Phía Đông Mặt Trời

Chương 38


Đọc truyện Phía Đông Mặt Trời – Chương 38

Ngày hôm sau, khi bữa sáng vừa kết thúc thì Jane Stephenson xuất hiện với một chú chó xù ôm gọn trong lòng, gợi ý cả ba nên có một chuyến du ngoạn đến hồ Pykeva. Khách sạn sẵn sàng cho xe ngựa phục vụ ba cô.

“Ở đấy yên tĩnh và an toàn không?”, Rose băn khoăn.

“Chống được cả bom”, bà chủ khách sạn hóm hỉnh trả lời cô.

“Xin nhớ một điều”, Jane nói tiếp, “tôi nghĩ chồng cô quả can đảm khi để cho vợ mình đi chơi trong hoàn cảnh như thế này”.

Tor ngồi cạnh Jane đang ngon lành nhai những mẩu bánh mì nướng, nghe đến đây lập tức tròn xoe đôi mắt, cơ thể động đậy khiến chiếc ghế lệch hẳn sang một bên.

“Thật sao?”, Rose vui vẻ.

Gã xà ích, một thanh niên bản địa khá điển trai, chiếc khăn vải dày cộp đỏ thắm đội trên đầu, những mảnh xà cạp cuốn chặt quanh bắp chân, cất tiếng chào ngay khi ba cô gái vừa bước chân lên xe. Tiếng roi da xé gió đánh đét vào cặp mông săn chắc của chú ngựa, chiếc xe lập tức lao vun vút trên con đường ngoằn ngoèo hướng đến khu vực hồ nước nằm im lìm dưới chân núi xanh ngắt màu lá. Trên cao, bầu trời lồng lộng, trong xanh không một gợn mây.

Đến giữa trưa, gã xà ích dừng xe trước một địa điểm dã ngoại tuyệt đẹp dưới chân những tán đa rợp bóng nhìn thẳng lên đỉnh núi. Cả ba cùng lột những tờ giấy gói bên ngoài những súc bánh mì còn tươi rói rồi xếp lên chiếc khay đã được lau sạch sẽ, tiếp theo là những lát bò rô-ti được thái mỏng tang, trứng trộn cà ri, xoài tươi, một chiếc bánh xốp hiệu Victoria khá lớn cùng bình nước chanh tự làm được gói cẩn thận trong những trang báo được xé ra từ tờ Thời báo Ootacamund nhằm mục đích ngăn không để nước thấm ra ngoài.

“Đây là chuyến dã ngoại thú vị nhất mà em từng được tham gia”, Tor ngoạm một miếng bánh xăng-đuých khá lớn, ngồm ngoàm nói. “Mà này, sao gã xà ích lại cho chị thấy chiếc dao găm sắc lẹm của gã dắt chặt dưới thắt lưng thế Viva?”.

“Để bảo vệ chúng ta trước badmash, những kẻ bất lương vẫn thỉnh thoảng lởn vởn quanh đây. Nhưng chúng ta được an toàn, hay ít ra như những gì anh ta nói với chị. Đây là Ooty, mảnh đất của những đua đòi chơi bời kệch cỡm, dân bản địa rất thích người Anh”.

“Cũng giống như những gì người ta vẫn nghĩ ở Amritsar”, Tor cợt nhả, “trước khi đầu mình bị cắt gọn”. 

Viva trả lời: “Người ta không cắt đầu…”.

“Thôi đừng nói đến chuyện ấy nữa”, Rose đột ngột ngắt lời Viva. “Em phát ốm với những câu chuyện kiểu như thế. Chúng xảy ra mọi lúc ở Poona”.

“Cậu nói đúng đấy, Rose”, Tor rót nước chanh ra ly, “không nên u sầu về những ngày đen tối, thế nên đừng ai đề cập đến chuyện tàu xe, quê nhà hay mẹ của tớ nhé. Hãy nâng ly vì chúng ta nào. Vì những câu chuyện phiếm”.

Sau bữa trưa, Viva rút tờ tập san trong túi ra ngoài, bắt đầu nguệch ngoạc viết. 

“Ôi, vì Chúa, Viva”, Tor quấy rầy, “dẹp mấy thứ ấy sang một bên và hãy cư xử như một người bình thường xem nào”.

Viva không nghe lời Tor. Ngồi trong xe ngựa, đầu óc cô miên man nghĩ về Talika, không hiểu sao, vào cái đêm trước khi cô rời khỏi Bombay, Talika chợt trào lên nỗi sợ hãi, con bé có cảm giác cô sẽ không bao giờ quay trở lại nơi này nữa. Viện cớ cần gặp, Talika đến văn phòng tìm cô, con bé ném thân mình nhỏ thó gầy gò của nó vào lòng chiếc ghế đối diện với Viva, và hỏi liệu khi cô quay trở lại nơi này có thể cùng Talika ra ngoài phố để tìm lại mẹ cho nó hay không.

Viva trấn an con bé: “Chắc chắn rồi, chúng ta sẽ đi tìm bà ấy”. Sau câu trả lời, trái tim cô chợt nhói đau. Đã mấy lần Daisy thử đi tìm mẹ cho con bé nhưng đều thất bại.

Talika kể với cô về mẹ nó: “Bởi vì cháu đang bắt đầu quên mẹ”, con bé nói, đôi mắt đen láy của nó dán chặt vào Viva.

Con bé cho cô xem một bức tranh do chính tay nó vẽ, một túp lều xiêu vẹo co ro trong màn mưa.

“Nhà của cháu”, Talika nói. Ba bóng người thấp thoáng bên ngoài túp lều của Talika, với những chiếc bình đội trên đầu. “Đây là nơi mẹ nướng bánh”. Con bé chỉ vào đốm lửa nhạt nhòa trên mặt đất. “Đây là cháu đang giúp mẹ. Còn kia là bà ngoại”. Talika chỉ vào một hình hài nguệch ngoạc nằm trên chiếc chõng. “Cháu đang nấu cho bà món đậu”.

Đôi mắt con bé buồn rười rượi khi kể cho Viva nghe về ký ức của mình. “Chúng là bhoot kal của cháu”. Talika gấp mẩu giấy lại và cẩn thận đút sâu vào túi áo của nó.

“Bhoot kal nghĩa là gì?”. Về sau Viva thắc mắc với Daisy.

“Bóng ma thời gian”, Daisy gọn lỏn.

Viva ngừng viết. Những ngọn đồi thấp thoáng phía đằng xa, miệng cô thoang thoảng vị chanh, mùi hương gợi lên trong cô những ký ức nhập nhòa của những ngày xa xưa, mơ hồ như một khoảng trống nằm thu mình giữa màn sương mù giăng kín, đầy ắp bối rối, thấp thoáng, cơ hồ lúc gần gũi, khi xa lạ, từ giữa khoảng trống cô đơn ấy, cô nhìn thấy một cành cây khác với những con khỉ bám trên từng nhánh chạc, một người đàn bà đang kinh hoàng run rẩy trước đàn khỉ, những tiếng người đặc sệt giọng Anh rộ lên, tiếng cười nói xen lẫn với tiếng thét gào sợ hãi. 


Những dòng ký ức lại nối nhau ùa về trong cô – Viva nhìn thấy mẹ đang ôm mặt khóc giữa buổi dã ngoại của gia đình. Tại sao bố cô lại dẫn mẹ ra ngoài tán cây? Có phải ông ấy đang dỗ mẹ nín? Có phải ông ấy đang an ủi mẹ? Sao lòng cô lại nhói đau khi nhớ lại những kỷ niệm ngày nào? 

“Viva”. Tor giật mẩu bút chì trên tay cô. “Trông vẻ mặt chị nghiêm trọng quá. Nhấm nháp một chút đi”. Tor dúi vào tay Viva một mẩu bánh ngọt.

Viva cắn một chút bánh. Ngon tuyệt – hương bơ thoang thoảng và mùi kem lòng trắng trứng hòa quyện cùng vị chanh tươi mát.

“Tuyệt vời, đúng không nào?”, Tor chăm chú nhìn Viva trong lúc cô nhẩn nha thưởng thức miếng bánh, mỉm cười. “Liệu nó có khiến chị ca tụng khắp nơi được không?”.

“Ngon tuyệt”. Viva mỉm cười với Tor. Một trong những điều khiến cô thích thú ở Tor, và Viva biết cô sẽ nhớ rất nhiều tính cách dễ thương ấy khi Tor quay về quê nhà, ấy là lòng nhiệt tình của Tor trước những điều tưởng chừng hết sức nhỏ nhặt – bánh chanh, thạch cuộn, những chú chó, hoàng hôn.

Lòng nhiệt tình. Viva ngẩng đầu nhìn vệt mây màu xám đang lững thững trôi ngang bầu trời. Thật mỉa mai làm sao, William, con người ít nhiệt tình nhất mà cô từng gặp, lại chính là kẻ đã giải thích cho cô hiểu ba tiếng ấy có nghĩa là gì trong một buổi thuyết giảng về ngôn ngữ Hy Lạp.

“Nó có nghĩa bị ám ảnh bởi thần linh”, William giải thích với cô, rõ ràng từng tiếng một.

Trong buổi tối hôm ấy – khi cả hai ngồi bên nhau trong nhà hàng Wheeler ở Soho, cùng thưởng thức món kem sô-cô-la, đặc sản của nhà hàng – bất chợt William thốt lên với cô, rằng khổ đau là cốt lõi của đời người. “Đấy là sự thật”, anh nói, “mà những giáo lý của đạo Phật và đạo Thiên Chúa đều có chung quan điểm”.

Khi cô hào hứng kể với anh, rằng lúc nào cô cũng có cảm hứng với những điều tưởng chừng rất nhỏ nhặt trong cuộc sống, rằng nhiều khi cô có cảm giác không thể chờ đợi đến bình minh để thức dậy bắt đầu một ngày mới. Anh nhăn mặt, im lặng lắng nghe cô ríu rít bên mình.

“Anh không nói”, cuối cùng thì William cũng lên tiếng, khá miễn cưỡng và hơi gắt gỏng, “về những điều anh không hề biết, những con búp bê, lũ ngựa Pony, mùi vị cà phê… Đấy là những điều mọi người vẫn thường trao đổi với nhau trong các cuộc chuyện trò: là anh đang nói về thực tế và hạnh phúc lâu dài. Anh tin rằng nếu điều đấy tồn tại, chúng chỉ xuất hiện trong công việc, từ ý thức kỷ luật tự giác và không bao giờ hy vọng sẽ nhận được nhiều hơn những gì mình đã cho đi, bởi nếu không, chính niềm mong chờ ấy sẽ khiến em thất vọng tràn trề”.

Viva duỗi người trên tấm chăn, nhắm mắt và xua tan những ký ức về William đang ám ảnh trong cô. Thật dễ chịu biết bao sau khi thoát khỏi những bận rộn và nóng nực ở Bombay, mơ màng gà gật trên một tấm chăn đơn, với những người bạn thân thiết bên cạnh, cùng nhau chia sẻ giọt nắng xuyên qua kẽ lá đậu xuống mí mắt, cùng lắng nghe tiếng gió vi vu trên những tán thông cao vút, rì rào như tiếng sóng biển vọng về từ khơi xa. Trước khi chìm sâu vào giấc ngủ, cô lờ mờ cảm nhận được vị chanh thanh thanh đọng lại trên khóe miệng, rồi bất ngờ, cô mơ màng thấy khuôn mặt của Frank đang cúi xuống nhìn cô, và đôi môi của anh từ từ lướt nhẹ lên môi cô.

“Ôi lạy Chúa!”.

Cô ngồi phắt dậy, va vào Tor đang nằm bên cạnh. 

“Có chuyện gì vậy?”, Tor ngái ngủ hỏi. “Chị bị ong đốt à?”.

“Chị không sao”, Viva vòng tay bó gối, lẩm bẩm. “Không sao. Chị chỉ giật mình một chút ấy mà”.

Cô nằm xuống, tim đập rộn ràng như thể vừa thoát khỏi một tai nạn thảm khốc, trong đường tơ kẽ tóc.

Mình không nên nghĩ về anh như thế, Viva tự nhủ, và cố gắng tập trung tâm trí để nhớ lại những điều cô không thích ở anh. Bắt đầu: quá quyến rũ, trong suy nghĩ có phần khắt khe của mình, cô sẽ cho đấy là biểu hiện của tính tự cao tự đại hoặc thiếu cẩn trọng, hoặc lười biếng, bởi với lợi thế thiên phú ấy, nó giống như trò bịp bợm bói toán với năm quân bài toán học mỗi ngày trong cuộc đời, cho đến khi bạn trở nên nhạt nhòa. Viva hiểu có thể cô đã bất công khi nhìn nhận không công bằng về những nỗi đau trong cuộc đời Frank, và sự thật, anh đã rất nghiêm túc với nghề y khoa mà anh luôn tỏ thái độ chỉ xem như một cuộc dạo chơi… Và, ôi, lúc nào Frank cũng ăn mặc hết sức tuềnh toàng, đã thế tóc tai lại còn bờm xờm như thể sẵn sàng để cắt gọn đến nơi. Nhưng nụ cười ấy, nụ cười như thiên thần ấy, cô đã nhiều lần được chứng kiến trong những ngày lênh đênh trên con tàu giữa đại dương bao la, nụ cười của anh đã làm tan chảy bao trái tim thiếu nữ khờ khạo. Cô phải giữ mình tránh xa khỏi nó. Chính xác, phải thật dứt khoát ngay từ đầu; cô vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng vào anh. Sự hấp dẫn – William cũng từng rao giảng cho cô nghe về nghĩa gốc của cụm từ này – “sự hấp dẫn”, anh nói, “không phải đề cập đến vẻ bề ngoài hay những nét hào nhoáng vụt đến vụt đi của sự vật, nó có nghĩa là khả năng thể hiện sự quyến rũ”. Có lẽ đấy là những gì cô cảm nhận khi được Frank ôm gọn trong vòng tay rám nắng của anh giữa buổi tiệc khiêu vũ đêm nào, cô đã chuếnh choáng, đã bối rối, nhưng không hề có động thái nào vượt quá giới hạn cho phép. Anh chỉ có thể sử dụng sự hấp dẫn của mình để quyến rũ những kẻ yếu đuối, cô nhủ thầm, bắt đầu mơ màng ru mình vào giấc ngủ. Để tồn tại, cô cần phải vận dụng tất cả trí tuệ để đấu tranh với chính bản thân mình.

Trời đột ngột đổ mưa. Khi cô đứng dậy, gã xà ích xuất hiện trước mặt, chỉ tay sang bên kia bờ thung lũng, nơi những đám mây xám xịt đang cuồn cuộn xô nhau trôi về trời.

“Bực mình thật!”, Tor chán nản. “Chúng ta sắp ướt như chuột lột đến nơi”.

Chiếc xe ngựa phi như bay về khách sạn, khi chú ngựa ghìm cương dừng trước cửa, cả ba cô gái đều ướt sũng.

Rose hối nhả giương ô cắm đầu chạy ào vào nhà, cô chưa kịp đặt chân lên hiên đã phải giật mình đứng sững lại, mũi đập vào đầu Viva lúc bấy giờ đang chạy phía trước đã đột ngột đứng như trời trồng nhìn lên hàng hiên khách sạn.

Frank đang đứng trước ngưỡng cửa, mỉm cười với ba cô gái dưới mưa. Vẫn chiếc áo khoác may bằng vải lanh nhàu nhĩ quen thuộc, chiếc mũ cuộn tròn nằm gọn trong tay.

Tim Viva suýt nhảy khỏi lồng ngực khi cô nhìn thấy anh, trong khoảnh khắc, cô bỗng trào lên cảm giác hờn giận đến cùng cực. Không thể tưởng tượng được anh lại xuất hiện đúng vào thời điểm giữa chuyến dã ngoại như thể đấy là tất cả những gì bọn cô mong muốn.

“Thưa quý bà”, anh hài hước nghiêng mình dịu dàng đặt nhẹ một nụ hôn lên bàn tay Rose. “Lắm chuyện bực mình đang diễn ra ở Bombay, và tôi nghĩ mình nên đến đây để hộ tống các cô về nhà”.


“Ôi, thôi nào, Frank”. Những giọt nước mưa vẫn còn nhỏ tong tong trên người Tor xuống đất, khuôn mặt cô ửng hồng. “Anh không thể lừa được em đâu. Em biết chính xác vì sao anh có mặt tại đây”.

Viva liếc mắt sang Tor. Cô khẽ bấm ngón tay mình vào lòng bàn tay Tor.

“Frank”, cô điềm tĩnh bắt tay anh. “Điều gì mang anh đến đây thế?”.

“Anh đã đặt trà”, anh nói với cô, “chúng ta vào phòng khách nói chuyện cho ấm cúng”.

Ba cô gái nhanh chóng chạy về phòng thay quần áo ướt, một lúc sau đã kéo nhau quay trở lại phòng khách, những tấm rèm cửa đỏ chót được kéo lên, ngoài trời giăng kín màn mưa. Frank ngồi trên tay ghế, lưng quay về phía lò sưởi, hai chân duỗi rộng thoải mái.

Bunty đưa cho Frank tách trà đầu tiên, xắn nắn lấy mứt và bánh ngọt cho anh. Viva lơ đễnh lắng nghe tiếng tích tắc phát ra từ chiếc đồng hồ cũ kỹ treo gần cửa sổ, cô chợt nhận ra đôi mắt của anh đang chăm chú nhìn mình sau tách trà nghi ngút khói. Bối rối, Viva quay mặt sang hướng khác, hào hứng kể cho Bunty nghe những chuyện thú vị diễn ra trong ngày hôm nay, ở khu dã ngoại. Sau đấy Viva hỏi Bunty về loài chim cổ đỏ lông xanh mà cô đọc được trong cuốn sách về các loài chim, rằng nó có xấc xược như giống chim cổ đỏ ở Anh không?

Sao mà gượng gạo thế, những câu chuyện vu vơ cô trao đổi với Bunty – hệt như điệu bộ của một bà cô già ế chồng.

“Phải, chúng rất tuyệt, rất hấp dẫn”, Bunty hờ hững đáp chuyện Viva, bà đã nghe những câu hỏi kiểu như thế hàng trăm hàng ngàn lần từ chính những vị khách lúc nào cũng hăm hở tìm hiểu mỗi khi đến nghỉ ở đây, rồi quay sang sốt sắng với Frank về những câu chuyện liên quan đến nghề bác sĩ của anh ta, khá tinh quái khi bảo: “Ý tôi là thực ra anh đang làm việc trong một bệnh viện ở Bombay?”, Bunty hỏi, cứ như thể Frank đang bước những bước cuối cùng trên nấc thang dẫn xuống địa ngục. “Dũng cảm quá! Anh có được người dân địa phương gọi bằng cái tên niswarthi không?”. 

“Nó có nghĩa là gì?”, Tor huỵch toẹt. Cô nhìn chằm chằm vào Frank khi anh nói.

“Đấy là tiếng Hindi, ám chỉ một người giàu lòng vị tha”. Ánh mắt của Bunty rạng rỡ nhìn sang Frank.

“Ôi Chúa ơi, không, không được vậy đâu”. Frank duỗi chân, mỉm cười. “Tôi chỉ làm nghề bác sĩ vì bia và thuốc lá thôi”.

Sau khi Bunty quay trở lại với công việc, một người làm bước vào phòng khách, lẳng lặng kéo rèm lên, thắp nến và khều bấc đèn cho rạng, xong xuôi lại lặng lẽ bước ra ngoài, cánh cửa được khép kín sau lưng.

“Frank này”, Rose rạng rỡ, chỉ còn lại bốn người bên nhau, “kể cho bọn em nghe về những phiền phức đang diễn ra ở Bombay đi, hay đấy chỉ là cái cớ để được tham gia vào kỳ nghỉ của câu lạc bộ những cô gái xinh đẹp và vui vẻ?”.

“Thật không may là không như em nói”. Frank dịch ghế quay lưng ra phía cửa sổ. Vẻ hài hước biến mất trên khuôn mặt anh. “Người Hồi giáo và người Hindu đang tụ tập gây rối trên đường phố ở Bombay suốt hai hôm nay. Không có gì lạ cả, nhưng một số kẻ bỗng trở nên quá khích, hung dữ khác thường: anh đã nhìn thấy chúng thiêu cháy một người đàn ông trên phố. Chúng đã tưới dầu lên người anh ta, kẻ xấu số đã ngùn ngụt bốc cháy như những ngọn lửa trong đêm lễ kỷ niệm sự kiện đánh bom tòa nhà quốc hội năm nào vậy”.

“Chúa ơi”. Viva lập tức nghĩ về mái ấm tình thương nơi cô đang làm việc, về Suday và Talika, về Daisy và gia đình ông Jamshed.

“Cũng chưa đáng lo lắm”, Frank tiếp tục, “khu vực quân sự quanh Mandvi vẫn bình thường. Byculla khá yên tĩnh, cả khu vực đồi Malabar cũng thế. Tất cả sẽ sớm hỗn loạn ngay khi tình hình trở nên phức tạp. Nhưng anh không thích ý tưởng trở về thành phố một mình của bọn em, mà anh lại được nghỉ những hai ngày”.

Frank nhìn thẳng vào mắt Viva như thể đang giải thích cho riêng mình cô.

“Anh nghĩ chúng ta nên quay về vào thứ Ba – hôm ấy sẽ có một cuộc mít tinh biểu dương lực lượng, chắc chắn sẽ có những cuộc tụ tập gây bạo động ở khu vực quanh nhà ga VT. Bệnh viện đã sẵn sàng tăng thêm giường. Chồng em đã gọi điện cho bà Mallinson”, Frank nói với Rose. “Cậu ta dự định sẽ bắt xe lửa từ Poona đến Bombay để đón em, nhưng không thể – tất cả các chuyến tàu đều bị hủy”.

Rose đứng dậy, mái tóc dài vàng mượt của cô xõa xuống ngọn đèn, suýt bắt lửa. Cô than mệt và xin phép mọi người đi nghỉ. Trước khi biến mất sau cánh cửa, Rose quay lại nói với cả ba, rằng hôm nay là một ngày tuyệt vời, cô sẽ không bao giờ quên.

“Không có gì phải lo lắng cả”, cô nhắc lại lời mình.

“Ai lo lắng kia chứ?”, Tor nói, đứng dậy. “Bất kể chuyện gì ngăn cản chuyến trở về nhà lần này của em đều là điều tốt”. Cả ba cùng phì cười trước lời đùa cợt của Tor, nhưng cô hoàn toàn nghiêm túc.

Mưa vẫn rào rạt trên mái nhà, đập vào cửa sổ tạo nên âm thanh hệt như tiếng của những viên đá cuội chọi nhau.

“Em chuẩn bị đi ngủ”. Viva đứng dậy.


“Ở lại một chút”, anh nói. “Anh cần nói với em chuyện này. Ngồi xuống đi”.

Frank chúi người về phía trước, nắm lấy tay cô.

“Thật không dễ dàng khi nói với em chuyện này, nên anh sẽ nói rất nhanh. Có tin đồn Guy đã bị sát hại. Anh xin lỗi”.

“Cái gì?”, cô ngẩn người nhìn anh, mãi một lúc sau Viva mới lắp bắp thốt nổi thành lời. “Anh vừa nói cái gì?”.

“Chỉ là tin đồn”, Frank nói. “Nó có thể sai, bên cảnh sát nói họ không thấy thằng bé ở trong nhà trọ nữa, và khi bọn họ liên hệ được với bố mẹ Guy, ông bà ấy đã bảo mấy tuần nay họ không còn gặp Guy. Một chiếc áo choàng bị đốt cháy nham nhở với tên của nó viết bên trong được tìm thấy tại một góc phố gần nơi em ở. Hình như nó đã chuyển đi từ một tháng trước”.

“Tuần trước nó vừa ở đây”. Một cơn co thắt quặn lên trong dạ dày Viva. “Em không hiểu gì cả”.

“Anh cũng thế”.

“Sao anh lại nói không có gì xảy ra ở Byculla?”.

“Ngoài chuyện ấy ra, thì không có gì cả”.

“Thế ông Jamshed có biết chuyện này không?”.

“Không. Ít nhất là như anh biết. Và không có gì phải lo lắng cả, nhưng anh nghĩ em nên biết chuyện này, hay ít nhất em phải được cảnh báo”.

“Ai nói với anh?”.

“Một cảnh sát, một viên cảnh sát ở Byculla. Anh ta là người duy nhất theo dõi mọi động thái của Guy”.

“Ôi không!”, Cô cảm nhận được dòng nước đang túa ra trong miệng mình. “Anh đang nói bọn họ đã thiêu sống nó?”. Cô cảm thấy buồn nôn.

Frank nhẹ nhàng ấn cô ngồi xuống ghế.

“Anh không biết”, anh trả lời.

Cô đưa tay quẹt ngang mắt, lắc đầu. “Nói cho em biết chuyện gì đã xảy ra”.

“Thực ra không ai biết chính xác, nhưng cảnh sát nói với anh, rằng người đàn ông bị Guy tấn công trên tàu có một người anh trai tên là Anwar Azim. Ông ta là một kẻ rất có thế lực, có chân trong tổ chức liên đoàn Hồi giáo toàn nước Ấn, cái tổ chức mà Guy, không hiểu vì lí do gì đã tham gia vào đấy. Azim đã yêu cầu tay chân điều tra về vụ xô xát xảy ra trên con tàu từ mấy tháng trước – có thể chúng đã hối lộ những thủy thủ người Ấn – và nhanh chóng nắm bắt được toàn bộ sự việc”.

“Nhưng chắc chắn cảnh sát sẽ làm gì đấy để can thiệp chứ?”.

“Không cần thiết. Hết sức chân thành mà nói, vụ này quá lộn xộn. Nó sẽ không thể được giải quyết trong quãng thời gian tồi tệ như lúc này”.

“Như thế là tồi tệ sao?”.

Giọng cô bắt đầu run rẩy. Anh vòng tay ngang người cô, nhưng Viva đã gạt đi.

“Không một ai thực sự biết rõ tận chuyện này cả”. Anh vẫn cố xoa dịu cô.

“Không, làm ơn dừng lại”, cô phản kháng. “Đừng cố thuyết phục bằng giọng điệu ấy. Hãy nói với em sự thật. Ôi, Guy!”. Đột nhiên hình ảnh thằng nhóc ùa về trong cô: như một con búp bê vải chìm trong biển lửa.

“Anh vẫn chưa biết sự thật”, Frank nói. “Chỉ là những tin tức đồn thổi ngẫu nhiên mà thôi”.

“Chẳng hạn như?”.

“Ừm”, anh nhìn cô, lo lắng, “có thể nó đã sớm bị tách ra ở một bữa tiệc, và rồi mọi chuyện đều có thể xảy ra, hoặc không có gì cả, không một ai biết chính xác”.

“Ai kể cho anh nghe chuyện này? Ý em là chuyện liên quan đến Guy ấy”. Đầu óc cô choáng váng.

“Cảnh sát. Họ nói với anh như thế”. Anh đưa cho cô một chiếc ví khá mỏng và một xấp ảnh. “Họ bảo chúng là của thằng bé. Họ nhờ anh gửi về cho bố mẹ nó”.


“Có lẽ chúng ta nên xem qua mấy thứ này trước đã”.

“Anh đã xem rồi. Có một số tấm chụp em. Xem này”. Frank chỉ một tấm ảnh chụp Viva đang bước đi trên con phố gần trung tâm mái ấm tình thương. Trong tấm ảnh, cô mặc một chiếc váy mùa hè, mỉm cười với Parthiban, ông già bán xoài ven đường. Phía dưới tấm ảnh, một dòng chữ nguệch ngoạc, kiểu chữ của trẻ con, được viết bằng mực đen, Mataji – mẹ tôi.

Trong tấm ảnh thứ hai, cô đang ngồi trên bãi biển Chowpatty, Talika cuộn mình trên cát, im lìm ngủ bên cạnh. Bầu trời trên đầu Viva tràn ngập những cánh diều. Dưới bức ảnh, nó viết sai chính tả tên cô, Viva Hallaway, cùng một câu, Cô ấy là Cain, hay cô ấy là Abel? 

“Nó đã theo dõi em”, cô nói.

“Nếu không phải là em, thì sẽ là một người khác”, Frank nói. “Nó trở nên liều lĩnh đến tuyệt vọng với những ai nó yêu mến, hoặc trách cứ”.

“Thật kinh khủng”. Cô run rẩy. “Em không hề quý mến gì thằng nhóc, thậm chí còn ghét cay ghét đắng nó. Lẽ ra em không nên nhận lời làm bảo mẫu cho nó”.

Cô cảm nhận được vòng tay của Frank quàng qua vai. “Không phải lỗi của em”, anh nhẹ nhàng nói với cô. “Nó được gửi về Anh, một thân một mình khi chỉ là một cậu bé sáu tuổi. Nó đã hư hỏng kể từ thời điểm ấy – mặc dù nó hoàn toàn nhận thức được điều đấy. Anh tin chắc nó có vấn đề về tinh thần, khá nghiêm trọng”.

Một đốm lửa bùng lên trong lò sưởi. Cô nhìn thấy khuôn mặt Guy thoắt ẩn thoắt hiện trong ngọn lửa – đôi mắt nó trừng trừng nhìn cô, hai hàm răng nhăn nhở.

“Em nghĩ không nên kể với Tor và Rose khi mọi chuyện còn chưa rõ ràng”, Viva nói. “Hẳn sẽ khiến hai cô gái kinh hoàng khi chúng ta tin chắc chuyện này là thật”.

Frank khẽ lắc đầu. “Anh cũng nghĩ như vậy”, anh nói. “Nhưng như thế em sẽ phải một mình gánh vác chuyện này”.

“Chị Daisy có biết không?”.

“Vẫn chưa”.

Cô đứng dậy, định đi ngủ, nhưng đột nhiên thấy choáng váng, rơi trở lại trong vòng tay của Frank.

“Để anh giúp em”, Frank thì thầm.

“Em ở trong chái nhà bên kia bãi cỏ”, cô nói.

Khi cả hai băng qua bãi cỏ ướt sũng nước, một cơn gió bất ngờ thốc tới thổi tung vạt áo khoác của cô, cả thảm cỏ tắm trong vầng sáng yếu ớt của những ngọn đèn ven sườn đồi hắt bóng xuống thung lũng.

“Gió mạnh đang thổi đến”, anh nói với cô.

“Kinh khủng, kinh khủng, thật kinh khủng”. Cô nức nở, đầu óc choáng ngợp hình ảnh Guy phừng phừng bốc cháy, ngọn lửa liếm trên mái tóc, lên quần áo nó. “Thằng bé không đáng bị như thế”.

Cánh tay của Frank vẫn quàng qua vai cô.

“Chúng ta vẫn chưa biết sự thật”, anh nói. “Cứ vững tâm – mảnh đất này đầy rẫy những tin đồn”.

Một tràng sấm đột ngột rền lên từ trên cao, mưa ào ạt trút xuống mỗi lúc một dày đặc, cả hai đều ướt sũng.

Tay Viva run rẩy mò mẫm lần tìm trong chiếc túi xách đeo bên mình, phải mất khá lâu cô mới tìm được chìa khóa phòng. Khi Viva ngẩng đầu lên trao chiếc chìa khóa cho Frank, chiếc sơ mi ướt sũng của anh dính bết vào người làm lộ ra những chiếc xương sườn và một mảng vai khỏe khoắn, những đường cong nơi phần eo của người đàn ông trẻ tuổi hiện rõ dưới ánh sang chói lòa của những tia chớp.

“Em ướt sũng cả rồi, Viva”, Frank nói. Khi anh chạm vào người cô, Viva bật khóc, ngón tay anh nhẹ nhàng mơn man trên người cô, bắt đầu từ hai vai, lần xuống bụng, lướt trên cánh tay mềm mại của cô. Viva nhắm mắt, gục đầu vào vai anh.

Trong căn phòng của Viva, một ngọn đèn nhỏ được đặt đầu giường ngủ. Chiếc váy của Viva rơi trên sàn nhà, mấy chiếc bút chì, một bình nước và mấy tờ tạp chí nằm im lìm trên mặt bàn. Anh rút một chiếc khăn bông trên giá đỡ phía đầu giường, âu yếm lau khô những giọt nước mưa dính bết trên khuôn mặt, trên mái tóc cô. Viva im lặng, nước mắt không ngừng tuôn rơi trên đôi gò má nhợt nhạt, người cô run lên từng chặp. Nhẹ nhàng, anh lau khô mái tóc cô, gỡ chiếc áo khoác ướt sũng ra khỏi người cô, rồi đến chiếc áo len chui đầu, Frank vứt tất cả xuống sàn nhà. Anh quấn một chiếc khăn khô quanh người cô.

“Ở lại đây với em thêm một lúc nữa”, cô run rẩy nói với anh khi Frank dợm bước chuẩn bị quay lưng, hai hàm răng cô lập cập đánh vào nhau.

Khi Frank nằm xuống, cô vòng tay ôm chặt lấy anh như một đứa trẻ, hai mắt nhắm nghiền. Tiếng mưa vẫn đều đặn rơi lộp độp trên mái nhà, giữa tiếng gió thét gào ngoài cửa sổ, mọi thứ bỗng chốc trở nên đơn giản khi cô kéo anh nằm lên người mình: niềm khao khát cháy bỏng của cô và cơ thể cường tráng của anh đang đè nặng lên cô, đã hoàn toàn xua tan nỗi sợ hãi chết chóc trong lòng. 

Khi những đam mê khao khát đã lụi tàn, anh nhìn cô. Hai người im lặng nhìn nhau, run rẩy và sợ hãi. Anh dìu cô ngồi dậy, rên nhẹ rồi khe khẽ lắc đầu. 

“Đừng nói yêu em”, giọng cô run rẩy.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.