu một chiếc kim dài, nhỏ, trong tay áo, để mỗi khi đỡ một hài nhi ra khỏi lòng mẹ, bà lại kéo cái kim ra, đâm suốt vào đỉnh đầu đứa bé, sau đó lại giấu cái kim vào chỗ cũ. Không hề có dấu vết.” Ông nói, mắt nhìn Kinderman. ” Đứa bé trông như đã chết trong bụng mẹ. Ông hẳn đã được nghe nói về thành kiến trước đây của giáo hội Công giáo Âu châu đối với các bà mụ rồi chứ ? Vâng, thành kiến đó bắt đầu từ sự kiện đó.”
” Thật hãi hùng.”
” Thế kỷ này đã không chặn đứng được thói điên loạn. Dù sao thì… ”
” Này, xin cha chờ ột chút, chờ đã, xin cha thứ lỗi, mấy câu chuyện này, chúng được kể bởi những người đã bị tra tấn, đúng không ? Do đó, tự căn bản, chúng không có gì đáng tin cậy cho lắm. Họ ký trước những bản cung khai rồi sau đó, những kẻ hỏi cung điền vào chỗ trống theo ý muốn. Tôi muốn nói là, làm gì có những đạo luật như là luật habae corpus đâu, làm như có những trát toà kiểu như là ” Hãy Để Cho Dân Tôi Đi” đâu có thể nói như vậy. Tôi nói có đúng không ? Tôi nói đúng đấy chứ ?”
” Vâng, ông nói đúng, nhưng cũng xin thưa với ông rằng, nhiều bản cung khai đã mang tính chất tự nguyện.”
” Vậy thì kẻ nào lại tự nguyện đối với những điều kinh khiếp như thế ?”
” Chà, có thể là những kẻ rối loạn tâm thần.”
” A ha, lại thêm một nguồn tin đáng tin cậy nữa đây.”
” Vâng, đã hẳn là ông hoàn toàn đúng, thưa Trung uý. Tôi chỉ đóng vai trò luật sư của quỷ đấy thôi. Nhưng có một điều, đôi khi chúng ta có khuynh hướng hay quên, đó là những kẻ đủ điên loạn để khai ra những điều như thế thì có thể cũng điên loạn để làm những điều đó, ta có thể quan niệm như thế lắm chứ. Ví dụ như những huyền thoại về ma sói. Vâng, đúng như vậy, những điều đó thực đáng nực cười, phi lý quá, có ai lại biến mình thành chó sói được đâu. Nhưng nếu có một kẻ tâm thần rối loạn cho đến nỗi chẳng những y nghĩ mình là một con ma sói, mà lại còn hành động giống như loài lang sói thì sao đây ?”
” Kinh khủng thật, thưa cha. Điều này nghĩa lý ra làm sao ? Lý thuyết chăng hay là sự thật ?”
” Vâng, có một kẻ tên là William Stumpf, tôi xin nêu một ví dụ. Hay tên Peter gì đó. Tôi không nhớ rõ tên. Y là một người Đức sống vào thế kỷ thứ XVI, tự ình là một con ma sói. Y đã giết có lẽ phải đến hai mươi hoặc ba mươi em nhỏ.”
” Cha muốn nói là y đã khai ra điều đó chứ ?”
” Đúng vậy, nhưng tôi nghĩ là lời cung khai ấy có giá trị.”
” Làm sao biết được như thế ?”
” Thì khi người ta bắt y, y đang ăn óc hai người con dâu trẻ tuổi của y.”
Từ sân tập dã cầu, trong ánh nắng tháng Tư trong trẻo nhẹ nhàng, vọng lại âm thanh dòn dã của những tiếng chuyện trò, tiếng bóng dội lại từ chày quất.
Hai người đã ra đến bãi đậu xe, vị linh mục và nhà thám tử. Lúc này họ bước đi trong yên lặng.
Lúc họ đến bên xe tuần cảnh, Kinderman thẩn thờ với tay ra phía tay nắm cửa xe. Ông dừng lại một lúc, sau đó ngước lên nhìn Karras với ánh mắt ủ dột.
” Vậy là tôi phải đi tìm ai đây, thưa cha ?” Ông hỏi vị linh mục. ” Một người điên,” Damien Karras nhỏ nhẹ nói. ” Có lẽ một kẻ nghiện ma tuý.”
Nhà thám tử nghĩ kỹ điều đó, rồi lẳng lặng gật đầu. Ông quay sang vị linh mục. ” Cha muốn đi một cuốc xe không ?” Ông hỏi, vừa mở cánh cửa xe tuần cảnh.
” Ồ, cảm ơn, có một quảng đường ngắn thôi ấy mà.”
” Hề gì, cứ thưởng thức,” Kinderman phác cử chỉ nóng nảy, vừa ra hiệu cho Karras leo lên xe. ” Cha sẽ có dịp kháo với bạn bè là cha vừa lả lướt trên xe cảnh sát chứ sao.”
Vị linh mục Dòng Tên cười toét miệng rồi lách vào băng sau.
” Tốt lắm, tốt lắm,” nhà thám tử lầm thầm, giọng khản đặc, rồi lúng túng len người ngồi cạnh vị linh mục, xong đóng cửa lại. ” Không có một chặng đường nào là ngắn cả.” Ông ta bình luận. ” Không hề.”
Với sự chỉ dẫn của Karras, họ cho xe chạy xuống khu cư xá hiện đại của Dòng Tên toạ lạc trên phố Prospect, nơi vị linh mục vừa dọn vào chỗ ở mới. Ông cảm thấy nếu ông cứ lưu lại túp nhà nhỏ kia, ông sẽ không thể nào tránh được những kẻ ông đã từng khuyên bảo còn tiếp tục đến tìm sự giúp đỡ chuyên môn của ông nữa.
” Cha thích điện ảnh chứ, thưa cha Karras ?”
” Rất thích.”
” Cha đã xem phim Lear chưa ?”
” Không đủ khả năng.”
” Tôi xem rồi.Tôi có thẻ vào cửa.” ” Thế thì tuyệt quá.”
” Tôi có thẻ vào cửa để xem những phim hay nhất. Thế mà bà K. nhà tôi lại cứ mệt hoài, chả bao giờ thích đi xem.”
” Thật đáng tiếc.”
” Đáng tiếc thật ấy chứ, đúng thế đấy, tôi chúa ghét đi xem phim một mình. Cha biết đấy, tôi thích nói chuyện phim ảnh, thảo luận, phê bình.” Ông ta nhìn đăm đăm qua cửa sổ, tia mắt ngoảnh đi không ngó vị linh mục.
Karras lẳng lặng gật đầu, mắt nhìn xuống đôi bàn tay to lớn và thật mạnh mẽ của mình. Hai bàn tay chắp trên đùi. Một khoảnh khắc trôi qua. Sau đó Kinderman lưỡng lự quay lại với vẻ mong ngóng. ” Lúc nào có dịp mời cha đi xem phim với tôi, cha nhé ! Xem miễn phí… Tôi có thẻ vào cửa mà.” Ông vội nói thêm.
Vị linh mục nhìn ông, cười toét miệng. ” Giống như cách Elwood P. Dowd hay nói trong phim Harvey, thưa Trung uý, khi nào ?” ” Ồ, tôi sẽ gọi điện thoại cho cha mà, tôi sẽ gọi mà.” Nhà thám tử mặt mày rạng rỡ, xởi lởi.
Họ đã đến khu cư xá và đỗ xe lại. Karras đặt tay trên cửa xe, khẽ mở đánh “kịch” một tiếng. ” Xin ông cứ gọi cho tôi. Thật tôi rất lấy làm tiếc đã không giúp gì được cho ông mấy.”
” Hề gì đâu, cha đã giúp ích rất nhiều.” Kinderman vẫy tay, vẻ ỉu xìu. Karras bước xuống xe. ” Nói thật mà nghe, nếu xét như một người Do Thái đang cố vượt qua cuộc thi, thì cha là một người rất dễ mến.”
Karras quay lại, đóng cửa, nghiêng người xuống cửa sổ xe với một nụ cười nhiệt thành phảng phất. ” Thiên hạ có bao giờ bảo ông là ông trông giống tài tử Paul Newman không ?”
” Bảo hoài ấy chứ. Và cha cứ tin tôi đi, bên trong cái thân xác này, chàng Newman không ngừng phấn đấu để thoát ra ngoài, chứ ở trong đó chật chội quá,” ông bảo. ” Còn có cả Clark Gable nữa chứ.”
Karras tươi cười vẫy tay rồi bước đi.
” Này cha, hượm đã!”
Karras quay lại, nhà thám tử đang chen người ra khỏi xe.
” Này thưa cha, tôi quên khuấy đi mất,” ông ta thở hào hển, vừa tiến lại gần vị linh mục. ” Thật trí óc cứ mụ mẩm cả. Cha biết đấy chứ, cái tấm thẻ có viết những chữ nghĩa dơ dái ấy ? Cái tấm người ta tìm thấy trong nhà thờ ấy ?”
” Ông muốn nói đến tấm thẻ trên bàn thờ phải không ?”
” Bất cứ. Nó vẫn còn quanh quẩn ở đâu đây đấy chứ ?”
” Vâng, tôi vẫn còn giữ nó trong phòng. Tôi đang thẩm định văn thể La tinh trên đó. Ông muốn xem chứ ?”
” Vâng, có lẽ nó sẽ tiết lộ đôi điều. Có lẽ vậy.”
” Đợi một giây, tôi đi lấy ngay.”
Trong lúc Kinderman đợi bên ngoài cạnh xe tuần cảnh, vị linh mục Dòng Tên đi đến phòng riêng của ông ở tầng trệt, nhìn ra phố Prospect, tìm thấy tấm thẻ kia. Ông vòng trở ra, trao thẻ cho Kinderman.
” Có lẽ còn vài vết dấu tay,” Kinderman nói, giọng khò khè, lúc ông xem xét tấm thẻ. Thế rồi, ” không, hượm đã, cha đã cầm tới cầm lui tấm thẻ này rồi,” có vẻ như ông đã nhanh chóng nhận ra điều ấy. ” Suy luận khá đấy chứ, hở cha ?” Ông đang lúng túng, bận bịu với lớp nhựa plastic bọc ngoài tấm thẻ. ” Ồ, không được, hượm đã, được rồi, nó bong ra rồi, ra rồi.”
Rồi ông ngước nhìn Karras với nỗi thất vọng chớm nở. ” Mà cha cũng đã cầm vào cả bên trong luôn rồi, phải không Kirk Douglas ?”
Karras cười tóet miệng, vẻ trầm ngâm, gật đầu.
” Không sao, có lẽ ta vẫn còn tìm được một điều gì khác không chừng. À mà, cha đã nghiên cứu nó chưa ?”
” Rồi, tôi đã.”
” Kết luận ra sao ?”
Karras nhún vai. ” Không có vẻ gì là công trình của một kẻ đùa dai cả. Thoạt tiên, tôi nghĩ có lẽ là một sinh viên. Nhưng tôi nghi lắm. Bất cứ ai đã làm điều này phải là kẻ tâm thần bị rối loạn khá sâu sắc.”
” Như cha đã nói rồi.”
” Còn thứ tiếng La tinh đó… ” Karras trầm tư. ” Chẳng những nó không chút khuyết điểm, thưa Trung uý, mà nó – chà – nó còn có một văn phong rõ rệt hết sức độc đáo. Có vẻ những kẻ viết ra nó đã quen suy nghĩ bằng tiếng La tinh vậy.”
” Các linh mục có vậy không ?”
” Thôi nào.”
” Xin trả lời thẳng vào câu hỏi cho, thưa đức Cha Hoang Tưởng ?” ” Được rồi, ở một thời điểm trong quá trình huấn luyện các linh mục, quả là họ có như vậy thật. Ít nhất là trong trường hợp các Cha Dòng Tên và một số các Dòng khác. Tại Chủng viện Woodstock, một số khoá triết học được giảng dạy bằng tiếng La tinh.”
” Sao vậy ?”
” Để cho tư tưởng được chính xác. Giống như trong luật học vậy.”
” À, tôi hiểu.”
Karras chợt có vẻ hăng say, nghiêm túc hẳn. ” Này, trung uý, tôi có thể bảo cho ông biết là tôi thật sự nghĩ ai là thủ phạm của vụ này không ?”
Nhà thám tử nghiêng sát người lại. ” Không, ai vậy ?”
” Bọn Dominicains đấy. Đi mà lùng sục họ đi.”
Karras mỉm cười vẫy, tay chào rồi bước đi.
” Hồi nãy tôi nói dối đó,” nhà thám tử gọi với theo ông, sưng sỉa mặt mày. ” Cha giống hệt như Sal Mineo cơ !”
Kinderman nhìn lúc vị linh mục đưa tay vẫy chào một lần nữa và bước vào khu cư xá, rồi ông quay lại, leo lên xe tuần cảnh. Ông thở khò khè, ngồi bất động, nhìn xuống sàn xe. ” Ông ta cứ lúng ba lúng búng, lúng ba lúng búng,” ông thì thầm. ” Giống y như một âm thoa chìm dưới nước.” Thêm một lúc nữa, ông cứ đăm đăm trong dáng vẻ đó. Rồi ông quay lại bảo tài xế. ” Được rồi, ta về sở đi. Nhanh lên, bất chấp luật lệ.”
Chiếc xe lao vút đi. ° ° °
Căn phòng mới của Karras đồ đạc rất đơn sơ, một giường chiếc, một ghế dựa, một bàn làm việc và kệ sách xây chìm vào tường. Trên bàn giấy là một bức ảnh cũ của mẹ ông, và như một lời thống trách câm lặng treo trên tường ở đầu giường là một chiếc thập tự giá bằng kim loại. Căn phòng chật hẹp đó đối với ông đã đủ là một thế giới. Ông không màng tới của cải riêng tư, có điều những thứ ông có đều sạch sẽ tinh khiết.
Ông tắm vòi sen, kỳ cọ qua quít, mặc vội chiếc quần kaki và chiếc áo thun, rồi thong thả đi dùng bữa tối ở nhà ăn của các linh mục. Ở nhà ăn ông nhận ra cha Dyer, với đôi má hồng đang ngồi một mình ở một chiếc bàn trong góc. Ông đến với ông ta.
” Chào, Damien,” Dyer lên tiếng. Vị linh mục trẻ vận một chiếc áo thun thể thao dài tay.
Karras cúi đầu đứng bên một chiếc ghế, lầm thầm đọc kinh rõ nhanh. Sau đó, ông làm dấu thánh giá, ngồi xuống chào bạn.
” Thế nào chàng lang thang ?” Dyer hỏi lúc Karras trải chiếc khăn ăn lên lòng. ” Ai lang thang ? Tôi đang làm việc đấy nhé.”
” Mỗi tuần có một buổi diễn giảng thôi ấy à ?”
” Quý hồ tinh bất quý hồ đa, đáng kể là vấn đề chất lượng.” Karras nói. ” Sao, bữa ăn có gì đây ?”
” Cha không ngửi thấy à ?”
” À, cứt thật, lại một ngày của chó chăng ?” Có mùi xúc xích và dưa bắp cải.
” Đáng kể là vấn đề số lượng chứ.” Dyer ung dung đáp.
Karras lắc đầu, đưa tay với lấy bình sữa bằng nhôm.
” Tôi không uống thứ đó đâu.” Dyer lẩm bẩm, mặt không một nét cảm xúc, vừa phết bơ lên lát bánh mì làm toàn bằng bột mì. ” Có thấy sủi dầy bọt đấy không ? Tiêu thạch đấy ?” ” Tôi lại cần chất ấy,” Karras bảo. Lúc ông lật ngửa chiếc ly ra để rót sữa vào, ông nghe có tiếng người đến gần bàn họ. ” Chà, rốt cuộc tôi đã đọc xong cuốn sách ấy rồi,” người mới đến nói, mặt tươi hơn hớn.
Karras ngước lên nhìn và cảm thấy thất vọng ê chề, cảm thấy một sức nặng êm ái đè bẹp ngấu nghiến khi ông nhận ra vị linh mục dạo gần đây mới đến với ông để xin lời khuyên, vị linh mục không có khả năng kết bạn đó.
” Ồ, thế cha có ý kiến ra sao ?” Karras hỏi. Ông đặt bình sữa xuống, cứ như thể nó là một tập cẩm nang trong một tuần kinh nguyện dang dở.
Vị linh mục trẻ chuyện trò, và nữa giờ sau đó, Dyer phá lên cười run cả bàn, làm nhộn cả phòng ăn. Karras xem đồng hồ. ” Có muốn khoắng một chiếc áo vét không ?” Ông hỏi người linh mục trẻ. ” Ta có thể băng qua đường ngắm cảnh hoàng hôn.”
Chẳng mấy chốc, họ đã tựa người lên tay vịn ở đầu bậc cấp dẫn xuống dãy phố M. Ngày đã tàn. Nhưng tia sáng mượt mà của mặt trời lặn bùng cháy huy hoàng trên các tầng mây ở chân trời phía tây rồi vỡ thành những đốm đỏ thẩm lăn tăn trên mặt nước sông đang dần tối. Có dạo Karras đã gặp Chúa trong cảnh tượng này. Xa xưa lắm rồi. Giống như một người bị tình phụ, ông vẫn y hẹn.
” Thật là một cảnh tượng !” Vị linh mục trẻ thốt lên.
” Phải, đúng như vậy,” Karras biểu đồng tình. ” Đêm nào tôi cũng cố gắng ra ngoài này.” Chuông đồng hồ Viện Đại học đang dõng dạc gõ giờ. Đúng 7 giờ tối.
Hồi 7 giờ 23 phút, Trung uý Kinderman đang suy nghĩ về bản phân tích quang phổ ký cho thấy chất sơn trên bức tượng chim của Regan khớp với chất sơn cạo được từ bức tượng Trinh nữ Marie bị xúc phạm.
Vào hồi 8 giờ 47 phút, trong một xóm nhà ổ chuột ở tiểu khu Đông Bắc thành phố, một chàng Karl Engstrom trầm mặc trở ra từ một ngôi nhà tập thể nhung nhúc chuột bọ; đi bộ ba dãy phố về hướng Nam đến một trạm xe buýt, đứng đợi một mình trong một phút đồng hồ, mặt đờ đẫn, sau đó quỵ người xuống, khóc nức nở bên một trụ đèn.
Cũng vào lúc đó, Trung uý Kinderman đang ở trong rạp chiếu bóng.