Đọc truyện Quán Trọ Hoang Thôn – Chương 14
NGÀY THỨ MƯỜI LĂM
Dãy hành lang bệnh viện thần kinh nồng nặc một mùi rất đặc biệt, ánh nắng chiếu rọi vào phòng từ một bên cửa sổ, không giống như không khí mà tôi từng tưởng tượng. Nhưng một nam y tá cường tráng đi lướt qua đã khiến tôi hiểu rằng đây một nơi rất đặc biệt.
Tôi nhẹ nhàng đẩy cửa một buồng bệnh nhân, một thiếu nữ đang cuộn tròn lại dưới ánh nắng ấm áp, tên của cô ấy là Xuân Vũ.
Tối hôm qua, Diệp Tiêu kể rằng Xuân Vũ đã được tìm thấy và được đưa tới bệnh viện. Vậy là tôi liền quyết định đến thăm cô ấy, bất luận là vì đồng cảm hay là trách nhiệm, cũng bất luận cô ấy là có điên thật hay không.
Ban nãy bác sĩ nói với tôi, hôm qua lúc Xuân Vũ được đưa vào bệnh viện, thần kinh không minh mẫn, hỏi gì cô ấy cũng không trả lời được, miệng lẩm bẩm không hiểu nói những gì, khả năng bị hoảng sợ cao độ tới mức bị thần kinh phân liệt rồi. Bác sĩ không hi vọng tôi có thể hỏi được gì từ cô ấy, ông cho rằng khả năng Xuân Vũ phải trải qua một đợt điều trị kéo dài mới có thể hồi phục lại.
Lúc này, Xuân Vũ chầm chậm ngẩng đầu lên, cô ấy nhìn chằm chằm vào mắt tôi giống một con cừu trước khi bị kết liễu, cảm giác tuyệt vọng và bất lực. Trái tim tôi run rẩy, lẽ nào tôi đáng sợ vậy sao? Nhưng, nếu như không có “Hoang thôn” của tôi thì cô ấy có thể tới bước đường cùng như hiện nay không? Nghĩ tới đây, tôi cúi đầu im lặng.
Ngoài sức tưởng tượng của tôi, Xuân Vũ là người mở miệng trước: “Anh rốt cuộc tới rồi.”
“Cô biết tôi sẽ đến sao? Hay là cứ thế ngồi đợi tôi xuất hiện?”
“Đúng, tôi biết anh nhất định sẽ tới tìm tôi. Nói đi, có phải cả ba người họ đều đã chết rồi không?”
Kì lạ, không phải bác sĩ nói cô ấy điên rồi sao? Nhưng giọng điệu cô ấy lúc này rất bình tĩnh còn thần sắc và biểu cảm cũng rất bình thường, nhìn không ra bất cứ dấu hiệu tâm thần nào.
Đối diện với câu hỏi của cô ấy, tôi cũng có chút ngần ngại, nếu nói ra tin Tô Thiên Bình đã chết thì có kích động tới cô ấy không? Tôi đành phải gượng cười nói: “Cô đừng lo lắng quá, cô ở đây rất an toàn.”
“Thôi đi, tôi biết đây là đâu.” Giọng điệu của cô ấy già dặn hơn rất nhiều, hình như không còn là một nữ sinh nhỏ nhắn nữa. “Anh nhất định là đến hỏi tôi, đã xảy ra chuyện gì ở Hoang thôn đúng không?”
“Có lẽ là thế, nhưng tôi đã biết được chút ít rồi.”
“Là Tô Thiên Bình kể cho anh?”
“Đúng, tôi và cậu ta đã nói chuyện với nhau.”
Nhưng Xuân Vũ lắc lắc đầu nói: “Anh vẫn còn chưa biết một số chuyện đâu.”
“Là chuyện gì?”
Ánh mắt của cô ấy đột nhiên có chút hoảng loạn, khựng lại một hồi mới thốt ra: “Miệng giếng đó…”
“Giếng?”
Nhịp tim tôi lập tức loạn nhịp.
“Đúng thế, sau sân Tiến Sĩ Đệ có một chiếc giếng, về bí mật của chiếc giếng.” Xuân Vũ bắt đầu thở dốc, cô ấy vuốt tóc trên trán nói. “Trước hôm rời khỏi Hoang thôn, Tô Thiên Bình và Hàn Tiểu Phong đều ở lại trong Tiến Sĩ Đệ, nhưng tôi và Hoắc Cường lại ra ngoài đi loanh quanh, tôi hỏi thăm một ông cụ trong thôn, nghe nói cụ ấy là người cao tuổi nhất ở Hoang thôn rất quen thuộc và nắm rõ các truyền thuyết về Hoang thôn.”
“Các bạn đã tìm thấy cụ già đó rồi?”
“Đúng vậy, cụ già này râu tóc bạc phơ, râu để dài cả chòm, ít nhất cũng phải ngoài tám mươi tuổi rồi. Cụ giống hệt những dân thôn ở Hoang thôn, ánh mắt cụ nhìn chúng tôi rất kì quái, sau đó kể cho chúng tôi nghe về câu chuyện thế vợ…”
“Thế vợ?”
“Anh hiểu ý nghĩa của thế vợ?”
“Ừ, tôi biết, kể tiếp đi.”
“Những năm đầu Dân quốc, gia đình Âu Dương ở Hoang thôn rất giàu có, nhưng lão gia Âu Dương bao năm vẫn chưa có con nên đã bỏ tiền ra thuê một người đàn bà nghèo về làm vợ thế. Sau đó, vợ thế đẻ cho ông ta một cậu con trai, nhưng cô ta luôn muốn bỏ trốn khỏi Tiến Sĩ Đệ để gặp lại người chồng và con trai trước đây. Lão gia nhốt cô vào hậu viên. Rốt cuộc tới một ngày, vợ thế bỏ trốn khỏi Tiến Sĩ Đệ chuẩn bị cao chạy xa bay, nhưng lại bị gia đình Âu Dương bắt lại, lão gia quyết định trừng phạt cô bằng thủ đoạn cay nghiệt.”
“Dìm giếng…”
Tôi chậm rãi thốt ra hai từ này.
Xuân Vũ tỏ ra rất bất ngờ: “Anh biết câu chuyện này?”
“Đúng thế, vợ thế bị dìm xuống giếng. Từ đó trở đi, không ai dám tới hậu viên nữa.”
Đột nhiên, tôi nhớ tới Tiểu Sảnh, cô ấy đã từng kể cho tôi câu chuyện này, rõ ràng câu chuyện này là có thật.
Xuân Vũ tiếp tục nói: “Nhưng anh nhất định không biết, ông cụ kể chuyện cho chúng tôi chính là con trai của vợ thế đó.”
“Con trai của vợ thế?”
“Là con trai với chồng trước, trước khi vợ thế vào nhà Âu Dương. Ông cụ nói ông rất hận gia đình Âu Dương, thực ra tất cả mọi người ở Hoang thôn đều không thích Tiến Sĩ Đệ. Sau năm 1949, gia đình Âu Dương lụi bại thì càng không có ai để ý tới gia đình họ, gia tộc này giống như cô hồn ma dại trấn giữ ngôi nhà cổ, nhân khẩu càng ngày càng khan hiếm, bây giờ xem ra triệt để tuyệt hậu rồi.”
Tôi thở dài: “Chắc đây chính là báo ứng.”
Xuân Vũ gật gật đầu, cô ấy nói chuyện đã bắt đầu có chút khó khăn: “Ngoài ra… ông cụ còn nói Hoang thôn cổ đại là một… làng phong.”
“Làng phong?”
Cái này là lần đầu tiên tôi nghe thấy. Thậm chí trong truyện “Hoang thôn” của tôi còn nói là người dân Hoang thôn chính là di dân phương bắc tới từ thời Tĩnh Khang đời Tống, hoàn toàn vượt ra khỏi sự hư cấu của tôi.
“Đúng thế, thời xưa những bệnh nhân phong rất bị kì thị, họ bị đuổi ra khỏi nhà, lang thang tứ phương thật đáng thương. Rất nhiều bệnh nhân phong vì sinh tồn đã tụ họp nhau lại, trèo đèo lội suối đi đường trường tới mảnh đất hoang vắng cạnh biển này và đặt tên cho nó là Hoang thôn. Nhưng, trước khi họ tới đây thì đã có một gia tộc đời đời định cư tại đây, đó chính là gia tộc Âu Dương.”
“Gia tộc Âu Dương sống cùng những người bệnh phong và cùng nhau tập hợp thành Hoang thôn?”
“Nhưng không biết tại sao, gia đình Âu Dương không có một ai bị mắc bệnh phong. Còn những bệnh nhân phong từ nơi khác tới đa số đều sống thọ, hơn nữa còn sinh con đẻ cái, nối dõi tông đường, trải qua sự phát triển phồn thịnh của mười mấy đời người, bệnh phong đã dần dần biến mất khỏi Hoang thôn.”
“Thật là không thể tin được, bệnh phong thời xưa được nhận định là tuyệt chứng, không ai có thể chữa được căn bệnh này.”
“Thực sự như thế, thế nên mấy trăm năm sau, rất ít người cả gan tiến vào Hoang thôn.”
“Đây cũng là nguyên nhân mà Hoang thôn bảo thủ và cách biệt với thế giới bên ngoài, đúng không?”
“Đúng, nhưng không chỉ có những điều đó.” Đột nhiên, ánh mắt Xuân Vũ biến thành dị dạng trở lại. “Mấy trăm năm nay, Hoang thôn luôn có một truyền thuyết thế này: có một bí mật trọng đại không một ai biết được chôn giấu tại một nơi nào đó trong Hoang thôn, tất cả những người nơi khác tới Hoang thôn đều sẽ bị nguyền rủa bởi lời nguyền thần bí đó.”
Tôi bỗng dưng lạnh toát, nhìn dáng vẻ kì quái của Xuân Vũ chậm rãi nói: “Tất cả những người từ nơi khác tới đều sẽ bị nguyền rủa?”
“Không sai, không một ai thoát được.”
Câu trả lời của Xuân Vũ chắc như định đóng cột.
Nhưng vấn đề là tôi cũng là “người nơi khác tới.”
Tôi cảm giác mình như bị cái gì đó bắn trúng, bất giác sững lại, cúi đầu trong vô thức, chìm đắm trong suy tư.
Xuân Vũ giống như trúng tà, miệng lẩm bẩm lải nhải mãi một câu: “Không một ai thoát được… Không một ai thoát được… Không một ai thoát được…”
Thật không thể tin nổi, trông cô ấy lúc này chẳng khác gì phù thủy còn câu nói trong miệng cô giống lời nguyền cổ xưa, văng vẳng mãi bên tai tôi không dứt. Tôi căng thẳng nhìn mặt cô ấy, lớn tiếng nói: “Xuân Vũ, cô sao thế, tỉnh dậy mau.”
“Không một ai thoát được… Không một ai thoát được… Không một ai thoát được”
Cô ấy dường như biến thành một con người khác, đôi mắt vô thần nhìn về phía trước, đầu thì lắc lư theo miệng, tần số lắc càng lúc càng nhanh khiến tôi cũng chóng cả mặt, tôi vội vàng hét lên gọi y tá.
Lúc này, theo nhịp lắc điên loạn của Xuân Vũ, một vật đeo lúc lắc được giấu trong lòng cô rơi ra. Phút chốc, mắt tôi như bị vật gì đó đâm thấu, vật đó chính là một chiếc nhẫn ngọc.
Tôi không buồn để ý tới Xuân Vũ đang phát điên, mắt nhìn chằm chằm vào chiếc nhẫn đeo trước ngực cô ấy, nó phát ra một thứ ánh sáng kì lạ, khiến mắt tôi cũng dao động theo nó.
Nam y tá cường tráng xông lên, vất vả lắm mới khống chế được Xuân Vũ, sau đó một y tá khác tiêm cho cô ấy. Trong quá trình Xuân Vũ giãy giụa giằng co, sợi dây trên cổ cô ấy đứt ra, chiếc nhẫn rơi ra đất. Tôi lập tức cúi người nhặt chiếc nhẫn ngọc lên, lùi sang một bên nhìn Xuân Vũ.
Khoảng mười phút sau, các y tá rời khỏi phòng. Xuân Vũ rốt cuộc đã phục hồi trấn tĩnh, vẻ mặt mệt mỏi nhìn tôi.
Tôi lắc lắc chiếc nhẫn trước mặt cô ấy nói: “Xin lỗi, đồ của cô rơi rồi.”
Xuân Vũ nhíu mắt nhìn chiếc nhẫn một lúc: “Không, đây không phải là đồ của tôi, anh cầm lấy đi.”
“Thế nó là của ai?”
Cô ấy trả lời bằng một giọng kì dị và buồn rầu: “Nó thuộc về Hoang thôn.”
“Hoang thôn?”
Tôi lại tỉ mẩn nhìn chiếc nhẫn ngọc, nó dày dặn hơn những chiếc nhẫn thông thường, chủ yếu là một nửa màu xanh non trong suốt, nhưng phía bên cạnh của chiếc nhẫn lại có màu đỏ đun rất kì lạ.
Phút chốc, tay tôi như bị điện giật, trong đầu hồi tưởng lại những câu hỏi của Tô Thiên Bình. Đúng, ở Hoang thôn họ đã xâm nhập vào một cung điện bí ẩn dưới lòng đất, ở tầng dưới cùng của địa cung, họ đã phát hiện ra một chiếc rương ngọc, bên trong có đựng một chiếc nhẫn ngọc.
Chính là chiếc nhẫn này, giống hệt như Tô Thiên Bình đã miêu tả.
Đột nhiên, tôi nhìn Xuân Vũ chằm chằm nói: “Chiếc nhẫn ngọc này đúng ra là của mật thất dưới lòng đất tại Hoang thôn?”
Cô ta xem ra có chút sợ hãi, lập tức gật gật đầu.
“Lúc đó, đèn pin của Hoắc Cường bị rơi hỏng, thế nên cô nhân cơ hội bóng tối, trộm chiếc nhẫn này từ mật thất ra?”
“Đúng thế, anh cầm lấy nó đi.” Xuân Vũ run rẩy nói, đôi mắt quả rất lạnh lùng.
Lúc này, các y tá đột nhiên đi vào, họ dìu Xuân Vũ để đưa cô ấy tới khu nằm viện.
Xuân Vũ rất phục tùng đi theo, nhưng khi cô ấy bước tới cửa, giống như vừa đột nhiên nhớ ra gì đó, quay đầu lại nói với tôi: “Còn có một tấm ảnh…”
“Ảnh gì?”
Tôi lập tức lao bổ về phía cô ấy, các y tá tóm lấy tay cô kéo ra ngoài. Xuân Vũ dùng tay còn lại bám chặt vào thành cửa, hấp tấp nói: “Một bức ảnh về Hoang thôn, bị Hàn Tiểu Phong lấy đi rồi.”
Tôi chưa kịp trả lời thì Xuân Vũ đã bị các y tá kéo ra ngoài hành lang, cô ấy chống cự quay đầu lại nhìn tôi toát ra vẻ biểu cảm vô cùng kì lạ, chẳng mấy chốc đã mất hút khỏi tầm mắt.
Tôi một mình đứng trước cửa, hồi tưởng lại câu nói cuối cùng của Xuân Vũ, toàn thân như bị cái gì đó đông cứng lại.
Lúc này, chiếc nhẫn ngọc nhỏ bé đang nắm chặt trong lòng bàn tay tôi.
Từ từ mở lòng bàn tay ra, vài giọt mồ hôi đang đọng trên chiếc nhẫn, tôi nhẹ nhàng lau những giọt mồ hôi này, cảm giác giống như vừa mò được vàng dưới nước lên. Bỗng nhiên, tôi hành động theo bản năng vô thức, đeo chiếc nhẫn lên ngón tay mình, đúng lúc tôi đang thử đeo nó vào thì chuông điện thoại của tôi đột ngột vang lên.
Tôi bỗng khựng lại, nhét chiếc nhẫn vào trong túi áo trước đã rồi nghe điện thoại sau.
Một giọng nữ như nam châm vang lên trong điện thoại: “Alô, tôi là Nhiếp Tiểu Sảnh.”
Là cô ta? Mấy hôm không gặp, tự dưng nghe thấy giọng cô ta trong lòng tôi bỗng có cảm giác thật khó nói thành lời, tôi ngốc nghếch hỏi: “Cô ở đâu?”
“Tôi đang ở hiệu sách dưới ga tàu điện ngầm lần trước gặp anh, thế anh ở đâu?”
“Bệnh viện tâm thần.”
“Trời ơi? Họ nhốt anh vào trong đấy rồi sao?”
Chắc hẳn là ai nghe thấy câu trả lời này cũng đều ngã vật ra mất thôi. Tôi cũng cười thầm nói: “Xin lỗi, ban nãy tôi không nói rõ, tôi tới bệnh viện tâm thần thăm một bệnh nhân.”
“Ô, chỗ đó không thể tùy tiện tới được.”
Lúc này tôi thử hỏi thăm dò: “Chúng ta bây giờ có thể nói chuyện không?”
“Được chứ, tôi đợi anh ở hiệu sách, nhưng mà anh phải nhanh lên đấy, nếu không tôi không đợi được là đi đấy.”
“Được.”
Sau khi kết thúc cuộc gọi, tôi lập tức chạy khỏi căn phòng này, chỉ để lại tiếng bước chân gấp gáp vọng lại trong dãy hành lang bệnh viện tâm thần.
Sau khi rời khỏi bệnh viện tâm thần, tôi chỉ mất hai mươi phút là đã tới hiệu sách dưới ga tàu điện ngầm.
Lúc tôi thở phì phò bước vào hiệu sách, đi dọc theo từng kệ sách tìm kiếm bóng dáng của Tiểu Sảnh thì đột nhiên nghe thấy một giọng nói nhỏ nhẹ phía sau: “Anh đến muộn rồi.”
Tôi thở một hơi dài, quay đầu lại quả nhiên thấy Tiểu Sảnh, cô ấy mặc một chiếc váy đen, cột tóc đuôi ngựa, xem ra lại không giống lần trước gặp.
“Anh đến bệnh viện tâm thần thăm ai?” Cô ta ra bộ kì quái hỏi tôi.
“Xuân Vũ.”
“Nữ sinh đã từng tới Hoang thôn?”
“Cô ấy điên rồi.”
Sắc mặt Tiểu Sảnh trở nên nghiêm nghị: “Tại sao?”
“Không biết, bốn sinh viên tới Hoang thôn sau khi trở về Thượng Hải liên tiếp chết mất hai người. Một nam sinh còn lại cũng mất tích, bây giờ không rõ sống chết ra sao. Còn Xuân Vũ thì lại phát điên, bị nhốt trong bệnh viện tâm thần.”
“Đúng là một cơn ác mộng.”
“Không sai, chính là ác mộng.” Tôi nhẹ nhàng thở dài, dường như bên tai lại vang lên giọng nói của Xuân Vũ. “Lúc nãy ở trong bệnh viện tâm thần, Xuân Vũ kể cho tôi nghe một câu chuyện về Hoang thôn, câu chuyện về vợ thế và miệng giếng, không sai, câu chuyện mà cô ấy nghe kể ở Hoang thôn giống hệt như câu chuyện mà cô đã từng kể cho tôi nghe.”
Tiểu Sảnh gật đầu, tự tin nói: “Bây giờ chắc anh đã tin tôi rồi chứ?”
“Được thôi, tôi tin cô. Xuân Vũ còn nói với tôi, Hoang thôn còn cất giấu một bí mật mà không một ai biết, tất cả những người từ nơi khác tới đều sẽ bị bí mật này nguyền rủa.” Tôi nhìn thẳng vào mắt Tiểu Sảnh hỏi: “Tiểu Sảnh, cái này có thật không?”
Cô ấy hình như có chút sợ hãi, lảng tránh ánh mắt tôi: “Tôi không biết… không biết… Xin lỗi, tôi bất giác có chút lo sợ trong lòng.”
Tôi cúi đầu hỏi: “Sao thế? Có khó chịu trong người?”
“Không, không. Anh đừng có đoán linh tinh.” Cô ta như đinh đóng cột ngắt lời tôi.
“Được rồi, tôi sẽ không hỏi tiếp nữa, cô về sớm nghĩ ngơi đi.”
Vừa nói chúng tôi vừa bước tới cửa hiệu sách, cô ta nhẹ nhàng hỏi: “Thế anh đi đâu?”
“Tôi bây giờ ngồi tàu điện ngầm tới trường của Xuân Vũ.”
Tiểu Sảnh dường như lại nổi hứng: “Tới đó làm gì?”
“Có một bức ảnh liên quan tới Hoang thôn, ban nãy nghe Xuân Vũ nói, bức ảnh đó đã bị Hàn Tiểu Phong lấy đi.”
“Vậy thì chúng ta đi thôi.”
Cô ta vừa nói vừa tiến về phía trước, tôi chút mông lung: “Đi? Đi đâu?”
“Đến trường học, không phải anh nói muốn đi tìm bức ảnh đó sao? Tôi đi cùng anh.”
Câu trả lời này khiến tôi chẳng biết phải làm thế nào, tôi hơi bối rối nói: “Cô đi làm gì? Việc này không liên quan gì tới cô.”
“Chỉ cần liên quan tới Hoang thôn, tôi nhất định phải tham gia, đi nào…”
Tiểu Sảnh kéo tôi tới cửa soát vé, tôi ngây ra hỏi: “Thế có hôm nay không tới làm ở cửa hàng kem sao?”
“Phải chăng cũng chỉ là làm thêm, thỉnh thoảng không đi một hôm cũng chẳng sao.”
Đang nói chuyện thì cô ấy đã đi xuyên qua cửa soát vé, quay đầu lại nói với tôi: “Anh rốt cuộc có đi không, nếu không thì để một mình tôi đi.”
Vậy là tôi đành phải miễn cưỡng đi theo và đi cùng cô ta tới thềm ga.
Nhân lúc đợi tàu, tôi đột nhiên hỏi nhỏ: “Cô có hối hận không?”
Cô ta lạnh lùng trả lời: “Không, người hối hận là anh.”
Tàu kéo còi vào ga, chúng tôi vội vàng bước vào bên trong rồi bỗng nhiên im lặng, mặc cho toa tàu đang chở chúng tôi xuyên như bay qua đường hầm.
Cả đường đi tôi không nói câu nào, chỉ nhìn trân trân ra ngoài cửa sổ, trong đường hầm tối thui, mặt chúng tôi hiện lên trên cửa kính toa tàu, tôi cảm thấy cô ta đang nhìn mình chằm chằm, nhưng tôi lại không nhìn rõ đôi mắt cô ấy, giống như đang nhìn vào một tấm gương tù mù còn phía sau gương vẫn đang có một người nấp ở đó.
Sau hơn hai mươi phút, chúng tôi mới trở lại mặt đất, tới trường đại học của Xuân Vũ và các bạn của cô ta.
Khi tôi tìm thấy phòng kí túc xác của Hàn Tiểu Phong, muốn xem xem những thứ cô ấy để lại, một giáo viên đã ngăn chúng tôi lại, chắc là cái chết của Hoắc Cường và Hàn Tiểu Phong đã khiến nhà trường vô cùng căng thẳng, không dám để nhiều người biết.
Không còn cách nào khác, tôi đành phải bốc phét, nói mình là họ hàng của Hàn Tiểu Phong, muốn đem những di vật của cô ấy đi. Nhưng giáo viên nói di vật của Hàn Tiểu Phong đã được thu dọn lại và đã đưa trả cho người nhà của cô ấy.
Tôi và Tiểu Sảnh thất vọng ra khỏi kí túc xá nữ, bỗng nhiên một vài nữ sinh đi tới, trên tay đang cầm cuốn tạp chí “Chồi non.” Tôi mặt dày vội vàng gọi họ lại, nói với họ mình là tác giả của truyện ngắn “Hoang thôn,” tôi muốn hỏi thăm tình hình của Hàn Tiểu Phong.
Không ngờ họ đều rất thích truyện ngắn “Hoang thôn,” lập tức vây lấy tôi nói rất nhiều, để mặc Tiểu Sảnh đứng bên cạnh. Sau đó, khi tôi hỏi tới Hàn Tiểu Phong, bọn họ đều bắt đầu sợ hãi, không ai dám nói tiếp.
Nhưng tới khi tôi chuẩn bị bỏ đi, một nữ sinh đột nhiên gọi giật lại: “Tôi nhớ ra rồi, Hàn Tiểu Phong vẫn còn một chiếc hòm chứa đồ, tôi đưa anh đi nhé.”
Tôi và Tiểu Sảnh đi theo nữ sinh này rời khỏi khu kí túc, tiến vào tiền sảnh của một tòa nhà. Bên một dãy hành lang rộng thênh thang có kê rất nhiều hòm chứa đồ, to gần bằng hòm thư. Nữ sinh này nhìn cái là đã nhận ra ngay chiếc hòm của Hàn Tiểu Phong bởi vì trên chiếc hòm có dán tên Hàn Tiểu Phong.
Sau đó, nữ sinh này lặng lẽ ra về.
Đối diện với cái tên Hàn Tiểu Phong, tôi ấp úng nói: “Nhưng tôi không có chìa khóa thì làm thế nào?”
Tiểu Sảnh liền thò tay ra kéo nắp chiếc hòm, nắp hòm bỗng mở ra.
Sau đó, tôi vẫn lắc đầu nói: “Sau khi Hàn Tiểu Phong chết, trường học nhất định mở qua chiếc hòm này, xem ra chúng ta sẽ không thể tìm thấy gì đâu.”
“Để tôi xem xem.”
Tiểu Sảnh thò tay vào trong chiếc hòm, nhưng chỉ mò thấy một bọc báo cũ, xem ra những vật có giá trị đều đã bị lấy đi hết rồi. Nhưng cô ấy vẫn không cam lòng, hình như đang mò được cái gì đó dưới đáy hòm, đột nhiên, cô chau mày, mò ra được một tấm ảnh từ dưới đáy hòm.
Cô ta thở hổn hển nói: “Nó bị dính vào đáy hòm.”
“Thảo nào không bị nhà trường phát hiện ra.”
Tôi nhận thấy ảnh từ tay Tiểu Sảnh, phát hiện ra đây là một tấm ảnh đen trắng, màu sắc đã ngả vàng, cầm lên tay cảm giác thô ráp, hình như rất dễ bị vỡ vụn.
Đây là bức ảnh gia đình, trong ảnh có tất cả năm người, hàng trên có một đôi vợ chồng già, xem ra cũng chừng hơn bảy mươi tuổi. Ông lão trông gầy gò, mặc áo sơ mi, để râu dài, tóc cũng để rất dài, nhìn có vẻ hoài cổ. Bà lão mặc một chiếc sườn xám, trên mặt không biết trát bao nhiêu là phấn, trắng bệch như một xác chết. Hàng sau chắc là một đôi vợ chồng trẻ, người đàn ông khoảng hai bảy hai tám tuổi, mặc một bộ lê phẳng phiu, phong độ lịch lãm, giống hệt như thiếu gia trong “Kim phấn thế gia.” Người phụ nữ chỉ khoảng ngoài hai mươi tuổi, trong lòng đang ôm một đứa trẻ sơ sinh còn quấn tã, cô ta mặc chiếc sườn xám ngắn tay rất thịnh hành thời Dân quốc để lộ ra đôi cánh tay trắng nõn nà, khuôn mặt thanh tú, ánh mắt hơi đượm buồn, không giống như dáng vẻ của một người phụ nữ đủ đầy.
Tiểu Sảnh và tôi nhìn đần cả người ra, dường như nhân vật trong tấm ảnh này cũng đều đang nhìn chúng tôi bằng một ánh mắt đầy sức sống, đặc biệt là người phụ nữ trẻ đang ôm đứa bé sơ sinh, ánh mắt kì quái của cô ta dường như xuyên thấu tấm ảnh cũ kĩ. Tôi không kìm chế được tự lẩm bẩm: “Kì quái, sao lại có cảm giác này chứ?”
Tỉ mẩn xem bối cảnh trong bức ảnh, dường như là một phòng khách rộng rãi, đằng sau hình như có một chiếc đàn dương cầm, trên giường có một cái bếp lò lớn, phía bên trên còn treo vài chiếc đèn.
Có bếp lò thì nhất định là kiểu nhà tây cũ, nhưng Hoang thôn không thể có kiểu nhà như vậy được?
Bỗng nhiên, Tiểu Sảnh lật úp bức ảnh lại, tôi chợt phát hiện ra phía sau tấm ảnh có chữ, hình như được viết bằng một loại thước nhuộm màu đen nào đó.
“Chụp tại khu quán trọ Hoang thôn Thượng Hải ngày 5 tháng 4 năm Dân quốc 37.” Tôi đọc nhỏ dòng chữ này lên, đọc được một nửa thì sống lưng bỗng lạnh toát.
Tiểu Sảnh cũng mở mắt to hết cỡ, đờ đẫn nói: “Trời ơi, có lẽ chúng ta thật sự phát hiện được gì đó rồi.”
“Đợi đã, chúng ta phải trấn tĩnh lại trước đã. Năm Dân quốc 37? Chuyển đổi sang Công nguyên là năm 1948. Thời kì Dân quốc sử dụng dương lịch, ngày 5 tháng 4 dương lịch chính là tiết thanh minh.”
“Bức ảnh này chụp vào tiết thanh minh năm 1948?”
Tôi gật gật đầu, nhưng lập tức chau mày lại: “Nhưng… khu quán trọ Hoang thôn Thượng Hải rốt cuộc là chỗ nào?”
“Ít nhất cũng ở Thượng Hải mà.”
“Xuân Vũ nói rằng bức ảnh này liên quan tới Hoang thôn, chắc là không chỉ vì bốn chữ đơn giản ‘Quán trọ Hoang thôn’ này. Bức ảnh này nhất định được tìm thấy trong ngôi nhà cổ Tiến Sĩ Đệ ở Hoang thôn, sau đó đã bị Hàn Tiểu Phong lấy đi. Cô ấy đem bức ảnh về Thượng Hải rồi cẩn thận cất trong hòm đựng đồ.”
Tiểu Sảnh dường như hiểu ngay tức khắc: “Nói như vậy, năm người trong bức ảnh gia đình này nhất định là gia tộc Âu Dương?”
“Không sai, chắc là gia đình Âu Dương đã chụp ảnh cả nhà tại Thượng Hải. Thật không thể ngờ, gia đình Âu Dương ở Hoang thôn hóa ra đã từng sống tại Thượng Hải.”
“Mà lại còn có một khu quán trọ Hoang thôn ở Thượng Hải.” Tiểu Sảnh bổ sung thêm.
Tôi lại cảm thấy đau đầu, nhìn bức ảnh đen trắng này trong lòng tôi có một cảm giác quái dị không thể diễn tả bằng lời. Vậy là tôi cất bức ảnh đi, cẩn thân kẹp vào trong cuốn sổ sau đó nhét vào cặp của mình.
Cuối cùng, tôi và Tiểu Sảnh rời khỏi đây, ra khỏi trường trước khi trời tối. Tuy đã phát hiện ra bức ảnh này nhưng tâm trạng của chúng tôi vẫn trùng xuống. Có lẽ mỗi khi có một phát hiện mới thì đồng nghĩa với việc bí mật giữa Hoang thôn và chúng tôi vẫn còn có những đoạn đường gian nan hơn nữa cần phải đi tiếp.
“Quán trọ Hoang thôn” rốt cuộc ở đâu?