Đọc truyện Phượng Gáy Trời Nam – Chương 12: Ngũ Độc nương tử Công Tôn Lan
Lục Tiểu Phụng nhăn nhó cười hỏi :
– Nếu lão huynh mà là tiểu đệ thì liệu lúc này có ngủ được chăng?
Xà Vương gượng cười đáp :
– Đã mười năm nay suốt đêm ta không ngủ được. Đó là thứ bệnh trầm trọng. Cử bệnh thành danh y, ta nghĩ được thứ thuốc chuyên trị bệnh này.
Xà Vương lấy ra một thứ bột trắng đựng trong bình ngọc biếc và bảo chàng :
– Công tử cứ dương mắt lên ngồi đây thì dù cả mười năm cũng chả cứu được Tiết cô nương ra. Nhưng công tử ngủ đi một lúc, tinh thần tỉnh táo lại thì không chừng có cách cứu được y.
Lục Tiểu Phụng ngần ngừ một lúc rồi nâng chung rượu lên uống.
Khi chàng tỉnh dậy thì trời đã sáng tỏ. Ánh dương quang chiếu vào tấm lụa chăng trên cửa sổ.
Xà Vương đang ngồi dưới cửa sổ cầm một mảnh nhung trắng như tuyết nhẹ nhàng lau thanh kiếm.
Thanh kiếm này vừa ngắn vừa nhỏ, đúc bằng sắt luyện. Lúc bình thời có thể dùng làm bội kiếm cài ở đai lưng.
Đó là thanh Linh Xà kiếm, nhờ nó mà Xà Vương nổi tiếng.
Lục Tiểu Phụng ngồi dậy, chau mày hỏi :
– Lão huynh làm gì vậy?
Xà Vương đáp :
– Ta đang lau thanh kiếm.
Lục Tiểu Phụng nói :
– Nhưng ít ra mười năm rồi lão huynh không dùng đến thanh kiếm này.
Xà Vương đáp :
– Ta chỉ lau cho sạch chứ chưa chuẩn bị dùng tới.
Thủy chung lão vẫn không nhìn Lục Tiểu Phụng, dường như lão sợ chàng nhìn khoé mắt mà đoán được chuyện bí mật của lão.
Vẻ mặt Xà Vương đã lợt lạt, lúc này ánh dương quang chiếu vào coi còn đáng sợ hơn nữa.
Chỉ có người không ngủ được mới biết không ngủ được là cực lắm, có thể nói là một việc đáng sợ.
Đó không phải là bệnh tật gì, nhưng là một thứ hình phạt hành hạ con người đáng sợ hơn bất cứ thứ bệnh gì. Lão đã bị nó hành hạ mười năm nay.
Lục Tiểu Phụng nhìn lão hồi lâu mới thủng thẳng nói :
– Tiểu đệ chưa từng hỏi qua về việc dĩ vãng của lão huynh.
Xà Vương đáp :
– Chưa.
Lục Tiểu Phụng nói :
– Tiểu đệ không hỏi có lẽ vì tiểu đệ đã biết rồi.
Xà Vương biến sắc :
– Công tử biết thế nào?
Lục Tiểu Phụng đáp :
– Tiểu đệ biết lão huynh không chỉ là Xà Vương. Con người lão huynh không phải vì trốn tránh một việc cực kỳ đau khổ thì chẳng khi nào lại làm Xà Vương.
Xà Vương hững hờ đáp :
– Làm Xà Vương cũng chẳng có gì mất mặt, chẳng lẽ công tử không nhận thấy ta sống cuộc đời khoan khoái hơn nhiều người khác ư?
Lục Tiểu Phụng đáp :
– Nhưng lão huynh chẳng phải hạng người này, nếu không vì chuyện trốn tránh thì chẳng khi nào lão huynh ẩn mình ở chỗ quê mùa này.
Xà Vương hỏi :
– Vậy ta nên là hạng người nào?
Lục Tiểu Phụng đáp :
– Tiểu đệ không hiểu mà chỉ biết lão huynh là bằng hữu của tiểu đệ. Giữa tình bạn bè nêân phải nói thực.
Sắc mặt Xà Vương càng lợt lạt hơn. Đột nhiên lão thở dài nói :
– Công tử không nên tỉnh táo sớm như vậy.
Lục Tiểu Phụng nói :
– Nhưng hiện giờ tiểu đệ đã tỉnh rồi.
Xà Vương hỏi :
– Công tử nhận ra ta trốn lánh là vì chuyện gì?
Lục Tiểu Phụng đáp :
– Cừu hận! Trên đời này ít có chuyện gì khiến người ta bị hành hạ, đau khổ như là cừu hận.
Vẻ mặt Xà Vương qua? nhiên đau khổ thật sự.
Lục Tiểu Phụng lại nói :
– Lão huynh muốn trốn tránh cừu hận nên mới ẩn mình vào trong hang cùng ngõ hẻm ở chốn quê mùa này, vì lão biết kẻ thù vĩnh viễn không bao giờ nghĩ tới lão huynh biến thành Xà Vương.
Xà Vương muốn phủ nhận nhưng rồi lại nhẫn nại không lên tiếng.
Lục Tiểu Phụng nói :
– Có điều đáng tiếc là mối cừu hận này vĩnh viễn lão huynh không quên được, vì thế mà hễ gặp cơ hội là lão huynh chẳng nghĩ gì nữa, quyết hành động để kết thúc cho lẹ.
Đột nhiên chàng lại bám vai Xà Vương, nhìn thẳng vào mặt hắn, hỏi dằn từng tiếng :
– Hiện giờ phải chăng lão huynh đã có cơ hội? Phải chăng lão huynh đã phát hiện ra hành tung của kẻ thù?
Xà Vương ngậm miệng, vẻ mặt lại càng đau khổ.
Lục Tiểu Phụng hỏi :
– Cừu nhân của lão huynh là ai? Hiện giờ hắn có trong thành này không?
Xà Vương vẫn im tiếng.
Lục Tiểu Phụng lại nói :
– Lão huynh không nói cũng được, nhưng tiểu đệ nhất định không để cho lão huynh xuống lầu.
Xà Vương dựng mặt lên lạnh lùng nói :
– Công tử tự rước lấy những chuyện rắc rối đã quá đủ rồi, sao còn muốn dính vào chuyện người khác?
Lục Tiểu Phụng thở dài đáp :
– Tiểu đệ biết lão huynh đã làm ơn cho ai, không mong người báo đáp, nên mới không chịu cho tiểu đệ hay vụ này.
Xà Vương chẳng nói gì.
Lục Tiểu Phụng phân trần :
– Chẳng phải tiểu đệ muốn đền đáp lão huynh mà chỉ muốn đưa ra cuộc trao đổi.
Xà Vương không nhịn được hỏi :
– Trao đổi thế nào?
Lục Tiểu Phụng đáp :
– Tiểu đệ đối phó với người kia, còn lão huynh kiếm Tiết Băng cho tiểu đệ.
Xà Vương nắm chặt tay, hai bàn tay lợt lạt gầy đét không ngớt run bần bật, đáp :
– Đúng thế! Ta quả thật có một kẻ thù, ta nhất định kiếm hắn để đòi nợ.
Lục Tiểu Phụng nói :
– Quả nhiên tiểu đệ đoán không sai.
Xà Vương cười lạt hỏi :
– Đây hoàn toàn là việc của ta, tại sao ta phải cầu cứu công tử làm giúp?
Lục Tiểu Phụng cười đáp :
– Vì tay lão huynh phát run, vì bệnh hoạn của lão huynh đã kéo dài mười năm và đã bị cừu hận hành hạ không còn giống người sống nữa, bây giờ lão huynh còn ra đi là chỉ đưa mình vào chỗ chết.
Xà Vương người đang cứng đơ đột nhiên mềm nhũn té xuống ghế, tựa hồ cả con người lão đã hoàn toàn băng hoại.
Lục Tiểu Phụng vẫn không chịu buông tha, lạnh lùng nói tiếp :
– Có khi lão huynh tự mình muốn chết cho rồi vì nhận thấy sống còn đau khổ hơn là chết, nhưng tiểu đệ không muốn nhìn lão huynh chết ở trong tay người kia, đồng thời cũng không muốn hắn làm hại lão huynh thành người dở sống dở chết mà hắn vẫn tiêu dao tự tại trên cõi đời này.
Chàng nắm chặt hai bàn tay lạnh ngắt của Xà Vương nói dằn từng tiếng :
– Vì chúng ta là bằng hữu.
Xà Vương nhìn chàng, đột nhiên nước mắt tuôn ra như suối. Lão lẩm bẩm :
– Công tử đã ngó thấy vợ ta chưa? Dĩ nhiên là chưa, nên công tử vĩnh viễn không hiểu nàng là một nữ nhân cực kỳ ôn nhu lương thiện. Công tử cũng chưa thấy hai con ta. Chúng đều là những đứa trẻ rất thông minh khả ái. Bọn chúng mới năm sáu tuổi.
Lục Tiểu Phụng nghiến răng hỏi :
– Bọn họ đều chết về tay người kia cả rồi ư?
Xà Vương nghẹn ngào ú ớ nói :
– Mụ vốn không đáng kể là người, tâm địa mụ độc hơn rắn rít, thủ đoạn mụ đáng ghê hơn qủy sứ. Có lẽ mụ vốn là ma nữ ở địa ngục trốn ra.
Lục Tiểu Phụng hỏi :
– Mụ là ai?
Xà Vương lẩm bẩm gật đầu :
– Tên mụ là gì à? Mụ là Công Tôn đại nương.
Xà Vương lại giải thích :
– Thực ra tên mụ là Công Tôn Lan. Nghe nói mụ là con cháu người nổi tiếng nhất ở Giáo phường về đời sơ đường tên gọi Công Tôn đại nương. Vì thế những người biết mụ đều kêu bằng Công Tôn đại nương.
Lục Tiểu Phụng nói :
– Tiểu đệ chưa biết người này, cả tên mụ cũng chưa từng nghe ai nói tới.
Xà Vương đáp :
– Mụ không phải là danh nhân. Mụ không muốn làm danh nhân vì mụ nhận ra làm danh nhân có lắm chuyện buồn bực cho mình.
Lục Tiểu Phụng thở dài nói :
– Xem chừng ít ra mụ đáng kể là một nữ nhân rất thông minh.
Làm danh nhân bị phiền não và đau khổ thế nào thì Lục Tiểu Phụng hiểu rõ hơn ai hết.
Xà Vương đáp :
– Nhưng mụ lại dùng rất nhiều danh tự khác, những danh tự đó không chừng công tử cũng biết rồi.
Lục Tiểu Phụng “Ủa” lên một tiếng.
Xà Vương lại nói :
– Nữ Đồ Hộ, Đào Hoa Phong, Ngũ Độc nương tử, Tiêu Hồn bà bà… Những danh tự đó chắc công tử đã nghe qua?
Lục Tiểu Phụng động dung hỏi :
– Những ngoại hiệu đó đều là mụ ư?
Xà Vương đáp :
– Đúng thế!
Lục Tiểu Phụng thở dài nói :
– Xem chừng mụ quả là một nữ nhân đáng sợ.
Rồi chàng hỏi :
– Mụ hành động thần bí như vậy thì làm sao lão huynh thấy được?
Xà Vương đáp :
– Ta chưa tìm thấy mụ thì mụ đã tìm đến ta.
Lão móc trong bọc ra một mảnh giấy vo tròn, vuốt thẳng rồi để lên bàn. Trên giấy viết :
“Ta hiểu ngươi là ai rồi, ta cũng biết ngươi muốn gặp ta.
Vậy đêm trăng tròn, ta chờ ngươi ở Tây Viên. Hay hơn hết là ngươi mang đi một ít tiền để mời ta ăn một bữa Đỉnh Hồ Thượng Tố và La Hán Trai Miến.”
Nét chữ rất tinh anh, rất xinh đẹp. Phía dưới vẽ đóa hoa lan để tự danh.
Xà Vương nói :
– Lá thơ này mụ giao cho một vị huynh đệ ở Thành Nam để y đưa lại cho ta.
Lục Tiểu Phụng trầm ngâm nói :
– Mụ không trực tiếp đưa cho lão huynh, có lẽ vì mụ chưa biết địa chỉ.
Xà Vương đáp :
– Những người lên căn lầu nhỏ của ta không có mấy.
Lục Tiểu Phụng hỏi :
– Tây Viên nào? Phải chăng Tây Viên trong đó có cây Liên Lý thụ?
Xà Vương đáp :
– Phải rồi!
Lục Tiểu Phụng hỏi :
– Bữa nay phải chăng là ngày trăng tròn?
Xà Vương đáp :
– Hôm nay là ngày rằm.
Lục Tiểu Phụng hỏi :
– Mụ ước hẹn đến đêm, bây giờ hãy còn sớm, lão huynh có chuẩn bị đi không?
Xà Vương hỏi lại :
– Bây giờ là bao giờ? Hãy còn buổi sáng phải không?
Lục Tiểu Phụng chợt phát hiện ra ánh dương quang đã dần dần ảm đạm, sắp đến lúc huỳnh hôn.
Xà Vương nói :
– Thứ thuốc đó đáng lý có thể làm cho công tử ngủ đến sáng sớm mai, nhưng dược lực nào dù mạnh đến đâu đối với con người như công tử cũng không hiệu nghiệm.
Lục Tiểu Phụng nhăn nhó cười đáp :
– Có lẽ vì người tiểu đệ đã thành trơ gỗ rồi.
Xà Vương ngưng thần nhìn chàng thủng thẳng nói :
– Ta cũng biết mình tuyệt đối không phải là đối thủ của mụ, nhưng công tử…
Lục Tiểu Phụng ngắt lời :
– Lão huynh bất tất phải quan tâm cho tiểu đệ. Tiểu đệ đã chạm trán những nhân vật lợi hại gấp mười mụ mà vẫn còn sống được đến ngày nay.
Chàng không để Xà Vương mở miệng lại nói tiếp :
– Nhưng có việc làm cho tiểu đệ quan tâm một chút.
Xà Vương hỏi :
– Việc gì?
Lục Tiểu Phụng đáp :
– Tiểu đệ không tìm thấy mụ.
Chàng nói tiếp :
– Mụ đã có nhiều tự hiệu như vậy, tất cũng hóa trang nhiều lối khác nhau. Huống chi bọn đàn bà chỉ thay đổi y phục và kết mớ tóc khác kiểu là đủ khiến cho người ngoài khó lòng nhận ra được.
Xà Vương đáp :
– Thuật dịch dung của mụ quả rất tinh thâm, mụ lại ít khi dùng chân tướng để gặp ai, nhưng mụ cũng có cái tật, hễ mình biết thóp là nhận ra được ngay.
Mỗi một nữ nhân chẳng nhiều thì ít đều có tật riêng.
Lục Tiểu Phụng cười hỏi :
– Mụ có tật gì?
Xà Vương đáp :
– Tật của mụ rất đặc biệt.
Những người đàn bà càng thông minh, càng xinh đẹp càng có tật đặc biệt.
Xà Vương nói tiếp :
– Bất luận mụ mặc quần áo gì thì mặc, hóa trang làm người gì thì làm, nhưng đôi giày của mụ không bao giờ thay đổi.
Lục Tiểu Phụng sáng mắt lên hỏi :
– Mụ thường đi giày thế nào?
Xà Vương đáp :
– Mụ đi giày đỏ.
Lục Tiểu Phụng nhảy lên hỏi :
– Giày đỏ tươi mà thêu hoa, tựa hồ tân nương tử, nhưng mũi giày không thêu uyên ương mà lại thêu con cú mèo.
* * * * *
Tây Viên ở phía Tây thành mà lại là một đại hoa viên.
Hiện giờ đã qua buổi hoàng hôn. Những lâu các đình đài trong bụi hoa dưới bóng cây đều thắp đèn như những điểm hàn tinh.
Ngọn gió đêm đưa lại mùi hoa thơm và mùi rượu.
Mảnh trăng tròn vành vạnh như treo lơ lửng đầu cành. Đó là cây Lý Liên thụ.
Cây gỗ đỏ cao lớn, hai cành liền vào nhau tạo thành một gốc tựa hồ đôi tình nhân đang ôm nhau.
Lục Tiểu Phụng lại nhớ tới Tiết Băng. Hễ chàng nhớ tới là trái tim lại đau nhói như bị kim đâm.
Chàng chẳng phải người vô tình, nhưng chàng biết lúc này không phải là lúc nóng nảy bi thương.
Lục Tiểu Phụng đã đi quanh trong vườn hết một vòng. Đêm nay nữ khách không có nhiều và chưa thấy một cô gái nào đi giày hồng.
Chàng vẫn không nóng nảy.
Công Tôn Lan chắc không biết trong vườn lại có Lục Tiểu Phụng đang chờ mụ.
Điều này là một ưu thế cho chàng.
Vừng trăng tỏ dần dần lên cao khiến cho người ta phải nát ruột.
Giả tỷ lúc này Tiết Băng ở bên Lục Tiểu Phụng thì nhất định thị bảo chàng tìm chỗ ngồi và kêu lấy một mâm Đỉnh Hồ Thượng Tố hảo hạng.
Trước mặt người khác thị thường tỏ ra bẽn lẽn, mặt đỏ bừng không nói một câu.
Nhưng khi cùng đi với Lục Tiểu Phụng thị biến thành một cô gái rất nhỏng nhẻo, hết đòi thứ này lại đòi thứ khác, chẳng một lúc nào chịu ngồi yên.
Lục Tiểu Phụng phát giác ra một điều làm cho chàng cao hứng. Chàng thích Tiết Băng nhỏng nhẻo. Chàng muốn thị vòi vĩnh, vòi vĩnh như một đứa con nít bướng bỉnh.
Chàng thích thị nói líu lo… Chàng không muốn nghĩ thêm nữa và sắp sửa đi chỗ khác.
Giữa lúc chàng trở gót, bỗng nhìn thấy một mụ già ở dưới bóng cây đi ra.
Mụ già mặc quần áo xanh vá đến trăm miếng. Trên lưng mụ tựa hồ có một khối đá lớn để lên làm cho lưng mụ sắp gãy đến nơi.
Lúc mụ đi, lưng còng, đầu cúi thấp tựa hồ như đang tìm kiếm vật gì.
Ánh trăng chiếu vào mặt đầy những vết nhăn tựa hồ một tờ giấy vo tròn rồi lại mở ra.
Mụ bán mứt hạt giẻ, tay cầm một chiếc giỏ tre lớn, trên đậy một tấm vải bông dầy.
Mụ vừa đi vừa rao :
– Mứt hạt dẻ vừa mới chiên đây! Mứt vừa thơm vừa dòn mười đồng một cân.
Mụ là một phụ nhân cô đơn nghèo khổ và đã ở vào những ngày cuối cùng trong đời người. Thanh âm mụ ấm ớ rất khó nghe.
Lục Tiểu Phụng đột nhiên cảm thấy trong lòng bịn rịn. Chàng vốn là người giàu tình cảm, thương xót kẻ cùng nghèo, liền cất tiếng gọi :
– Lão bà bà! Bà bà lại đây bán cho vài cân.
Mùi hạt dẻ quả nhiên vừa thơm vừa nóng, mới lấy ở tiệm ra.
Chàng hỏi :
– Mụ bán mười đồng một cân ư?
Lão bà gật đầu. Lưng mụ còng, đầu cúi thấp, tựa hồ như muốn nhìn chân Lục Tiểu Phụng, vì người mụ không sao đứng lên được.
Lục Tiểu Phụng gục gặc cái đầu nói :
– Mười đồng một cân thì không được rồi.
Lão bà hỏi :
– Có mười đồng một cân mà đại gia còn chê đắt ư?
Lục Tiểu Phụng dựng mặt lên đáp :
– Mứt hạt dẻ ngon thế này ít ra cũng phải mười lạng một cân mới đúng. Thiếu một đồng là tại hạ không chịu mua.
Lão bà cười. Nụ cười của mụ làm cho những vết nhăn trên mặt càng sâu xuống. Mụ nghĩ thầm :
– Gã này là một thằng ngốc. Phải chăng gã là người ở Quân Tử Quốc trong chuyện Kinh Hóa Duyên?
Lục Tiểu Phụng lại hỏi :
– Mười lạng một cân, mụ có bán thì tại hạ lấy hai cân?
Dĩ nhiên lão bà chịu lắm. Dù hai mươi lạng một cân mụ cũng bán.
Con người lúc già nua tuổi tác vẫn chưa hết lòng tham.
Lục Tiểu Phụng cười nói :
– Nhưng tại hạ cũng có việc muốn nhờ mụ giúp cho.
Lão bà nhăn nhó cười hỏi :
– Thân hình lão bà đã thế này thì còn giúp đại gia được việc gì?
Lục Tiểu Phụng đáp :
– Việc này chỉ có lão bà bà giúp được tại hạ mà thôi.
Mụ già hỏi :
– Tại sao vậy?
Lục Tiểu Phụng cười đáp :
– Vì lão bà bà lưng còng. Việc này cũng như lão bà bà tìm một vật gì trên mặt đất, nên tại hạ yêu cầu lão bà bà tìm kiếm dùm cho.
Mụ già hỏi :
– Tìm cái gì?
Lục Tiểu Phụng đáp :
– Tìm một nữ nhân đi giày màu hồng và trên mũi giày có thêu con cú mèo.
Lão bà cười khằng khặc.
Việc này mà nhờ mụ thì trên đời tưởng không còn việc nào khác thích hợp cho mụ hơn. Dù mụ có chui qua đũng quần người ta, cũng chẳng ai đem lòng ngờ vực.
Mụ đón lấy hai chục lạng bạc. Mắt mụ cười híp lại chỉ còn bằng một sợi chỉ. Mụ dặn Lục Tiểu Phụng :
– Đại gia cứ ở đây chờ, hễ lão bà kiếm được là trở lại cho hay liền.
Lục Tiểu Phụng đáp :
– Lão bà bà mà tìm được người đó thì lúc trở lại đây tại hạ mua thêm hai cân mứt hạt dẻ nữa.
Lão bà trong lòng hí hửng tập tễnh cất bước.
Lục Tiểu Phụng cũng nức lòng hả dạ, chẳng những chàng khoan khoái mà còn tự đắc, tự hào. Chàng cho rằng chỉ có hạng người thông tuệ như mình mới nghĩ ra được quyết định rất thông minh này.
Đột nhiên chàng phát giác mình quả nhiên là bậc thiên tài.
Nhưng chàng lại quên mất một điều là bậc thiên tài thường hay chết yểu.
Mứt hạt dẻ còn nóng hổi, vừa dòn vừa thơm.
Lục Tiểu Phụng toan lấy ăn để tự ủy lạo mình.
Chàng liền tìm một tảng đá sạch sẽ ngồi xuống, bẻ miếng mứt toan bỏ vào miệng thì sực nhớ tới Tiết Băng.
Tiết Băng thích nhất mứt hạt dẻ, khi trời lạnh thị bỏ hạt dẻ vào trong bọc, thủ tay cho nóng rồi mới lấy ăn từ từ.
Một hôm Lục Tiểu Phụng gặp thị đang móc hạt dẻ ăn. Hôm ấy tiết trời khá lạnh, hai tay chàng đều cóng lại. Thị lấy tay chàng đút vào bọc cho ấm. Cảm giác ấm áp và ngọt ngào đến bây giờ chàng còn phảng phất thấy ở đầu ngón tay.
Nhưng người thị nay ở đâu?