Phía bên kia nửa đêm

Chương 35part 2


Đọc truyện Phía bên kia nửa đêm – Chương 35: part 2

Catherine ngồi trên xe hơi chạy dọc các phố xá Athens về khách sạn của họ, nàng kinh ngạc trước những đống hoang phế và tượng đài liên tục xuất hiện xung quanh họ.
Nàng thấy ở đằng trước một cảnh tượng ngoạn mục, đền Parthenon bằng đá cẩm thạch trắng nổi cao trên đỉnh đồi Acpropolis. Khách sạn và các dinh thự công sở ở khắp nơi, tuy nhiên Catherine có cảm giác kỳ quặc rằng những công trình mới chỉ có tính chất tạm bợ, nhất thời, trong khi đền Karthinon sẽ vĩnh viễn bất tử giữa bầu không khí trong vắt.
– Hùng vĩ đấy chứ? – Larry cười nói – Cả cái thành phố này đều như vậy. Một đống hoang tàn khổng lồ và rất đẹp.
Họ đi ngang qua một công viên lớn ở trung tâm thành phố với những vòi phun nước uốn éo ở công viên. Hàng trăm chiếc bàn với những cột màu xanh và da cam xếp dọc công viên. Bầu trời giăng giăng trên đầu họ như một tấm bạt xanh lớn.
Đây là quảng trường Nhấm Nháp(1) – Larry bảo.
– Cái gì cơ?
– Tên thực của nó là quảng trường Hiến Pháp. Song dân chúng thường ngồi ở bàn này suốt ngày uống cà phê Hy Lạp và ngắm nhìn sự đời diễn ra.
Hầu như ở khối nhà nào cũng có những quán cà phê ngoài trời ở các góc phố người ta bán những bọt biển mới bắt được. Đâu đâu cũng thấy người bán hoa, các quán hoa của họ đầy những loại hoa màu sắc rực rỡ.
Catherine nhận xét:
– Thành phố này trắng quá cho nên thật chói chang.
Căn phòng kép ở cửa khách sạn rộng và duyên dáng, trông ra quảng trường Syntagina, một quảng trường rộng ở giữa thành phố. Trong phòng có bầy nhiều hoa và một bát to đựng nhiều trái cây tươi ngon.
Sau khi đi xem một lượt căn phòng, Catherine bảo:
– Em thích lắm.
Người trực tầng đặt những chiếc valy của nàng xuống.
Larry cho hắn tiền puốc boa, thằng bé nói:
– Parapobe.
– Parakelo – Larry đáp lại.
Thằng bé đi xa, khép cửa lại đằng sau nó.
Larry tiến lại, choàng tay ông lấy Catherine.
– Chúc mừng em đã tới Hy Lạp.
Chàng háo hức hôn nàng và áp sát toàn thân chàng vào người nàng. Nàng cảm nhận chàng đã nhớ nàng vô cùng, nàng thầm mừng như vậy. Chàng đưa nàng vào phòng ngủ.
Trên chiếc bàn gương có một gói nhỏ, để lộ ra một chiếc hộp nhỏ, bên trong là một con chim bé xíu chạm bằng ngọc. Larry bận như vậy mà vẫn nhớ đến quà.
Catherine rất cảm động. Dù sao con chim này cũng là một tấm bùa, một điềm lành cho thấy mọi việc tiến hành suôn sẻ rằng những chuyện quá khứ đến dây là chấm dứt.
Trong lúc họ ân ái, Catherine thầm cầu nguyện, tỏ lòng biết ơn vì nàng được nằm trong vòng tay người chồng mà nàng yêu dấu vô cùng, được sống ở một trong những thành phố thú vị nhất thế giới và bắt đầu một cuộc đời mới. Chàng Larry cũ lại đây rồi, và toàn bộ vấn đề của họ chỉ là làm sao củng cố cho cuộc hôn nhân của họ thêm bền chặt. Không có gì có thể khiến họ tổn thương được.
Sáng hôm sau Larry thu xếp với một công ty nhà cửa tới đưa Catherine đi xem một số căn nhà. Nhân viên đi cùng nàng là một người thấp lùn, da đen sẫm, ria mép dầy, tên là Dimitropolous. Ông ta nói liến thoáng bằng một thứ ngôn ngữ mà ông tin là tiếng Anh hoàn hảo, nhưng trong đó xen vào những từ Hy Lạp thỉnh thoảng lại kèm một cụm từ tiếng Anh mà không tài nào hiểu được nghĩa là gì.
Catherine cũng đành tùy thuộc vào ông ta thôi (sau này trong nhiều tháng nàng cũng thường áp dụng cách ứng xử như vậy) nàng đề nghị ông nói thật chậm để nàng có thể chọn ra một số từ tiếng Anh và cố đoán xem ông ta định diễn đạt cái gì.

Địa điểm thứ tư ông đưa nàng tới là một căn nhà gồm bốn phòng sáng sủa, chói chang ánh nắng, sau này được biết nó nằm ở khu Kolonski một khu ngoài ô sang trọng ở Athens, với những ngôi nhà cư dân đẹp đẽ và những cửa hiệu lộng lẫy.
Tối hôm đó, khi Larry trở về khách sạn, Catherine kể cho chàng nghe về căn nhà đó và hai ngày sau họ dọn đến nhà mới.
Larry đi vắng suốt ngày nhưng chàng cố gắng có mặt ở nhà để ăn bữa chính với Catherine. Bữa chính ở Athens là vào quãng chín đến mười hai giờ trưa. Từ hai giờ đến năm giờ mọi người nghỉ ngơi, các cửa tiệm mở đến tận khuya. Catherine cảm thấy hoàn toàn bị thành phố này cuốn hút. Đến đêm thứ ba ở Athens, Larry đưa về một người bạn mới, đó là Bá tước George Pappas, người Hy Lạp tuổi trạc bốn lăm đầy hấp dẫn, dáng người cao gầy, mái tóc đen, nhưng điểm bạc hai bên thái dương. Ở ông ta có một vẻ đạo mạo kiểu cổ, hơi kỳ dị khiến Catherine thấy thích. Ông ta đưa họ đến ăn ở một nhà hàng nhỏ ở khu phố cổ Plaka rộng vài ba acre, dốc về phía trung Athens, với những ngõ hẻm ngoằn nghèo, những bậc thang cũ kỹ, sụt lở dẫn đến những ngôi nhà nhỏ xây dựng từ thời cổ Thổ Nhĩ Kỳ thống trị Hy Lạp và thành phố Athens còn là một làng quê. Khu Palaka là khu có những kiến trúc quét vôi trắng nằm rải rác đây đó, có những quầy bán hoa quả tươi, mùi cà phê rang thơm lừng trong không khí, những con mèo gầm gừ và những cuộc ẩu đả huyên náo phố xá, ấn tượng của khu này thật là quyến rũ. Catherine nghĩ: ở những thành phố khác thì những khu như thế này đã trở thành một ổ chuột rồi. Thế mà ở đây lại là một tượng đài.
Cái nhà hàng mà Bá tước Pappas đưa họ tới là nhà hàng lộ thiên nằm trên nóc một ngôi nhà nhìn ra khắp thành phố. Những người bồi phục vụ ở đây ăn mặc quần áo sặc sỡ
– Bà muốn dùng gì? – Ông bá tước hỏi Catherine.
Nàng xem kỹ bản thực đơn đầy lạ lùng và lúng túng:
– Ông làm ơn đặt món ăn giúp tôi. Tôi e rằng tôi gọi nhầm ra tên ông chủ tiệm cũng nên.
Bá tước Pappas đặt một tiệc thịnh soạn, ông ta chọn ra hàng loạt món ăn để Catherine có dịp nếm đủ mọi thứ.
Họ ăn món Dolmades, thịt băm viên cuộn trong lá nho, mousaka, món thịt nhồi cá béo ngậy, stiffado, thịt thỏ rô ti với hành – (mãi đến khi nàng ăn được một nửa, nàng mới biết món này là món gì, và từ đó nàng không dám ăn nữa) và món taramosalata là món xà lách Hy Lạp trộn trứng, dầu ôliu và chanh. Ông Bá tước gọi một chai retsina.
– Đây là rượu vang bản địa của chúng tôi – Ông giải thích như vậy.
Ông ngồi ngắm Catherine nếm thử loại rượu này một cách thú vị. Nó có vị gắt của dứa. Catherine phải nhắm mắt nhắm mũi mới uống nổi. Nàng giật thót cả người. Ăn món gì bây giờ cũng đều mất ngon cả.
Trong lúc họ ăn, có ba nhạc công chơi nhạc Bozoukia. Tiếng nhạc vui vẻ, yêu đời và dễ gây cảm hứng, ba người ngồi ngắm những người khác bắt đầu đứng dậy bước ra sàn nhẩy theo tiếng nhạc. Điều khiến Catherine kinh ngạc là tất cả những người nhảy đều là nam giới và họ nhảy tuyệt vời. Nàng ngồi xem một cách thích thú.
Mãi đến hơn ba giờ sáng họ mới ra về. Ông bá tước lái xe đưa hai vợ chồng về căn nhà mới của họ. Ông hỏi:
– Bà đã đi xem phong cảnh thành phố chưa?
– Thực ra là chưa. – Nàng thừa nhận – Tôi còn đợi Larry có thời gian nghỉ đã.
Ông bá tước quay sang Larry:
– Có lẽ trong lúc ông chưa tham gia được, tôi cứ đưa bà Catherine đi xem vài ba nơi trước, được không?
– Thế còn gì bằng – Larry đáp – Miễn là việc đó không quá phiền hà cho ông.
– Tôi rất vui lòng được làm việc đó – Ông bá tước đáp, rồi quay sang Catherine – Bà có nhận tôi là người hướng dẫn cho bà không?
Nàng nhìn ông và chợt nhớ đến Dimitropolous, người nhân viên công ty nhà cửa, vóc dáng nhỏ bé, nói tiếng Anh liến thoắng, líu ríu chẳng nghe rõ gì.
– Tôi rất mong được như vậy – Nàng đáp lại một cách chân thành.
Mấy tuần tiếp sau đó là những tuần tuyệt diệu. Sáng nào Catherine cũng sắp sắp xếp nhà cửa, đến chiều, nếu Larry đi vắng thì ông Bá tước lại đến đón nàng đi xem phong cảnh.
Họ đã tới núi Olimpia. Ông bá tước kể:
– Đây là nơi diễn ra những trò thể thao Olimpia đầu tiên. Những ngày hội đó được tổ chức hàng năm kéo dài trong một ngàn năm liền, bất chấp các cuộc chiến tranh, dịch bệnh, nạn đói.
Catherine ngạc nhiên đứng ngắm cảnh hoang phế của một vũ đài lớn, nàng nghĩ đến những cuộc thi đấu huy hoàng đã từng được tổ chức tại đây trong những thế kỷ, nàng nghĩ đến những thắng lợi và thất bại.

– Nếu nhận xét những sân đấu ở Eton thì nơi đây thật là chỗ khởi thủy cho tinh thần thượng võ.
Ông Bá tước cười lớn:
– Tôi e rằng sự thực sẽ phần nào làm cho bà ngạc nhiên đấy.
Catherine chăm chú nhìn ông:
– Tại sao vậy?
– Cuộc thi xe chiến mã lần đầu tiên tổ chức ở đây đã có sắp đặt trước.
– Sắp đặt trước?
Ông Bá tước kể tiếp:
– Đúng thế đấy. Có một ông hoàng giàu sụ tên là Pelops lúc đó đang ân hận với đối thủ của mình. Họ quyết định tổ chức một cuộc thi xe chiến mã để xác định xem ai thắng ai thua. Đêm trước cuộc thi Pelops đã thay bánh xe ở xe đối thủ của mình. Khi cuộc thi bắt đầu dân chúng có mặt ở đây tung hô người mình yêu mến. Ở vòng đầu chiếc xe của đối thủ đã bị văng bánh, xe lật nhào. Đối thủ đã bị mắc giữa dây cương và bị ngựa lôi đi đến chết. Pelops về đích thắng cuộc.
– Thật là kinh khủng – Catherine nói – Thế họ đã làm gì với hắn ta?
– Quả thực đó là đoạn ô nhục nhất trong lịch sử. Ông Bá tước đáp – Ngày nay thiên hạ ai cũng biết hành động của Pelops. Y được coi là anh hùng vĩ đại và trên một trần tường lớn trên đền thờ Zeus ở Olimpia người ta vẫn đắp hình để suy tôn y. Hiện nay vẫn còn đó – Ông mỉm cười chua chát – Có lẽ tên đểu cáng này đã giễu thêm và sống sung sướng mãi sau đó. Trên thực tế – Ông nói thêm – Cả một vùng ở phía nam Corinth được gọi theo tên của y là Peloponnesus.
– Hoá ra tội ác không bị trừng phạt ư? – Catherine thắc mắc.
Mỗi khi Larry có dịp rảnh, chàng cùng Catherine đi xem thành phố. Họ phát hiện ra những nhà hàng tuyệt vời mà ở đó họ có thể bỏ ra nhiều giờ để mặc cả và những nhà hàng bé nhỏ họ có thể ăn theo ý thích. Larry tỏ ra là một người vui vẻ, hấp dẫn đáng mến và Catherine thầm nghĩ rằng việc nàng bỏ công việc ở Hoa Kỳ để đi theo chồng sang Hy Lạp là hoàn toàn thoả đáng.
[ alobooks ]
Còn đối với Larry, chàng cũng chưa bao giờ được hạnh phúc đến như vậy. Công việc làm với Demiris thật là một giấc mơ trong cuộc đời chàng. Tiền lương rất hậu, song Larry không quan tâm đến những điều đó lắm. Điều chàng quan tâm nhiều là những chiếc phi cơ kỳ diệu mà chàng đang điều khiển. Để học lái chiếc Hawker Siddeley chàng mất đúng một tiếng đồng hồ và với năm chuyến bay nữa là chàng hoàn toàn làm chủ được nó. Phần lớn thời gian Larry bay cùng với Paul Metaxas, chàng phi công người Hy Lạp thấp bé, vô tư lự của Demiris. Metaxas rất ngạc nhiên trước việc Ian Whitestone đột ngột ra đi, rồi anh lại thấy lo lắng trước việc tìm người thay chân cho Whitestone: Anh đã từng nghe nhiều chuyện về Larry Douglas, song anh không tin Larry giống như hình ảnh qua các câu chuyện kể lại. Tuy nhiên, Douglas tỏ ra là có nhiệt tình thực sự đối với công việc mới mẻ của chàng và lần đầu tiên Metaxas bay cùng chàng, anh ta nhận thấy quả thực Larry là một phi công xuất chúng.
Dần dần Metaxas bớt phần cảnh giác và hai người trở thành đôi bạn thân thiết.
Mỗi khi không bay, Larry lại giành thời gian để nghiên cứu từng khuyết tật riêng của mỗi chiếc máy bay. Sau khi làm xong, chàng có thể điều khiển chúng lão luyện hơn bất kỳ phi công nào đã từng bay chúng trước đây.
Sự phong phú của công việc khiến cho Larry thêm say mê: chàng thường đưa các nhân viên của Demiris đi công du tới Brindisi, Corfu và Rome, hoặc đón rước khách rồi đưa họ tới hòn đảo riêng của Demiris để dự tiệc tùng hoặc đến nhà ván của ông ở Thuỵ Sĩ để truợt tuyết. Chàng đã quen với việc lái máy bay cho những nhân vật mà chàng thường xuyên thấy chân dung của họ trên các trang nhất của các báo chí, rồi chàng thích thú kể lại những chuyện về họ cho Catherine nghe. Chàng lái máy bay chở Tổng thống của một nước vùng Balkan, chở thủ tướng Anh, một ông vua dầu lửa Ả Rập và toàn bộ các cung phi của ông ta. Chàng đã chở những danh ca opera, một đoàn múa Balê và cả một đoàn diễn viên trong một vở kịch của hãng Broadway trình diễn ở London chỉ duy nhất có một buổi mừng ngày sinh của Demiris. Chàng đã chở các chánh án toà án tối cao, một thượng nghị sĩ và cựu Tổng thống Hoa Kỳ. Trong suốt chuyến bay Larry dành phần lớn thời gian ngồi trong buồng lái, song thỉnh thoảng chàng cũng ghé qua cabin để kiểm tra lại xem các hành khách có được thoải mái dễ chịu không. Thỉnh thoảng chàng cũng nghe đôi đoạn trong những cuộc thảo luận giữa các trùm tư bản về những công ty hỗn hợp đang đe doạ vận mệnh của kẻ khác hoặc việc buôn bán chứng khoán. Lẽ ra chàng có thể lợi dụng được những tin tức mà chàng nghe lỏm được song chàng chẳng quan tâm gì. Cái mà chàng bận tâm nhiều lại là chiếc máy bay chàng đang bay, sao cho nó mạnh mẽ, sống động và nằm dưới sự kiểm soát của chàng.
Phải hai tháng sau Larry mới lái máy bay cho Demiris. Họ đang ở trên chiếc Piper. Larry lái máy bay chở ông chủ của mình từ Athens tới Dubr ik. Đó là một ngày trời đầy mây, có tin báo gió bão gìật từng cơn dọc trên đường bay. Larry đã cẩn thận vạch ra một lộ trình ít gặp gió bão nhất, song không khí vẫn đầy những vùng gió xoáy không tài nào tránh nổi.
Một giờ sau khi ra khỏi Athens chàng đã bật đèn báo thắt dây lưng an toàn và nói với Metaxas:
– Bình tĩnh, Paul nhé. Chuyến bay này có thể là thử thách cả sự nghiệp của chúng ta đấy.
Larry lấy làm ngạc nhiên khi thấy Demiris xuất hiện trong buồng lái, nói:
– Cho tôi vào chỗ các anh nhé.
– Xin ông cứ tự nhiên – Larry đáp – Chuyến bay này sẽ khó khăn đây.

Metaxas nhường chỗ cho Demiris để cho ông ngồi vào đó. Larry lúc này chỉ muốn có người phi công bay kép của mình ngồi cạnh để khi có sự cố gì thì còn phản ứng cho kịp, tuy nó là máy bay của Demiris.
Trận bão kéo dài gần hai tiếng đồng hồ. Larry lái vòng quanh một núi mây khổng lồ cuồn cuộn dâng lên ở trước mặt họ một màu trắng dễ chịu song cũng đầy đe doạ.
– Đẹp quá chừng – Demiris bình phẩm.
– Những đám mây này chết người đấy – Larry nói – Mây tích điện đấy – Lý do mà chúng trông đẹp đẽ và bồng bềnh như vậy vì có gió ở bên trong thổi thốc lên. Máy bay mà lọt vào trong đó thì chỉ không đầy mười giây là bị xé tan tành. Người ta có thể vọt lên hoặc rơi xuống ba chục ngàn foot trong không đầy một phút và không còn điều khiển được máy bay của mình nữa.
– Tôi tin rằng anh sẽ không cho việc đó xảy ra – Demiris bình tĩnh đáp.
Gió quật vào máy bay, cố đẩy nó sang một phía song Larry vật lộn để nắm quyền điều khiển chiếc máy bay.
Chàng quên cả Demiris đang có mặt ở đó, tập trung toàn bộ chú ý vào chiếc máy bay chàng đang lái và vận dụng mọi kỹ năng mà chàng biết từ trước tới giờ. Cuối cùng họ đã ra khỏi vùng bão tố. Larry quay lại, lau mồ hôi và nhận thấy Demiris đã rời buồng lái từ bao giờ. Metaxas đang ngồi trên ghế.
– Paul ạ, chuyến bay đầu tiên với ông chủ khốn nạn thế đấy! – Larry than thở – Mình có lẽ sẽ bị rầy rà đây.
Chàng đang cho máy bay hạ cánh xuống một sân bay nhỏ nằm giữa vùng đồi núi ở Dubro ik thì Demiris xuất hiện ở buồng lái, ông bảo với Larry:
– Ông đã nói có lý. Tôi thấy hài lòng vì ông rất tài nghệ qua những việc ông đã làm.
Rồi Demiris bước ra.
Một buổi sáng Larry đang chuẩn bị cho một chuyến bay sang Marốc, Bá tước Pappas gọi điện thoại tới xin đề nghị được đưa Catherine đi chơi xe hơi về vùng nông thôn.
Larry nhất định bảo nàng phải đi.
– Bộ anh không ghen? – Nàng hỏi.
– Ghen với ông Bá tước? Larry cười rũ rượi.
Và Catherine bỗng hiểu ra cả. Trong suốt thời gian nàng với ông Bá tước đi chơi với nhau, ông ta chưa có một hành vi nào không đúng với nàng, thậm chí nhìn nàng một cách gợi tình cũng không. Nàng hỏi:
– Ông ấy bị bệnh đồng tính luyến ái?
Larry gật đầu:
– Chính vì vậy anh mới để cho em được ông ấy chăm sóc ân cần như vậy.
Ông Bá tước đến đón Catherine rất sớm, rồi họ khởi hành theo hướng nam về vùng đồng bằng Thessaly rộng rãi. Những người phụ nữ nông dân ăn vận quần áo đen bước dọc trên đường, trên lưng buộc những bó củi nặng trĩu Catherine thấy vậy hỏi:
– Tại sao nam giới không làm những công việc nặng nề này thay cho họ?
Ông Bá tước nhìn nàng bằng một cách nhìn thích thú rồi đáp:
– Phụ nữ không muốn nam giới làm những việc đó bởi vì họ muốn chồng họ khoẻ khoắn lúc ban đêm để làm những việc khác.
Catherine chua chát nghĩ thầm: âu cũng là một bài học cho tất cả chúng ta.
Đến lúc chiều tà họ tới vùng núi Pindus trông ghê rợn với những mỏm đá vươn lên cao tận trời. Con đường bị tắc nghẽn bởi một đàn cừu được một người thợ cừu và một con chó săn gầy ốm chăn dắt. Bá tước Pappas phải dừng, đợi cho đàn cừu tản ra khỏi đường. Catherine ngắm nhìn con chó cắn vào chân những con cừu đi lạc đường bắt chúng đi vào hàng và theo hướng mà con chó muốn dắt dẫn.
Catherine tỏ ý thán phục:
– Con chó cứ như người vậy
Ông Bá tước nhìn nàng rất nhanh. Trong cái nhìn đó có điều gì đó khiến nàng thấy khó hiểu. Nàng hỏi:
– Sao vậy?

Ông Bá tước ngập ngừng:
– Câu chuyện này không hay ho gì.
– Yên chí, thần kinh tôi vững lắm.
Ông Bá tước kể:
– Đây là một vùng hoang dã. Đất đai ở đây toàn sỏi đá, cằn cỗi. Mùa màng có tốt nhất cũng chỉ được lèo tèo chút đỉnh mà thôi, mà nếu thời tiết xấu thì chẳng thu hoạch được gì, đói to ngay lập tức – Giọng ông lạc hẳn đi.
Catherine vội nhắc:
– Ông cứ kể tiếp đi.
– Cách đây vài năm có trận bão lớn xảy ra tại đây, mùa màng hỏng hết cả. Mọi người cạn hết thức ăn. Toàn bộ lũ chó chăn cừu vùng này đã nổi loạn. Chúng bỏ các trang trại và tụ tập thành một đàn rất lớn – Ông kể tiếp, song cố giữ giọng nói không mang vẻ kinh hãi – Chúng bắt đầu tiến công các trang trại.
– Và giết hết cừu? – Catherine hỏi dồn.
Im lặng một lúc, ông ta đáp:
– Không. Chúng cắn xé và ăn thịt các người chủ của chúng.
Catherine sửng sốt nhìn ông.
– Người ta phải phái quân đội liên bang từ Athens về đây lập lại sự cai trị của con người. Mất gần một tháng.
– Thật là ghê rợn.
– Nạn đói đã gây ra những chuyện ghê rợn như vậy – Bá tước Pappas khe khẽ nói.
Đàn cừu đã qua hết con đường. Catherine ngó nhìn lại con chó chăn cừu một lần nữa và thấy rùng mình.
Nhiều tuần lễ trôi qua, nhiều điều dường như lạ lùng, xa cách với Catherine giờ đây đã trở nên quen thuộc với nàng. Nàng nhận thấy mọi người đều cởi mở thân thiện.
Nàng biết những chỗ để mua bán, chợ búa và cửa tiệm mua quần áo ở phố Voukourestiou. Hy Lạp là một xứ sở kỳ lạ và người ta phải thư giãn và hưởng thụ nếp sống đó.
Không một ai vội vã gì, nếu bạn có hỏi đường ai đó họ có thể dẫn bạn đến tận nơi. Hoặc khi bạn hỏi đường có xa không thì anh ta sẽ nói “Dnos cigarou dromos”, mà Catherine hiểu rằng “hút hết một điếu thuốc lá”. Nàng đã đi khắp các phố, xem khắp thành phố và uống thứ rượu vang thẫm âm ấm giữa ngày hè ở Hy Lạp.
Catherine và Larry đã đến thăm vùng Mykonos với những chiếc cối xay gió sặc sỡ màu sắc và thăm Melos, nơi người ta đã tìm ra bức tượng thần Vệ nữ ở Milo. Song nơi mà Catherine thích nhất vẫn là Paros, một hòn đảo duyên dáng, xanh tươi với một ngọn núi nhô cao, đỉnh phủ đầy hoa. Khi chiếc thuyền của họ cập đảo, một người hướng dẫn đứng sẵn ở bến. Anh ta hỏi xem họ có cần anh đưa đường lên đỉnh núi bằng la không, và thế rồi họ trèo lên hai con la gầy trơ xương. Catherine đội một chiếc mũ rơm rộng vành để tránh ánh nắng gay gắt. Họ cưỡi la trèo lên con đường dốc gần tới đỉnh núi, có những phụ nữ vận đồ đen gọi to “Kelimera” và trao cho Catherine những món quà làm bằng cỏ tươi, da cừu thuộc để gài lên vành mũ của nàng. Sau hai giờ cưỡi la, họ tới một cao nguyên, đây là một khu đồng bằng đẹp đẽ có nhiều cây to với hàng triệu bông hoa nở đầy rất ngoạn mục. Người hướng dẫn dừng la lại để họ được ngắm cảnh sắc trăm hồng ngàn tía thật kỳ lạ.
– Nơi này được gọi là thung lũng Bướm – Người hướng dẫn giải thích bằng một thứ tiếng Anh nhát gừng.
Catherine nhìn quanh song không thấy một con bướm nào. Nàng hỏi:
– Tại sao người ta gọi như vậy?
Gã hướng dẫn toe toét cười, gần như hắn đang đợi câu hỏi này của nàng. Hắn bảo.
– Tôi sẽ cho bà thấy.
Hắn tụt xuống khỏi con la và nhặt một cành cây gẫy. Hắn tiến đến một cái cây và dùng cành cây gẫy đập thật mạnh vào đó. Trong chớp mắt những “bông hoa” trên hàng trăm cây bỗng bay tán loạn mang theo màu sắc sặc sỡ trên trời để những cái cây trơ ra đó. Không gian bỗng tràn ngập hằng hà sa số những con bướm đủ màu sắc tươi vui chập chờn nhảy múa trong ánh nắng.
Catherine và Larry kinh ngạc ngắm nhìn. Gã hướng dẫn đứng ngây người, ngắm họ, mặt hắn lộ vẻ tự hào như thể hắn cảm thấy hắn đang là người tạo nên cái phép màu huyền diệu mà họ đang được chiêm ngưỡng. Đó là một trong những ngày đẹp nhất trong đời Catherine, và nàng thầm nghĩ nếu như nàng có thể chọn lựa một ngày hoàn hảo nhất để nàng sống lại với nó, thì ngày đó chính là ngày nàng đã sống với Larry ở Paros.
***


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.