Bạn đang đọc Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ – Chương 12: Tàu tốc hành Grand Trunk
Con tàu tốc hành ì ạch lết đi cắt đôi nước Ấn Độ, một vết cắt dài hai nghìn hai trăm năm mươi ki lô mét từ Nam Delhi tới Madras, nó có tên gọi riêng Grand Trunk[1] nhờ hành trình này. Có thể dễ dàng suy ra điều đó từ các loại hành lý nặng nề mà người khuân vác đang chất lên tàu. Những thùng chứa đồ lớn để khắp sân ga. Cả đời tôi chưa bao giờ thấy những đống đồ cá nhân và nhiều người mang vác nặng trĩu đến vậy, họ giống như người đi sơ tán, có thời gian để đóng gói đồ, ì ạch chạy khỏi một tai ương mơ hồ nào đó. Vào thời điểm nhất định, việc lên tàu quả là không đơn giản đối với người Ấn Độ, nhưng những người này leo lên tàu tốc hành Grand Trunk như thể họ đang dựng nhà – họ mang cả dáng vẻ lẫn hàng hóa của những người dọn về nhà mới. Chỉ trong vài phút các toa tàu đã bị chiếm dụng hết, các thùng chứa hành lý trống rỗng, hòm mây, giỏ đựng thực phẩm, các chai nước, túi ngủ và những chiếc túi Gltone đã được đặt vào vị trí. Trước khi tàu chuyển bánh, lúc chúng tôi vẫn đang ở trên sân ga Delhi, mọi thứ lại thay đổi, đám đàn ông cởi bỏ những chiếc quần rộng thùng thình và những chiếc áo khoác vải chéo, mặc vào trang phục truyền thống miền Nam Ấn Độ: áo lót không tay và chiếc xà rông mà họ gọi là lungi. Chúng nhàu nhò những nếp gấp. Cứ như thể, tức khắc – trong sự chờ đợi hồi còi tàu – tất thảy bọn họ gỡ bỏ đồ cải trang đã vận vào khi ở Delhi, chuyến tàu tốc hành hướng về Madras cho phép họ trở lại đúng diện mạo của mình. Con tàu thuộc về dân tộc Tamil và họ đã triệt để hoàn thành việc dọn nhà, khiến tôi cảm giác mình như một lẻ xa lạ đứng giữa những cư dân này, điều này thật lạ bởi tôi đến sớm hơn tất cả mọi người.
[1] Thùng lớn.
Những người Tamil đen đúa xương xẩu, mái tóc buông dài, răng họ trắng lóa và long lanh vì họ tẩy liên tục bằng một mẩu cành cây tươi đã bóc vỏ. Nhìn một người Tamil tẩy răng bằng cái cành dài hai mươi xăng ti mét bạn sẽ tự hỏi liệu có phải anh ta đang cố kéo một cành cây ra khỏi dạ dày không. Một điểm thu hút của chuyến tàu cao tốc Grand Trunk là hành trình đi qua các khu rừng của Madhya Pradesh, nơi có thể thấy những cái bàn chải đánh răng bằng cây tốt nhất; chúng được bày bán ở các nhà ga của vùng và được gói trong túi, trông như điếu xì gà bị cắt phẳng hai đầu. Người Tamil cũng nhũn nhặn. Trước khi thay đồ, mỗi người đều lấy khăn trải giường làm thành một chiếc áo choàng rộng rồi nhảy lò cò, thả tay áo xuống, bỏ giày ra và tụt quần, tất cả xì xào nói chuyện giống như đang vừa tắm vừa hát. Người Tamil dường như nói liên tục – chỉ việc đánh răng mới làm họ im lặng. Thú vui của họ là thảo luận về một vấn đề vĩ đại nào đó (cuộc sống, sự thật, sắc đẹp, “rá trị”) trong lúc đang dùng một bữa cơm vĩ đại (rau sũng nước rắc đầy ớt khô và ớt tươi, cùng với puris ướt và hai vắt cơm nếp). Người Tamil rất hạnh phúc khi ở trên chuyến tàu tốc hành Grand Trunk: ngôn ngữ họ nói, thức ăn họ ăn, đồ đạc của họ vứt bừa bãi, tạo cho chuyến tàu sự huyên náo quen thuộc giống như ở nhà của họ vậy.
Tôi bắt chuyện với ba người Tamil ở cùng toa. Sau khi họ thay đồ, tháo hành lý, mở túi ngủ và ăn uống (một người từ tốn cười nhạo cái thìa của tôi: “Thức ăn ăn bằng tay có vị khác so với thức ăn dùng bằng thìa – giống như vị của kim loại vậy”), họ sử dụng quỹ thời gian đầy ắp của mình để giới thiệu về bản thân. Một tràng tiếng Anh của người Tamil nổ ra với những từ “reposting”, “casual leave”, “annual audit”[2]. Ngay khi tôi tham gia vào cuộc hội thoại, họ bắt đầu nói chuyện bằng tiếng Anh, tôi cho đấy là cấp độ cao của tài ứng biến và hòa nhập. Họ cùng đồng nhất ở một điểm: người Delhi thật thô lỗ.
[2] Vào sổ, nghỉ phép đột xuất, kiểm toán hàng năm.
“Tôi nghỉ tại khách sạn Lodi. Tôi đã đặt từ hàng tháng trước. Mọi người ở Trích nói với tôi rằng đây là một khách sạn tốt. Ha ha! Tôi không biết dùng điện thoại. Ông biết dùng điện thoại rồi chứ?”
“Tôi hoàn toàn không biết dùng điện thoại.”
“Nó không phải là khách sạn Lodi.” Người Tamil thứ ba lên tiếng: “Đó là Delhi.”
“Đúng rồi, anh bạn, anh nói đúng,” người thứ hai phụ họa.
“Tôi nói với lễ tân, “Làm ơn đừng nói tiếng Hindu với tôi. Không ai nói được tiếng Anh ở đây sao? Vui lòng nói với tôi bằng tiếng Anh!”
“Tình huống dở tệ.”
“Hindu, Hindu, Hindu, tcha[3]!”
[3] Vâng (tiếng Hindu).
Tôi kể rằng mình cũng gặp một chuyện tương tự. Họ gật đầu và kể thêm vài câu chuyện bức xúc. Chúng tôi ngồi giống bốn kẻ lánh nạn khỏi sự tàn bạo, đang than khóc cho tình trạng thiếu hiểu biết chung về tiếng Anh và một trong số những người Tamil – chứ không phải tôi – đã chỉ ra rằng người nói tiếng Hindu sẽ có thể bị lạc ở London.
Tôi nói, “Liệu ông ta có thể bị lạc ở Madras?”
“Tiếng Anh được nói rộng rãi ở Madras. Chúng tôi cũng sử dụng tiếng Tamil nhưng hiếm khi dùng tiếng Hindu. Đó không phải ngôn ngữ của chúng tôi.”
“Ở miền Nam, mọi người đều có matric.” Họ khôn khéo nói giảm nhẹ với cách viết tắt, “matric” viết tắt của “matriculation”[4], “Trích” để chỉ thành phố Tiruchirapplli.
[4] Trúng tuyển vào đại học.
Người phục vụ tàu ngó đầu vào trong toa. Anh ta là một kẻ phiền nhiễu với mấy cái phù hiệu và đồ trang bị của chính quyền Ấn Độ, một máy bấm lỗ bằng đồng, một chiếc bút chì xấu xí, một chiếc bìa kẹp hồ sơ có danh sách hành khách, đinh ghim bằng đồng, mũ lồi vải kaki. Anh ta đập vào vai tôi.
“Bê đồ của ông đi.”
Trước đó tôi đã yêu cầu khoang hai giường nằm và tôi đã trả tiền. Anh ta nói hết chỗ. Tôi đòi hoàn tiền. Anh ta nói tôi phải làm một cái đơn nộp tại chỗ giải quyết vấn đề này. Tôi buộc tội anh ta làm ăn thiếu hiệu quả. Anh ta rút lui. Bây giờ anh ta đã tìm thấy một khoang đôi ở toa kế tiếp.
“Toa này có phải trả thêm tiền không?” Tôi hỏi, kéo va li của mình vào. Tôi không thích cái giá cắt cổ của từ bak-sheesh.
“Tùy ông thôi,” anh ta nói.
“Vậy thì không trả.”
“Tôi không nói là có phải trả thêm hay không. Tôi không hỏi ông.”
Tôi thích cách tiếp cận này. Tôi nói, “Tôi nên thế nào?”
“Đưa hay không đưa.” Anh ta cau mày nhìn vào danh sách hành khách. “Hoàn toàn là do quyết định của ông thôi.”
Tôi đưa anh ta năm rupi.
Khoang tàu này sạn ngấm ngầm. Không có chậu rửa; chiếc bàn gấp đã bị tuột ra khỏi bản lề, tiếng rầm rầm ngoài cửa sổ tăng dần thành tiếng kêu rít lên xé tai tôi khi một chiếc tàu khác đi qua. Thi thoảng một chiếc đầu tàu cũ chạy vụt qua trong đêm, tiếng nồi hơi sôi, còi kêu inh ỏi, còn pít tông thì phát ra những tiếng rin rít với thanh độ cảnh báo hở van, có thể dẫn tới một vụ nổ. Vào khoảng sáu giờ sáng khi tới gần Bhopal, có tiếng gõ cửa vang lên – không phải trà sáng mà là một ứng cử viên cho vị trí giường trên. Anh ta nói “Xin lỗi” và rón rén bước vào.
Rừng thuộc bang Madhya Pradesh, nơi những chiếc bàn chải đánh răng mọc lên, trông giống như rừng ở New Hampshire nếu bỏ đi dãy núi màu xanh mờ cuối cùng. Rừng xanh ngắt, hoang vắng, lớp lớp những bờ dốc rợp bóng lá cây và những con suối râm mát, nhưng khi ngày thứ hai trôi qua, khu rừng trở nên bụi bẩn hơn và New Hampsire nhường chỗ cho cái nóng Ấn Độ, không khí Ấn Độ. Bụi bám trên cửa sổ và rơi vào trong toa, phủ lên bản đồ, tẩu thuốc, kính, sổ và cả đống sách mới của tôi: Exiles (Lưu đày) của Joyce, thơ Browning và The narrow corner (Góc hẹp) của Somerset Maugham. Tôi cũng bị một lớp bụi mỏng bám trên mặt; bụi đóng cặn trên gương, làm mòn ghế nhựa và khiến sàn nhà trở nên cứng giòn. Tôi phải mở hé cửa sổ vì nóng, nhưng cái giá trả cho làn gió mát này là cả một luồng bụi từ đồng bằng miền Trung Ấn Độ thổi tới.
Buổi chiều đến thành phố Nagpur, người bạn đồng hành của tôi (một kỹ sư có vết sẹo vĩ đại trên ngực) nói: “Những người dân gốc ở đây được gọi là Gond. Họ khá lạ lùng. Một phụ nữ có thể có bốn, năm ông chồng và ngược lại.”
Tôi mua bốn quả cam ở nhà ga, chú ý tới một cái biển quảng cáo tướng số ghi rằng CƯỚI CON GÁI BẠN CHỈ VỚI 12,50 RUPI, tôi quát gã đàn ông nhỏ thó đang bắt nạt một người ăn xin và đọc đoạn mình viết về Nagpur (được gọi vậy vì nó nằm trên sông Nag) trong cuốn sổ tay:
Thành phần cư dân ở đây có nhiều thổ dân được gọi là người Gond. Những thổ dân sống trên núi này có nước da đen, mũi tẹt và môi dày. Mảnh vải quấn quanh eo là trang phục của thủ lĩnh. Tín ngưỡng ở mỗi làng khác nhau. Gần như tất cả đều tôn thờ thần đậu mùa và thần dịch tả, ngoài ra còn dấu hiệu cho thấy họ thờ rắn.
Tôi thở phào khi cói tàu rú và chúng tôi lại lên đường. Anh kỹ sư đọc tờ báo Nagpur, còn tôi ăn cam Nagpur và sau đó làm một giấc ngủ trưa. Tôi bị đánh thức bởi một cảnh kỳ quặc, đám mây báo hiệu cơn mưa đầu tiên tôi thấy kể từ khi rời nước Anh. Trời nhá nhem tối, gần ranh giới bang Andhra Pradesh miền Nam Ấn Độ, những đám mây lớn xám xanh viền đen sẫm bám chặt lấy chân trời. Chúng tôi đã tới gần chúng trong khung cảnh trời bắt đầu mưa: giờ đây khu nhà ga nhỏ bé bị bùn bắn tung tóe, những vũng nước màu nâu đọng lại ở chỗ chắn tàu, đất trở nên đỏ bởi mùa mưa tới chậm. Nhưng chúng tôi không ở dưới những đám mây đó cho đến khi tới Chandrapur, một nhà ga đầy muội và nhỏ và tới mức không có trên bản đồ. Tại đây mưa đổ dữ dội, những người phát tín hiệu nhảy dọc đường ray vẫy những lá cờ ướt sũng. Mọi người trên sân ga đứng nhìn dưới những chiếc ô lớn màu đen bóng nước. Vài người bán hàng rong ào vào trong cơn mưa xối xả để bán chuối cho những hành khách trên tàu.
Một người phụ nữ từ chỗ trú chân trong nhà ga bò ra ngoài mưa. Có vẻ cô ta bị thương, cô bò cả bằng tay và đầu gối, di chuyển chậm về phía tàu – hướng về tôi. Tôi đoán cột sống của cô bị ảnh hưởng bởi bệnh viêm màng não, cô buộc quần áo rách vào hai đầu gối và cầm hai mảnh gỗ trên tay. Cô vất vả tiến lại đoàn tàu với sự chậm rãi đau đớn và khi tới cửa, cô nhìn lên. Cô có một nụ cười đáng yêu – một khuôn mặt tỏa sáng trên cơ thể ốm yếu. Cô chống người lên và giơ một bàn tay về phía tôi chờ đợi, gương mặt cô chảy lã chã nước mưa, quần áo sũng nước. Khi tôi lục ví để lấy tiền thì tàu bắt đầu chuyển bánh và hành động vô ích của tôi là ném một ít đồng rupi về phía đường ngập nước.
Ở nhà ga tiếp theo tôi lại bị một người ăn xin khác gạ gẫm. Đó là một cậu bé khoảng mười tuổi, mặc áo phông và quần soóc sạch sẽ. Cậu bé van nài bằng ánh mắt và nói nhanh “Ông ơi, làm ơn, cho con tiền. Bố và mẹ con đã ở nhà ga này hai ngày rồi. Chúng con bị kẹt ở đây. Chúng con không có thức ăn. Bố con không có việc làm, quần áo của mẹ con thì đã sờn rách. Chúng con phải tới Delhi sớm và nếu ông cho con một hay hai rupi thì chúng con có thể làm được điều đó.”
“Tàu sắp lăn bánh rồi đấy. Cháu nên đi đi.”
Cậu ta nói: “Ông ơi, làm ơn, cho con tiền. Bố và mẹ con…”
Cậu ta tiếp tục lặp lại một cách máy móc. Tôi giục cậu xuống tàu, nhưng rõ ràng là ngoài bài diễn văn vừa rồi thì cậu chẳng nói được tiếng Anh. Tôi bước đi.
Trời bắt đầu tối, tàu dừng lại, tôi ngồi đọc báo của người kỹ sư. Tin tức về hội họp, một số lượng lớn những cuộc hội họp trên tít báo khiến tôi có thể nghe hàng loạt giọng nói ồn ã, tiếng loạt soạt của những trang giấy in, tiếng cót két của những chiếc ghế gấp và lời mở đầu quen thuộc của người Ấn Độ: “Có một vấn đề mà tất cả chúng ta phải tự hỏi bản thân…” Một cuộc hội thảo ở Nagpur mất cả tuần để thảo luận xem “Ở Peril có tương lai cho Bái hỏa giáo không?” Cùng trang này đăng tin hai trăm người Ấn tham dự “Hội nghị các nước yêu hòa bình,” tin “Người theo Ấn Độ giáo: Chúng ta đang ở ngã ba đường?” chiếm trọn mấy trang khác và trang sau có một quảng cáo vải may âu phục của hãng Raymond (khẩu hiệu: “Bạn sẽ phải nói gì đó về bộ đồ của hãng Raymond…”). Một người đàn ông mặc bộ lê Raymond đang diễn giải với các thính giả trong cuộc họp; anh ta đang nói gì đó. Những lời anh ta nói là “Giao tiếp là am hiểu. Giao tiếp là triển vọng. Giao tiếp là lôi cuốn.”
Một bàn tay xương xẩu của người ăn xin xuất hiện trước cửa toa của tôi, cẳng tay thâm tím, tay áo rách tả tơi. Sau đó là một tiếng van xin thẳm thiết, “Sahib!”
Đến Sirpur, chỉ chớm vượt qua biên giới bang Andhra Pradesh, tàu tạm nghỉ. Hai mươi phút sau chúng tôi vẫn còn ở đó. Sirpur thật xơ xác: sân ga không có mái che, nhà ga có nhẵn hai phòng và mấy con bò trên hành lang. Cỏ mọc thành bụi bên rìa cửa sổ phòng đặt vé. Căn phòng có mùi mưa, khói gỗ và phân bò; chỉ lớn hơn túp lều một tẹo, nhưng được trang trọng hóa bởi tấm biển thường thấy của ngành đường sắt, trên đó có dòng chữ mang đầy hứa hẹn – TÀU CHẠY MUỘN LÀ PHÍ PHẠM THỜI GIAN. Hành khách trên Grand Trunk bắt đầu xuống tàu. Họ đi dạo, tỏa ra thành từng nhóm nhỏ, khoan khoái tập thể dục.
“Động cơ bị hỏng rồi,” một người đàn ông nói với tôi. “Họ đang chuyển một cái khác tới. Tàu hoãn hai giờ.”
Một người đàn ông khác nói: “Nếu có một thùng máy chính ở trên con tàu này thì họ đã có động cơ thay thế trong vòng mười phút rồi”.
Những người Tamil đang nổi xung lên trên sân ga. Một người dân bản địa Sirpur vơ vẩn đi ra khỏi bóng tối với một bao đậu chiên. Những người Tamil xúm lại mua hết bao đậu và muốn mua thêm đậu nữa. Một nhóm Tamil tụ họp trước cửa sổ phòng trạm trưởng la mắng một người đàn ông đang gõ mã moóc bằng một cái chìa khóa nhỏ.
Tôi quyết định đi tìm bia nhưng chỉ mới ra khỏi nhà ga tôi đã hoàn toàn bị chìm trong bóng tối nên tôi nghĩ lại. Mùi mưa trên cây cối mang lại độ ẩm dồi dào đến nỗi không khí đượm mùi ngọt lịm. Những con bò nằm trên đường, lông chúng màu trắng, tôi có thể nhìn thấy rõ chúng. Dùng lũ bò để đánh dấu đường, tôi bước đi cho đến khi thấy một nguồn sáng màu cam nhỏ cách khoảng năm chục mét. Tôi tiến thẳng về phía ánh sáng và tới một ngôi lều nhỏ, ấy là mái lán chật hẹp thấp tè dựng tạm với tường bùn và mái bằng vải bạt. Một chiếc đèn dầu trên ô cửa và một chiếc khác bên trong chiếu sáng những khuôn mặt ngạc nhiên của phân nửa số người đang ngồi uống trà, hai trong số họ đã nhận ra tôi từ trên tàu xuống.
“Ông cần gì?” một người hỏi. “Tôi sẽ giúp ông.”
“Tôi có thể mua một chai bia ở đây không?”
Câu hỏi của tôi được phiên dịch. Một tiếng cười bật lên. Tôi biết đó là câu trả lời.
“Đi xuôi thêm khoảng hai ki lô mét,” người đàn ông chỉ về phía bóng đêm, “có một quán bar. Ông có thể mua bia ở đó.”
“Một chiếc ô tô,” anh ta nói. Anh nói lại với người đàn ông đang rót trà. “Nhưng không có ô tô ở đây. Ông uống trà vậy.”
Chúng tôi ngồi trong lều, uống trà sữa bằng những chiếc cốc nứt. Một nén hương được thắp lên. Không ai nói lời nào. Hành khách trên tàu nhìn những người làng, người làng ngoảnh mặt đi. Trần nhà bằng vải rủ xuống, những chiếc bàn bị mài mòn bóng nhoáng, que hương tỏa ra khắp căn phòng một mùi khó chịu. Hành khách đi tàu bắt đầu không thoải mái và trong tình huống đó họ chú ý đặc biệt tới hình các vị thần Shiva và Gampati được in màu đã mờ trên lịch. Chiếc đèn tỏa ra ánh sáng le lói trong sự im lặng chết chóc, bóng chúng tôi nhảy nhót trên các bức tường.
Người Ấn Độ đã dịch câu hỏi của tôi, nói trong hai thở: “Đây là Ấn Độ thực sự!”
Tối đó chúng tôi không đi xa. Động cơ thay thế tới muộn, do vậy tàu bị hoãn lại lâu hơn, những người Tamil la ó, nguyền rủa, chửi bới bằng đủ loại lời lẽ. Tàu hỏng cả đêm, đầu tiên nó đi chậm lại rồi ngừng hẳn, động cơ chết ngóm và sau đó tôi có thể nghe thấy lẫn trong những tiếng chửi rủa là tiếng dế kêu vang. Chúng tôi tới Vijayawada chậm năm giờ trong buổi bình minh mưa gió tối tăm. Tôi mua một quả táo ở cửa hàng nhưng trước khi tôi kịp cắn một miếng thì một cậu bé đi tập tễnh về phía tôi, chìa tay ra và bắt đầu than van. Tôi cho cậu ta quả táo đó và mua một quả khác, nhưng phải giấu đi cho tới khi lên tàu.
Miền Nam mát mẻ và tươi tốt không ngờ: màu xanh của đồng quê đúng với màu xanh trên bản đồ, và màu nước biển của vùng này nữa. Vì vẫn còn sớm, và vì người dân Ấn Độ dường như cho rằng đường ray tàu hỏa là phần rìa thế giới của họ, nên có một số người núp ở dọc đường ray, họ đi đại tiện. Đầu tiên tôi nghĩ đơn giản là họ đang ngồi xổm thoải mái để nhìn tàu chạy qua, sau đó tôi nhận ra những đống màu vàng ở bên dưới họ. Tôi thấy một người đàn ông, điềm báo sẽ cả một trăm người và hơn thế nữa, tất cả hướng mặt ra đoàn tàu, xem nó như một trò tiêu khiển, rồi chậm rãi làm bẩn đường ray. Họ vẫn đang đại tiện khi tàu vào ga, họ vẫn với tư thế ấy khi tàu rời ga. Một nhóm kỳ dị – một người đàn ông – một cậu bé – một con lợn – ngồi xếp thành hàng, đại tiện theo cách riêng. Một người đàn ông trang nghiêm mặc dhoti ngồi xổm cách đường tàu xa hơn một chút. Ông ta nhìn con tàu chạy qua, vẻ mặt như thể tuyên bố một lúc nào đó ông ta sẽ ở trên tàu: ông ta che cái ô lớn trên đầu và một tờ báo trên đầu gối. Quả thực ông ta là biểu tượng hoàn hảo cho điều mà một người đàn ông ở Delhi đã từng nói: “Một thế giới bãi phân.”
Phương Đông lướt ngoài cửa sổ – Chương 12: Tàu tốc hành Grand Trunk (P.2)
Chặng cuối của chuyến hành trình, tàu xoay hướng đi ra biển và chạy theo bờ biển thấp dọc vịnh Bengal. Đồng ruộng ngập nước, đàn ông đang cày – những đàn trâu đen kéo họ trên đồng lúa. Những dòng sông cuộn lên màu đỏ ngập mấp mé mép bờ. Phần Đông Nam này của Andhra Pradesh là vùng màu mỡ nhất mà tôi thấy ở Ấn Độ, và nó còn gây ấn tượng theo cách khác nữa: người nơi đây da đen kịt, mặt đất sẫm màu nâu đỏ, và cỏ thì xanh ngắt. Mưa vẫn kéo tới, nặng hạt hơn khi chúng tôi tới gần Madras.
Tôi hỏi người đồng hành về vết sẹo của anh ta. Anh nói đã bị đầu gấu chém ở Assam, chúng tưởng anh là một người Bengal. Anh ta đi ra cửa thì có ba người đàn ông nhảy tới dùng dao găm chém vào ngực. Anh ta ngã ngửa ra và chúng bỏ chạy. “Máu chảy, tôi nằm ngửa, nhưng máu từ ngực cứ phọt ra, bắn tung tóe lên mặt lên người tôi.” Anh ta gọi cậu con trai năm tuổi mang vải ra để cầm máu. Đứa trẻ đã làm theo lời cha nhưng tay cậu quá nhỏ còn cậu sợ hãi tới mức tay ngập trong vết thương. Cha cậu được đưa tới bệnh viện ở Siliguri nhưng cũng phải mất một năm thì vết thương mới lành, và khi ra viện anh ta không còn tiền cũng chẳng có việc. Anh ta miêu tả bản thân như một “công nhân Ấn Độ khá điển hình.”
Chúng tôi trò chuyện về công việc. Anh ta làm gì đó liên quan tới thủy lực. Cuộc đối thoại không dài. Hầu hết người Ấn Độ mà tôi gặp có công việc chẳng thể giải thích hay phân tích gì cả. Họ làm nhân viên chào hàng cho các công ty sản xuất ống đúc, vòng đệm bằng chất dẻo hoặc chất tẩy trắng; họ chào bán những dụng cụ đo đạc hoặc chốt khóa hộp đựng xì gà. Một lần tôi gặp người Silch làm đồ cao su, không phải những thứ đơn giản như lốp xe hoặc dụng cụ tránh thai; anh ta làm vòng đệm và vỏ bọc cao su. Tôi bảo mình không hiểu. Anh ta giải thích: “Vỏ bọc – những cái bằng cao su ấy – để kéo đĩa xích.”
Tôi không thể hiểu được những công việc này nên những cuộc đối thoại trên tàu với người Ấn Độ thành những câu chuyện vặt vãnh theo phong cách lạ lùng. Người kỹ sư, thấy hiểu biết của tôi về thủy lực đơn sơ quá nên kể với tôi câu chuyện về một người tập yoga, người này không hề ăn hay uống bất cứ thứ gì trong suốt quãng đời mình. “Thế anh ta sống bằng gì?” tôi hỏi. Đó dường như là câu hỏi hợp lý. “Chỉ không khí thôi,” anh ta đáp, “vì ông ta không muốn cơ thể bị vấy bẩn bởi thức ăn và nước uống.” Người đó sống khá thọ – trên bảy mươi tuổi. Ông Gopal, nhân viên liên lạc đã đầu hàng với sự hiểu biết của tôi về nghề liên lạc. Ông ta đã cho tôi nghe chuyện một con khỉ và một con hổ thường xuyên đi du lịch với nhau. Không ai có thể hiểu tại sao con hổ lại không ăn ngấu con khỉ, nhưng một người đàn ông đã quan sát kỹ chúng (từ đằng sau một cái cây, hoàn toàn kín đáo) và nhận ra rằng con hổ bị mù; con khỉ dẫn đường cho con hổ hết chỗ này tới chỗ khác. Tôi đã nghe một câu chuyện về người đàn ông Bombay có thể đi trên nước và một người đàn ông khác đã tự học cách bay bằng đôi cánh làm từ lá cây cọ; người bán ống đúc kể với tôi về cây cầu khỉ từ Ceylon tới Dhanushkodi, ngang qua eo biển Palk. Tôi thấy những câu chuyện khó tin này là cơn phiêu diêu bay bổng từ những thứ cụ thể, trí tưởng tượng của người Ấn Độ đòi hỏi cái gì đó nhiều hơn là những chi tiết buồn tẻ trong sổ sách. Bởi vậy ông Bhardwaj, một kế toán, tin vào thuật chiêm tinh; ông Radia, làm pin khô, ứng khẩu (như ông ta nói) ra những bài hát mang tính triết học; và một người đàn ông có suy nghĩ hoàn toàn khác biệt mà tôi gặp ở Bombay xác nhận rằng nhiều người Ấn nghiện bị rắn hổ mang cắn: “Bạn thè lưỡi ra, con rắn hổ mang sẽ cắn vào lưỡi bạn và nọc độc khiến bạn cảm thấy tuyệt với.”
Cách Madras vài dặm, một nhà truyền giáo người Anh thấy tôi giữ chặt lấy cửa sổ, thở hổn hển với cái nóng trên tàu, nhưng ông ta phớt lờ tình trạng của tôi. Ông ta nói mình đang cáu giận ghê gớm song rất mừng khi biết tôi là (như tôi đã kể với ông ấy) một nhà báo; và kể một câu chuyện cho tôi nghe.
“Một số người Mỹ,” ông ta nói, “tự coi mình là những người theo đạo Cơ đốc, trả bốn rupi – đó là số tiền kha khá ở Madras – cho người rửa tội. Tại sao? Tôi sẽ cho ông biết. Để áp đặt những toan tính riêng, do vậy họ có thể lấy nhiều tiền từ giáo dân. Họ làm vậy là gây hại hơn là làm việc tốt. Khi nào quay về Mỹ tôi hy vọng ông sẽ nói về vấn đề này.”
“Rất vui được làm điều đó,” tôi nói. Liệu có ai chịu trách nhiệm cho những hội truyền giáo ăn đút lót chuyên nhận hối lộ từ lễ rửa tội, vui lòng thuyết phục họ rằng họ đang gây hại hơn là làm việc tốt?
Khi chúng tôi tới khu trung tâm Madras, những chiếc xe wallah có mui lao vào tôi giống như những con dơi, lặp đi lặp lại câu hỏi: “Ông đi đâu? Ông đi đâu?”
Họ cười khi tôi bảo mình đi Ceylon.
Đây là những gì tôi tưởng tượng ra: ở đâu đó, khi đi qua những lâu dài xây bằng thạch cao và gạch chạy từng hàng dọc đường Mount giống như những chiếc bánh cưới ngả màu vàng, là Vịnh Bengal, tại đó tôi sẽ gặp một nhà hàng hướng ra biển dìu dịu gió, những cây cọ, những chiếc khăn trải bàn bay lất phất trong gió. Tôi sẽ ngồi trước biển, dùng bữa tối với cá, uống năm cốc bia và ngắm nhìn ánh sáng nhảy múa trên những tàu có nhỏ vùng Tamil. Sau đó tôi sẽ đi ngủ và dậy sớm đón tàu tới Rameswaram, ngôi làng ấy nằm trên đỉnh mũi của Ấn Độ.
“Đưa tôi tới bãi biển,” tôi nói với người lái taxi. Anh ta là người Tamil, để râu rậm không cạo, mặc áo sơ mi phanh ngực. Anh ta có cái nhìn của một đứa trẻ hoang dã trong sách tâm lý: những đứa trẻ hoang dã, nhân vật Mowgli hung tợn và điên dại, có nhiều ở vùng Nam Ấn. Tương truyền chúng được chó sói nuôi.
“Đường Bờ Biển?”
“Nghe giống tên một địa điểm đấy.” Tôi giải thích rằng mình muốn ăn cá.
“Hai mươi rupi.”
“Tôi sẽ đưa anh năm rupi.”
“Ok, mười lăm. Lên xe đi.”
Chúng tôi đi khoảng hơn một trăm mét thì tôi nhận ra mình rất đói: trở thành người ăn chay bất đắc dĩ khiến cái dạ dày của tôi lúng túng nếu gặp phải đồ ăn thay thế không tốt. Rau khiến tôi nén cơn thèm ăn, nhưng lòng khao khát – sự rung động trước những món thịt – vẫn còn nguyên vẹn.
“Ông thích các cô gái Anh chứ?” Người tài xế đang quay vô lăng bằng cổ tay của mình với sức mạnh của một con sói, ngoặt xe lại.
“Rất thích,” tôi đáp.
“Tôi sẽ tìm cho ông một cô gái người Anh.”
“Thật á?” Đây không giống một nơi có thể tìm thấy một cô gái người Anh – Madras, một thành phố không có sự phồn thịnh rõ ràng nào cả. Ở Bombay tôi còn có thể tin vào điều đó: những doanh nhân Ấn Độ giàu có chạy ra chạy vào khách sạn Taj Mahal, phô bày sự giàu có và lái xe hết tốc lực vụt qua những kẻ ngủ lang trên vỉa hè – họ chắc chắn là những kẻ săn gái điếm. Và ở Dehli, thành phố của các đại biểu đi dự hội nghị, tôi đã được nghe kể rằng có nhiều gái điếm Anh lượn lờ qua hành lang các khách sạn sang trọng, cặp hông lắc lư hớn hở hứa hẹn những giờ vui vẻ. Nhưng còn Madras?
Người tài xế cứ quay xuống và làm dấu xin thề, vạch hai vạch chỗ tim bằng những chiếc móng tay dài của anh ta. “Gái Anh.”
“Anh nhìn đường đi!”
“Hai mươi lăm rupi.”
Ba đô la và hai mươi lăm xen.
“Xinh không?”
“Gái Anh,” anh ta nói. “Ông muốn không?”
Tôi nghĩ vấn đề kết thúc rồi. Không phải là về cô gái mà tình huống này không hấp dẫn nổi tôi. Một cô gái Anh ở Madras, làm điếm để kiếm một ít tiền. Tôi tự hỏi cô ta sống ở đâu và bằng cách nào, bao lâu, điều gì đã đưa cô gái tới nơi khỉ ho cò gáy này? Tôi nghĩ cô ta có thể là một kẻ sống lang thang, một người tị nạn, giống như Lena trong Victory (Chiến thắng) của Conrad, trốn khỏi ban nhạc lang thang ở Surabaya. Có lần tôi gặp một cô gái điếm Anh ở Singapore. Cô ta nói đang làm ăn phát đạt. Nhưng cũng không hẳn chỉ vì tiền: cô ta thích đàn ông Trung Quốc, Ấn Độ hơn là Anh, đàn ông Anh “chơi” lâu và tệ hơn là lúc nào cũng muốn phát vào mông cô ta.
Thấy tôi im lặng, người lái xe đi chậm lại. Xe cộ đông đúc nhưng anh ta vẫn vòng thêm một vòng nữa. Những chiếc răng sút của anh ta nhuộm nước trầu màu đỏ bóng lên, lấp lánh trong ánh sáng hắt từ chiếc ô tô bên cạnh. Anh ta hỏi: “Biển hay gái?”
“Biển,” tôi nói.
Anh ta lái thêm mấy phút nữa. Chắc chắn cô ta là người Anh-Ấn – “người Anh” chỉ là cách nói giảm.
“Gái.” Tôi nói.
“Gái, gái, trời ạ.” Dường như anh ta đang cố làm tôi phải thú nhận về một sự xấu xa đặc biệt.
Anh ta lắc vòng chiếc xe một cách liều lĩnh và tăng tốc về phía đối diện, nói lảm nhảm: “Tốt – những cô gái dễ thương – ông thích – nhà nhỏ – khoảng ba cây – năm cô gái.”
“Các cô gái người Anh?”
“Các cô gái Anh.”
Sự tin chắc thể hiện ra ngoài giọng nói, nhưng anh ta vẫ gật gù, có lẽ đang cố trấn tĩnh tôi.
Chúng tôi lái xe tầm hai mươi phút. Xe đi qua những con phố có các cửa hàng thắp đèn dầu; đi qua những của hàng dệt may sáng trưng, mấy người bán hàng mặc xà rông sọc đang giũ tung những súc vải vàng và những bộ xari trang trí nhấp nhánh. Tôi ngồi sâu vào ghế ngắm Madras lướt qua, những hàm răng và ánh mắt trong ngõ hẻm tối, người đi mua sắm đêm xách những chiếc giỏ đầy và những ô cửa bất tận phân biệt với nhau bởi những biển hiệu dễ nhớ: NHÀ ĂN TRƯA SANGADA, PHÒNG KHÁM VISHNU SHOE và NHÀ HÀNG NGÀN ÁNH SÁNG tối tăm buồn thảm.
Anh ta rẽ vào những con ngõ, chọn những ngõ hẻm chật hẹp không ánh đèn và sau đó chúng tôi đi trên một con đường bẩn thỉu. Tôi nghĩ rằng anh ta sẽ trấn lột tôi, rồi chúng tôi đi vào chỗ tối nhất của một con đường mấp mô – chỗ này là vùng nông thôn – anh ta táp về phía lề đường và tắt đèn, tôi dám chắc anh ta là một kẻ lừa bịp; bước tiếp theo của anh ta là thọc dao vào sườn tôi. Tôi ngu làm sao mới tin vào câu chuyện ngốc nghếch của anh ta về cô gái người Anh hai mươi lăm rupi! Chúng tôi đang ở xa Madras, trên một con đường hoang vắng, bên cạnh một cái đầm lầy loáng mờ vang tiếng ếch kêu và táp nước. Tay tài xế gật mạnh đầu. Tôi nhảy dựng lên. Anh ta lấy tay xì mũi rồi ném cái thành quả đó ra ngoài cửa xe.
Tôi nhấp nhổm bước ra ngoài.
“Ông ngồi xuống đi.”
Tôi ngồi xuống.
Anh ta lấy tay đám thụp vào ngực mình. “Tôi đi đây.”
Anh ta trườn ra khỏi xe và đóng rầm cửa, tôi thấy anh ta biến vào một ngõ nhỏ phía tay trái.
Tôi đợi cho tới khi anh ta đi khỏi, cho tới khi không còn nghe thấy tiếng bước chân anh ta trên cỏ, tôi từ từ mở cửa. Ngoài trời không khí mát dịu, thoảng mùi nước đầm lầy trộn với mùi hoa nhài. Tôi nghe thấy một vài tiếng người trên đường, tiếng những người đàn ông đang nói luôn mồm, cũng giống như tôi, họ đang ở trong bóng tối. Tôi có thể nhìn thấy đường xung quanh tôi nhưng cách vài mét trở đi mọi thứ biến mất. Tôi ước tính mình ở cách đường chính một cây số rưỡi. Tôi có thể tới đó tìm xe buýt.
Có vài vũng nước nhỏ trên đường. Tôi giẫm phải một vũng, cố thoát ra thì lại tõm xuống chỗ sâu nhất. Tôi chạy, lê chân nặng nề chậm chạp vì bùn nước.
“Ông ơi! Sahib!”
Tôi tiếp tục đi nhưng anh ta đã thấy tôi và chạy lại gần. Tôi đã bị bắt. “Ngồi xuống thưa ông!” anh ta nói. Tôi thấy có mình anh ta. “Ông đi đâu vậy?”
“Thế anh đi đâu thế?”
“Đi kiểm tra.”
“Gái Anh?”
“Không phải gái Anh.”
“Ý anh là thế nào, không có gái Anh?” Tôi sợ hãi, giờ đây dường như tất cả rõ ràng là một cuộc mai phục.
Anh ta tưởng tôi cáu giận. Anh ta nói, “Gái Anh – bốn mươi, năm mươi. Giống thế này này.” Anh ta tiến lại gần trong bóng tối tôi có thể nhìn thấy anh ta đang phồng má lên; anh ta nắm chặt bàn tay và khom vai. Tôi hiểu được thông điệp: một cô gái người Anh béo phị. “Gái Ấn – nhỏ, dễ thương. Ngồi xuống đi, chúng ta đi.”
Tôi chẳng có sự lựa chọn nào khác. Cứ điên cuồng phi xuống đường sẽ chẳng mang tôi tới đâu cả – anh ta có thể đuổi theo tôi. Chúng tôi trở lại xe taxi. Anh ta khởi động máy một cách bực dọc và chúng tôi nẩy lên nẩy xuống trên con đường đầy cỏ mà trước đó anh ta đi bộ qua. Chiếc taxi lắc lư từ bên này sang bên kia khi gặp ở gà và mức độ cứ tăng dần. Đây quả thực là vùng nông thôn. Trong bóng đêm bao trùm có một ngôi nhà nhỏ sáng đèn. Một cậu bé nấp ở ô cửa, ánh mắt long lanh như chờ đợi lễ hội ánh sáng Diwali: đèn xe chiếu sáng gương mặt cậu bé, cánh tay xương xẩu và làm đôi mắt cậu bé lấp lánh. Phía trước chúng tôi là một ngôi nhà khác, rộng hơn một tẹo, mái bằng và hai cửa sổ hình vuông. Ngôi nhà đứng đơn lẻ, giống như một cửa hàng ở trong một khu đất hoang. Những cái đầu tối sầm di chuyển ở cửa sổ.
“Ông vào đi,” người lái taxi nói và đỗ xe trước cửa. Tôi nghe thấy tiếng cười rúc rích, nhìn thấy những khuôn mặt đen tròn cùng mái tóc óng ả ở bậu cửa sổ. Một người đàn ông đang đội chiếc khăn xếp trắng tựa vào tường, ngay gần phía có ánh sáng.
Chúng tôi vào trong căn phòng bẩn thỉu. Tôi thấy một cái ghế và ngồi xuống. Một bóng điện mờ mờ cháy trên mấy sợi dây tóc nằm chính giữa trần nhà thấp. Tôi ngồi trên một chiếc ghế còn tốt – ghế của những người khác đều đã bị gãy hoặc rách đệm. Mấy cô gái đang ngồi trên một chiếc ghế gỗ dài. Họ nhìn tôi, trong khi những cô khác vây quanh tôi, véo tay tôi rồi cười. Các cô còn rất nhỏ, trông ngượng nghịu và hơi buồn cười, quá trẻ để bôi son, xỏ khuyên mũi, khuyên tai và vòng đeo tay. Những cành hoa nhài cài trên tóc làm cho các cô trong khá nữ tính nhưng màu son môi và đồ nữ trang to kềnh càng khiến các cô già hẳn đi. Một cô gái mập mạp giữ bên đầu cái đài bán dẫn kêu rè rè, nhìn tôi từ đầu tới chân. Các cô gái mang dáng vẻ của những nữ sinh đang mặc quần áo của mẹ. Không ai trong số các cô quá mười lăm tuổi.
“Ông thích đứa nào?” Đó là tiếng của người đàn ông đội khăn xếp. Anh ta chắc nịch và trông thô bạo với mái tóc hoa râm. Khăn xếp thắt trên đầu anh ta là khăn tắm.
“Xin lỗi,” tôi nói.
Một gã đàn ông gầy gò bước qua khung cửa. Khuôn mặt gã xương xẩu và láu cá, tay gã đút trong chiếc lungi. Gã chỉ vào một cô. “Chọn nó đi – được lắm.”
“Một trăm rupi cả đêm,” người đàn ông khăn xếp nói. “Năm mươi rupi một lần.”
“Anh ta nói giá hai mươi nhăm rupi.”
Người tài xế vặn vẹo tay mình.
“Năm mươi.” Người đàn ông tóc hoa râm nói chắc nịch.
“Thôi bỏ đi,” tôi thú thật. “Tôi chỉ đến để tìm đồ uống thôi.”
“Không có đồ uống,” người đàn ông gầy gò nói.
“Anh ta nói có một cô gái Anh.”
“Gái Anh nào?” gã gầy nói, tay xoắn một vòng dây trên chiếc lungi. “Những em Kerala này – trẻ, nhỏ nhắn, từ duyên hải Malabar đến.”
Người đàn ông đeo khăn xếp tóm lấy tay của một cô gái đẩy mạnh về phía tôi. Cô cười ré lên vui vẻ và nhảy ra.
“Ông xem phòng đi,” người đàn ông chít khăn nói.
Căn phòng trông ổn khi nhìn qua cánh cửa. Anh ta bật đèn lên. Có một cái giường: cùng cỡ với cái bên ngoài nhưng bẩn hơn và lộn xộn hơn, bốc mùi khủng khiếp. Chình giữa phòng là một chiếc giường gỗ trải chiếu tre, trên tường là sáu cái kệ, mỗi cái đặt một chiếc va li nhỏ có khóa thiếc. Góc phòng là một chiếc bàn méo mó, trên đó đặt vài lọ thuốc to nhỏ và một chậu nước. Co những vết cháy sém trên trần nhà lót gỗ ép, báo trải dưới sàn và dán trên tường, phía trên giường là những bức vẽ bằng than chì hình người không chân tay, chỉ có vú vê và bộ phận sinh dục.
“Nhìn đi!”
Người đàn ông nhe răng cười man dại, lao về phía bức tường phía xa và bật công tắc điện.
“Quạt!”
Cái quạt bắt đầu kêu kẽo kẹt phía trên chiếc giường dơ dáy, khuấy không khí bằng mấy chiếc cánh nứt và thậm chí làm cho căn phòng bốc mùi hơn.
Hai cô gái đi vào phòng ngồi lên giường. Họ cười và bắt đầu cời xari ra. Tôi chạy vội từ phòng tiếp khách ra cửa trước tìm người lái taxi. “Nào, đi thôi.”
“Ông không thích gái Ấn Độ? Gái Ấn dễ thương chứ?” Gã gầy gò bắt đầu quát thào. Gã quát anh lái xe bằng tiếng Tamil trong khi anh này cũng vội vàng như khi tôi bỏ chạy khỏi nơi đó vậy: anh ta vừa giới thiệu cho họ một khách hàng hụt. Lỗi của anh ta chứ không phải tôi. Những cô gái vẫn cười rúc rích gọi với ra, và ngài Gầy Gò vẫn quát tháo khi chúng tôi chạy ra khỏi ngôi nhà qua bãi cỏ cao trên con đường gồ ghề phía sau.
Tôi ăn bữa tối muộn được bày trên lá chuối trong một nhà hàng bẩn thỉu gần khách sạn tôi ở. Cửa sổ phòng khách sạn mở; tôi ngửi thấy mùi hoa ngọt ngào. Hương thơm hát reo khi tôi đọc cuốn Exiles: “Tôi chắc rằng không có phép tắc nào mà con người áp đặt là thiêng liêng trước khi có sự thôi thúc của niêm đam mê… Không có phép tắc nào trước khi có sự thôi thúc.” Mùi hương quen thuộc, đó là mùi hoa nhài. Tôi nghĩ về những cô gái, họ ngồi cười trong những căn nhà tồi tàn đó, cài những bông hoa trắng với những cánh hoa thật nhỏ.