Đọc truyện Percy Jackson Tập 1: Kẻ Cắp Tia Chớp – Chương 8: Giành cờ danh dự
Mấy ngày sau đó, sinh hoạt của tôi dần đi vào nề nếp, giống hồi ở trường thường. Chỉ có điều, người hướng dẫn tôi bây giờ là thần rừng, Nữ Thần Cây và nhân mã.
Sáng sáng, Annabeth chỉ tôi học tiếng Hy Lạp cổ. Thật lạ đời vì khi trao đổi với nhau về các thần, chúng tôi chia động từ ở thời hiện tại. Về chứng khó đọc của tôi, Annabeth nói đúng. Tôi học tiếng Hy Lạp cổ dễ dàng. Chí ít cũng dễ hơn tiếng Anh. Mới học mấy buổi mà tôi đã đọc được vài câu thơ của đại thi hào Homer và không bị nhức đầu.
Thời gian còn lại trong ngày, tôi luân phiên tập nhiều môn thể thao ngoài trời để tìm môn sở trường.
Bác Chiron dạy tôi bắn cung, nhưng hai chúng tôi nhanh chóng biết tôi hoàn toàn lóng ngóng với cung nỏ. Bác không phàn nàn một câu dù phải nhổ một mũi tên lạc cắm trúng đuôi mình.
Chạy bộ thì sao? Cũng chẳng hơn gì. Các cô giáo là Nữ Thần Cây cho tôi “hít khói”. Họ an ủi, bảo tôi chớ buồn rồi kể lý do khiến họ chạy giỏi: đó là nhờ mấy nghìn năm chạy trốn các nam thần phát cuồng vì yêu! Tuy nhiên, tôi vẫn thấy bẽ bàng vì chạy không nhanh bằng cái cây.
Đến môn vật thì … “quên đi”. Mỗi lần tôi lò dò ra chiếu, Clarisse lại dần tôi nhừ tử. Nó rít vào tai tôi:
– Tưởng con ông nọ bà kia là “ngầu” lắm sao?
Tôi chỉ thạo mỗi trò lái xuồng máy. Đó chẳng phải kỹ năng của người hùng. Người ta kỳ vọng ở anh chàng giết quỷ đầu bò nhiều hơn thế.
Trại viên và các huynh trưởng theo dõi từng nhất cử nhất động của tôi hầu mong đoán ra danh tánh cha tôi. Nhưng chẳng dễ dàng gì.
Tôi không khỏe mạnh như con thần Ares, không giỏi bắn cung như con thần Apollo. Tôi không khéo tay trong nghề rèn như thần Hephaestus, không biết điều khiển cây nho như thần Dionysus.
Luke bảo hình như tôi là con thần Hermes: nghề gì cũng biết nhưng chẳng giỏi nghề nào. Nhưng tôi biết anh chỉ an ủi tôi mà thôi. Chính anh cũng không biết tôi là con ai. Dù thế, tôi vẫn thích trại hè, tôi dần quyến luyến với sương sớm phủ trắng bãi biển, hương dâu thơm lừng mỗi chiều, và tiếng động lạ lẫm từ trong rừng vọng tới hàng đêm.
Lúc dùng bữa ở bàn ăn của Nhà Số Mười Một, gạt một phần thức ăn trong đĩa vào lửa, tôi cố tìm mối liên hệ với người cha ruột của mình. Chẳng có gì ngoại trừ cảm giác ấm áp, giống ký ức về nụ cười của cha.
Tôi dần thông cảm thái độ chua chát của Luke. Hình như anh hờn giận cha mình. Thôi đành vậy. Thần thánh bận rộn làm nhiều việc vĩ đại. Nhưng chẳng lẽ họ không đủ thời gian gửi một dấu hiệu, chẳng hạn như gọi điện thoại hay tạo tiếng sấm, để nhận con mình? Thần Dionysus tạo lon nước ngọt từ không khí. Chẳng lẽ cha tôi không có khả năng hóa phép biến cho mình cái điện thoại?
Chiều thứ Năm, ba ngày sau khi tham gia trại hè, lần đầu tiên tôi học đấu kiếm. Cả Nhà Số Mười Một tập trung tại hí trường rộng lớn, khán đài hình vòng tròn. Luke sẽ hướng dẫn môn kiếm thuật cho anh em.
Bài học bắt đầu bằng vài động tác đâm và vung kiếm cơ bản. Chúng tôi dùng bù nhìn nhồi rơm mặc giáp trụ giống chiến binh Hy Lạp cổ để tập. Tôi học không tồi. Tập hồi lâu, tôi biết mình phải làm gì. Sự hồi tưởng về những trận đánh xa xưa cũng khá rõ ràng.
Khổ nỗi tôi không tìm được cây kiếm vừa tay mình. Kiếm ở đây hoặc quá nặng, hoặc quá nhẹ, hoặc quá dài. Dù cố hết sức giúp nhưng Luke phải công nhận kiếm trong phòng tập không có cái nào hợp với tôi.
Sang phần tập đấu đối kháng, Luke bảo vì đây là lần đầu tiên của tôi nên anh sẽ đấu với tôi.
Một bạn cùng phòng bảo:
– Chúc may mắn. Luke là tay kiếm cừ nhất. Ba trăm năm qua, chưa ai thắng được anh ấy.
– Hy vọng anh ấy nhường tớ.
Cậu ta khịt mũi coi thường.
Luke chỉ tôi cách che chắn, tránh né và xông tới tấn công. Mỗi lần liều lĩnh xông lên, tôi bầm tím thêm một ít, áo quần rách thêm một mảnh. Luke vụt sống kiếm vào mạng sườn tôi:
– Percy, cẩn thận chứ. Đừng tiến xa vội. Vụt xuống! Lao vào! Xỉa đi! Giờ lùi lại! Chém!
Đến lúc anh thông báo tạm nghỉ, mồ hôi tôi ướt đầm đìa. Mọi người kéo nhau đến bình làm mát nước uống. Thấy Luke đổ nước lạnh buốt lên đầu, tôi cũng bắt chước.
Tôi lập tức thấy khỏe hơn gấp mấy lần. Hai tay tôi mạnh mẽ hơn hẳn. Tay cầm kiếm không thấy ngượng nghịu nữa.
Luke hô lớn:
– Mọi người tập trung đi. Nếu Percy không phiền, ta đấu thử nhé?
Tôi nghĩ thầm: “Tuyệt! Hãy xem Percy bị xử ‘te tua’ trước mặt cả Nhà Số Mười Một nào.”
Con cái thần Hermes xúm lại xem. Ai nấy cố nín cười, như thể họ biết thừa sức tôi đến đâu và háo hức chờ Luke “xử lý” cái bao cát tập đấm là tôi ra sao.
Luke nói sẽ trình diễn kỹ thuật tước kiếm đối phương. Đấu sĩ sẽ dùng kiếm đè kiếm đối phương xuống khiến đối thủ không còn cách nào khác ngoài thả tay mặc vũ khí rơi xuống đất. Anh nhấn mạnh:
– Động tác này khó. Anh em chớ cười Percy vì hầu như ai cũng phải luyện tập vài năm mới thành thạo được.
Anh trình diễn chiêu thức ấy thật chậm. Tất nhiên, kiếm rời tay tôi, rơi loảng xoảng xuống đất.
Chờ tôi nhặt kiếm xong, anh bảo:
– Giờ ta làm như thật. Ta sẽ đấu tập để phân thắng bại. Percy sẵn sàng chưa?
Tôi gật đầu. Luke nhường tôi tấn công trước.
Không biết bằng cách nào, tôi có khả năng tránh không để Luke tước kiếm. Sau màn dạo đầu, tôi dần quen tay, động tác thuần thục hơn. Mỗi lần anh tấn công, tôi đều biết và chống đỡ hiệu quả. Sau đó, tôi bước lên, xỉa thẳng kiếm ra trước.
Luke tránh dễ dàng, nhưng mặt anh biến sắc. Anh nheo mắt và bắt đầu mạnh tay với tôi hơn.
Thanh gươm trong tay tôi nặng dần. Tôi giữ thăng bằng không được tốt. Biết mình sẽ thua sau vài giây ngắn ngủi nữa, tôi quyết định liều.
Tôi thử động tác tước kiếm đối phương.
Lưỡi kiếm của tôi chạm phần gốc kiếm của Luke. Tôi xoay vặn cổ tay, dùng hết sức bình sinh ấn xuống.
Keng! Kiếm của Luke chạm mặt sàn lát đá. Mũi kiếm tôi chỉ cách khuôn ngực trống trải của anh chỉ có vài xăng-ti-mét.
Khán giả chết lặng. Tôi hạ kiếm xuống:
– Ối, em xin lỗi.
Trong một thoáng, Luke sững sờ không thốt nên lời. Luke bật cười:
– Xin lỗi ư? Trời đất, có gì phải xin lỗi chứ. Chú làm lại cho anh xem nào.
Tôi không muốn chút nào. Luồng sinh lực vừa trào lên bất ngờ đã tắt ngấm. Nhưng Luke năn nỉ mãi.
Lần này không thể gọi là giao tranh. Hai kiếm vừa chạm nhau, Luke đã đè chuôi kiếm của tôi, hất nó trượt dài trên nền nhà.
Im lặng thật lâu. Có tiếng hỏi trong đám người xem:
– Lúc nãy Percy gặp may phải không?
Luke quệt mồ hôi trán. Anh chăm chú nhìn tôi như thầm đánh giá:
– Có thể. Nhưng nếu Percy có thanh kiếm vừa tay, chưa biết sẽ ra sao…
Chiều thứ Sáu, tôi ngồi nghỉ với Grover bên hồ sau khi suýt chết vì tập leo tường. Grover leo vút lên đầu tường nhanh như dê núi, còn tôi suýt bị nham thạch thiêu sống. Áo tôi cháy nham nhở còn bốc khói. Lông trên cánh tay cháy xém cả.
Ngồi trên móng cầu ngắm các Nữ Thủy Thần đan rổ dưới nước rất lâu, tôi mới dồn đủ can đảm hỏi Grover về cuộc gặp với Ngài D. hôm nọ.
Mặt nó xám ngoét:
– Vui lắm. Nói chung tốt cả.
– Vậy cậu vẫn tiếp tục công việc lúc trước?
Nó ngượng ngập liếc tôi:
– Bác Chiron ch… cho cậu hay chuyện tớ muốn có giấy phép Truy Tìm à?
– Đâu… có.
Tôi định hỏi chứng chỉ quái quỷ gì nghe lạ thế, nhưng nghĩ giờ chưa phải lúc nên lại thôi.
– Bác ấy chỉ bảo cậu có nhiều dự định lớn… Bác còn bảo cậu muốn thuyết phục quản lý trại cho phép hoàn tất nhiệm vụ của Người Trông Nom. Thế ông ấy cho phép chưa?
Grover quay sang nhìn nhóm Nữ Thủy Thần:
– Thần Dionysus chưa đánh giá gì cả. Vì ông chưa quyết định tớ thành công hay thất bại trong vụ của cậu nên số phận hai ta vẫn gắn với nhau không rời. Nếu cậu được giao nhiệm vụ điều tra, tớ sẽ theo bảo vệ cậu. Nếu cả hai toàn mạng trở về, Ngài D. mới kết luận tớ hoàn thành nhiệm vụ.
Tôi vui hẳn lên:
– Thế cũng được mà.
– Be…e…e! Khả năng khác là ông ta sẽ chuyển tớ sang đội lau dọn chuồng ngựa. Khả năng cậu được điều tra xa vời lắm… Với lại nếu được đi, cậu cần gì tớ đi cùng!
– Đương nhiên tớ cần chứ.
Grover rầu rĩ ngó mặt hồ đăm đăm:
– Đan rổ… có nghề hữu dụng thích quá cậu nhỉ?
Tôi định an ủi, khen nó nhiều tài nhưng làm thế chỉ khiến nó buồn thêm mà thôi.
Tán gẫu về xuồng máy, kiếm thuật xong, chúng tôi quay sang tranh luận về ưu khuyết điểm của các thần.
Cuối cùng, tôi hỏi nó về bốn căn nhà bỏ trống.
– Nhà Số Tám, màu sáng bạc của thần Artemis. Vì thề giữ trinh tiết suốt đời nên đương nhiên thần Artemis không có con. Nhưng nếu trại không làm nhà cho bà thì không xong đâu. Có Nhà Số Tám, Trại Con Lai sẽ không phải hứng cơn giận dữ của thần Artemis.
– Phải phải. Nhưng còn ba lều kia… có phải của Bộ Tam Vĩ Đại không?
Grover căng thẳng như thể chúng tôi sắp đụng đến vấn đề nhạy cảm.
– Nhà Số Hai của Nữ thần Hera. Giống nhà thần Artemis, Nhà Số Hai chỉ làm cho có. Hera là thần của hôn nhân, vì thế bà sẽ không đi hoang, lăng nhăng với cả đám người phàm. Chuyện ấy đã có chồng bà “phụ trách”. Khi nói tới Bộ Tam Vĩ Đại, người ta ám chỉ ba anh em có thế lực nhất, con người khổng lồ Kronos.
– Là Thần Dớt, thần Poseidon và thần Hades.
– Chính xác. Chắc cậu cũng biết, đánh bại các người khổng lồ Titan xong, họ chiếm ngai vàng của cha và rút thăm chia quyền cát cứ.
Tôi nhớ lại bài đã học:
– Thần Dớt được bầu trời, thần Poseidon thống lĩnh biển cả và thần Hades xuống địa ngục.
– Ừ.
– Thần Hades không có nhà ở đây.
– Không. Trên đỉnh Olympia cũng không có ghế của ông ta. Ông ta chỉ loanh quanh dưới địa ngục thôi. Nếu Trại Con Lai có nhà của ông ấy thì… ớn lắm. Cứ thế này lại hơn.
– Nhưng theo truyền thuyết, con hai thần Dớt và Poseidon là hằng hà sa số. Sao nhà họ ở đây không có ai?
Grover sợ sệt đổi chân:
– Khoảng sáu mươi năm trước, sau Thế Chiến Thứ Hai, Bộ Tam Vĩ Đại cùng đồng thuận sẽ không sinh thêm anh hùng nữa. Con cái họ quá hùng mạnh, ảnh hưởng ghê gớm đến tiến trình phát triển của nhân loại, gây nên bao cảnh đầu rơi máu chảy. Cậu biết không, thực chất Thế Chiến Thứ Hai là sự giao tranh của một phe là các con thần Dớt và thần Poseidon đấu với phe bên kia là con của thần Hades. Phe thắng trận là Dớt và Poseidon bắt Hades phải cùng thế sẽ không lăng nhăng với phụ nữ trần gian nữa. Cả ba đều nhìn nước sông Mê Styx mà thề.
Sấm nổ từng tràng vang dội. Tôi bảo:
– Giống thề độc, cậu nhỉ?
Grover gật đầu.
– Thế ba anh em họ có giữ lời không?
Mặt Grover tối sầm:
– Mười bảy năm trước, thần Dớt trót sa đà. Ngôi sao phim truyền hình với mái tóc bồng bềnh làm thần mất ăn mất ngủ. Khi cô bé Thalia, con họ chào đời… Sông Mê Styx vốn nghiêm túc với chuyện thề bồi mà. Do bất tử nên thần Dớt không việc gì, nhưng vì ông ta, cô con gái phải chịu số phận khủng khiếp.
– Bất công quá! Đứa con gái đó có tội tình gì đâu.
Grover ngần ngừ:
– Percy này, con của Bộ Tam Vĩ Đại có quyền năng lớn hơn những con lai khác. Mùi hương từ cơ thể họ cực kỳ mạnh, lôi kéo bọn quái vật đến. Khi biết tin thần Dớt có con gái, Hades chẳng vui vẻ gì khi biết anh mình không giữ lời hứa. Ông ta thả bọn quái vật kinh khiếp nhất nơi tận cùng địa ngục là Tartarus để chúng tìm Thalia hành hạ. Khi cô bé tròn mười hai tuổi, một thần rừng được phái đến trông nom cô bé, nhưng người này chẳng làm được gì. Thần rừng ấy cố đưa Thalia và hai người bạn con lai của cô đến trại. Họ đến rất gần trại, leo lên tận đỉnh đồi.
Grover chỉ tay về phía bên kia thung lũng, nơi có cây thông lớn, đúng chỗ tôi quần nhau với quỷ đầu bò:
– Ba tên “Người Tử Tế” cùng đàn chó canh địa ngục đuổi theo họ. Bị đuổi sát, Thalia bảo thần rừng đem hai người bạn đến nơi an toàn, để mình cô cầm chân quái vật. Cô bé bị thương, kiệt sức và không muốn sống chui nhủi cả đời như thú hoang trốn thợ săn. Dù không muốn bỏ Thalia nhưng thần rừng nọ không thuyết phục được cô đổi ý nên đành bảo vệ hai người kia. Thế là một mình Thalia quyết chiến đến cùng trên đỉnh đồi. Khi cô chết, thần Dớt thương con vô hạn. Ông biến xác cô thành cây thông. Linh hồn cô tiếp tục bảo vệ ranh giới của trại quanh thung lũng. Chính vì thế mới có tên Ðồi Con Lai.
Tôi nhìn không chớp mắt vào cây thông trên đỉnh đồi xa xa.
Nghe Grover kể xong, tôi hụt hẫng và mang cảm giác có tội. Một bạn gái trạc tuổi tôi đã hi sinh thân mình để cứu bạn. Trước khi chết, cô đã chiến đấu với cả bầy quái thú. So với cô, chiến tích thắng quỷ đầu bò của tôi chẳng là gì. Tôi tự hỏi… nếu hôm đó tôi hành sự khác đi, liệu tôi có cứu được mẹ mình?
– Grover này, trong số anh hùng con thần thánh có ai xuống địa ngục chưa?
– Vài người, như Orpheus, Hercules, Houdini chẳng hạn.
– Thế có ai làm người chết sống lại chưa?
– Chưa. Làm gì có chuyện ấy. Orpheus suýt thành công nhưng… Percy, có thật cậu định…
Tôi nói dối:
– Ðâu có, tớ chỉ hỏi cho biết thôi. Vậy… luôn có thần rừng đi theo canh chừng cho á thần à?
Grover nhìn tôi cảnh giác như thể nó không tin tôi bỏ qua ý tưởng về Địa ngục:
– Không hẳn. Tụi tớ đội lốt người đến nhiều trường học, cố phát hiện Con Lai nào có khả năng trở thành anh hùng sức mạnh hơn người. Nếu tìm được ai đậm mùi con lai, chẳng hạn con cái của Bộ Tam Vĩ Đại, thần rừng chúng tớ sẽ báo cáo bác Chiron. Bác ấy sẽ để mắt đến người đó bởi họ có thể gây rắc rối nghiêm trọng.
– Chính cậu phát hiện ra tớ. Bác Chiron bảo cậu thấy tớ đặc biệt.
Grover nhìn tôi như thể tôi vừa đưa nó vào bẫy:
– Tớ đâu có… Nghe này, đừng theo đuổi suy nghĩ đó nữa. Nếu là con của một trong Bộ Tam Vĩ Đại, cậu sẽ không bao giờ được giao nhiệm vụ. Như thế, tớ sẽ không bao giờ được công nhận là Người Trông Nom. Có thể cậu là con thần Hermes, hoặc vị thần nào ít quyền lực hơn như thần Ganymede chẳng hạn. Vậy nên đừng quá lo, nhé?
Tôi cảm giác Grover đang tự an ủi mình.
-O-
Ăn tối xong, ai nấy háo hức khác thường.
Chờ mãi cũng đến cuộc tranh Cờ Danh Dự.
Sau khi bát đĩa được dọn sạch, tù và vỏ ốc vang lên. Chúng tôi đứng ngay bên bàn ăn.
Mọi người hò reo khi thấy Annabeth và hai người nữa cầm lá cờ bằng lụa chạy vào lều rạp. Cờ dài khoảng ba mét bằng lụa bóng màu xám in hình chim lợn đậu trên cây ôliu. Từ cửa đối diện, Clarisse cùng hai bạn nó cũng cầm lá cờ to bằng cờ của Annabeth chạy vào. Chỉ có điều cờ của chúng màu đỏ chói, vẽ hình cây thương nhỏ máu và đầu lợn lòi. Giữa đám đông ồn ào, tôi quay sang Luke nói như hét:
– Đó là Cờ Danh Dự à?
– Ừ.
– Lúc nào đội Athena và đội Ares cũng dẫn đầu ư?
– Không hẳn, nhưng thường thì họ thắng.
– Thế nếu cờ rơi vào tay Nhà khác thì phải in lại à?
Luke cười toe toét:
– Rồi cậu sẽ thấy. Trước tiên ta phải giành được một trong hai cờ đã.
– Anh theo phe nào?
Luke liếc trộm tôi, như thể anh giấu điều gì tôi chưa biết. Trong ánh đuốc bập bùng, vết sẹo làm mặt anh thành hung ác.
– Tạm thời Nhà Số Mười Một ta về phe Athena. Tối nay ta sẽ cướp cờ đội Ares. Cậu sẽ phải giúp một tay đấy.
Các đội đứng lên nhận đồng minh. Đội Athena liên kết với hai đội đông nhất là Apollo và Hermes. Rõ ràng họ đem quyền lợi đổi sự hỗ trợ, chẳng hạn thời gian sử dụng nhà tắm, làm hộ việc vặt và nhường vị trí tốt trên sân tập…
Đội Ares liên kết với các đội còn lại là các Nhà Dionysus, Demeter, Aphrodite và Hephaestus[13]. Con thần Dionysus là vận động viên thực thụ, chỉ có điều họ chỉ có hai người. Con thần Demeter giỏi kỹ năng tự nhiên và hoạt động ngoài trời, nhưng không dũng mãnh cho lắm. Hầu như họ không tham gia hoạt động gì, chỉ ngồi soi mình xuống mặt hồ, chải tóc và tán gẫu. Không phải tôi trọng nam khinh nữ gì đâu vì nhà ấy cả trai lẫn gái đều thế. Con thần Hephaestus không đông, cũng không xinh xắn nhưng cả bốn người họ đều to cao lực lưỡng vì cả ngày làm trong lò rèn. Đối thủ đáng gờm đây! Ðó là chưa kể đến hơn chục đứa con thần Ares vừa to cao nhất, xấu xí nhất và xấu tính nhất vùng Long Island, hay nói đúng hơn là cả hành tinh.
Báo Chiron giậm chân xuống nền đá.
– Hỡi các anh hùng! Các bạn biết luật rồi đấy. Suối nước là ranh giới. Phạm vi thi đấu là cả khu rừng. Các bạn được dùng mọi vật dụng có phép thuật. Ai cầm cờ phải giơ cao cho mọi người cùng thấy và chỉ tối đa hai người được đi theo bản vệ cờ thôi. Tù binh có thể bị tước vũ khí nhưng không cần trói và nhét giẻ vào miệng. Không được giết hoặc gây thương tích cho đối phương. Tôi sẽ vừa là trọng tài, vừa là cứu thương. Hãy chọn binh khí đi nào!
Ông giơ hai tay lên. Lập tức, mặt bàn xuất hiện đủ thứ: mũ giáp kiểu Hy Lạp cổ, kiếm đồng, giáo mác, khiên bằng da bò thuộc bọc kim loại. Tôi trầm trồ:
– Chà Chà. Ta sẽ dùng thứ này sao?
Luke nhìn tôi như nhìn tên ngớ ngẩn:
– Nếu cậu muốn Nhà Số Năm băm cậu làm chả nướng thì đừng dùng. Này, cầm lấy. Bác Chiron bảo cái này vừa với cậu. Cậu sẽ bảo vệ vùng giáp ranh nhé.
Khiên của tôi to tướng có in y hiệu phía trước và nặng không thể tả. Dùng nó làm ván trượt tuyết thì tốt, nhưng đừng ai bắt tôi vác khiên này chạy thật nhanh. Tôi đội mũ của đồng minh đội Athena có chùm lông ngựa nhuộm xanh biển trên chóp. Đội Ares và đồng bọn đội mũ có chùm lông vũ màu đỏ.
Annabeth hô lớn:
– Ðội xanh xung phong!
Cả đội hò reo, vung kiếm theo Annabeth theo đường mòn xuống phía nam khu rừng. Ðội đỏ vừa tiến về phương Bắc vừa mắng nhiếc xỉ vả chúng tôi. Tôi vừa cố tránh vấp mũi cây kiếm dài thậm thượt trong tay, vừa ráng đuổi kịp Annabeth:
– Này.
Bạn ấy chỉ cắm cúi đi.
– Cậu định thế nào? Có đồ dùng phép thuật cho tớ mượn không?
Annabeth sờ túi như thể sợ tôi ăn trộm:
– Coi chừng cây giáo của Clarisse đấy. Ðừng để nó chạm vào cậu. Còn lại thì đừng lo. Ta sẽ lấy được cờ của nhà Ares. Anh Luke giao việc cho cậu chưa?
– Canh vùng biên giới. Tớ chẳng hiểu gì cả.
– Dễ thôi. Cứ đứng bên suối, xua quân đỏ đi. Phần còn lại để tớ. Ðội Athena luôn có kế hoạch đàng hoàng.
Dứt lời, bạn ấy chạy rõ nhanh, bỏ tôi lại với đám bụi mù mịt.
Tôi làu bàu:
– Ðược lắm. Hân hạnh được cùng đội với cậu.
Ðêm ấy oi ả lạ thường. Rừng tối om, thỉnh thoảng có bầy đom đóm bay lập lòe. Annabeth bảo tôi đứng bên bờ suối có nước róc rách chảy qua mấy tảng đá lớn. Sau đó, bạn ấy và cả đội tản ra trước khi vào rừng.
Ðầu đội mũ sắt cắm lông ngựa, tay cầm tấm khiên to bằng cái mẹt đứng chơ vơ bên suối, tôi thấy mình nực cười hết chỗ nói. Thanh kiếm đồng này, như bao thanh kiếm từng qua tay tôi, lệch lạc thế nào ấy. Chuôi kiếm bọc da thuộc trơn trượt như trái bóng bowling vậy.
Chắc đây chỉ là trò chơi đánh trận giả. Ai lại tấn công thật bao giờ. Ý tôi là cư dân Olympia phải ban hành luật lệ đàng hoàng chứ.
Từ xa vọng lại tiếng tù và vỏ ốc. Tôi nghe tiếng thúc ngựa, tiếng hò hét trong rừng và cả tiếng kim khí chạm nhau loảng xoảng. Một đồng minh nhà Apollo chạy vụt qua tôi nhanh như hoẵng rồi nhảy qua suối, tiến sâu vào lãnh địa đối phương.
Tôi chua chát nghĩ thầm: “Thế đấy. Cũng như trước thôi, có trò vui thì chẳng đến lượt mình!”
Chợt có tiếng động làm tôi lạnh sống lưng. Ngay gần chỗ tôi đứng vọng đến tiếng ch́ó dữ gầm gừ.
Theo bản năng tự vệ, tôi giơ khiên lên. Một linh cảm lạ mách bảo có con gì đang theo dõi từng nhất cử nhất động của tôi.
Thốt nhiên, tiếng gầm gừ im bặt. Tôi cảm giác nó vội lủi đi chỗ khác.
Từ bụi cây bên kia suối, năm chiến binh nhà Ares xông ra. Tiếng la lối, gào thét của chúng xé toạc màn đêm yên tĩnh.
Clarisse hét:
– Dần nhừ tử thằng cặn bã đó cho tao!
Cặp mắt lồi như mắt lợn luộc của nó trợn lên sau hai khe hở của nón sắt. Nó vung cây giáo dài thước rưỡi, lưỡi giáo nhọn sắc sáng loáng. Mấy chị em nó cầm kiếm đồng. Dù đó chỉ là kiếm thường nhưng cũng đủ làm tôi phát hoảng.
Năm đứa theo nhau lao qua suối.
Xung quanh không có ai để cầu cứu. Tôi chỉ có thể hoặc chạy trốn, hoặc tự vệ, một mình chống trả nửa số “nhân khẩu” của Nhà số Năm.
Thấy đứa đầu tiên nhào tới, tôi nhảy sang bên để tránh. Nhưng năm đứa này khôn hơn quỷ đầu bò. Chúng bao vây tôi. Clarisse xỉa mạnh ngọn giáo. Khiên của tôi làm mũi giáo quay xuống đất, nhưng cảm giác đau nhói, râm ran lan khắp người tôi. Tóc tôi dựng hết cả. Cánh tay đeo khiên tê dại, tia lửa bắn tung tóe.
Điện giật. Cây giáo lợi hại của Clarisse có điện. Tôi ngã ngửa ra sau. Thêm một đứa nhà Ares cầm chuôi kiếm thúc mạnh ngực tôi khiến tôi lăn lộn dưới đất.
Nếu chúng không phí thời gian cười ngặt nghẽo mà xông vào đấm đá tôi thì chắc người tôi đã mềm như thạch. Clarisse xúi:
– Cắt tóc nó đi. Túm tóc chặt vào.
Tôi cố gượng đứng dậy. Thấy tôi giơ kiếm lên, Clarisse dùng giáo gạt mạnh. Tia lửa điện lóe lên. Giờ cả hai tay tôi đều tê dại. Clarisse khoái trá:
– Úi chà, thằng này làm tao sợ chết khiếp. Anh Percy ơi, tha cho em!
– Cờ đằng kia. Sao không ra đó mà lấy?
Tôi cố giả vờ hằm hè, dọa dẫm nhưng chết nỗi giọng tôi chằng có chút khí thế nào.
Đứa khác bảo:
– Biết rồi. Nhưng mày không thấy tụi tao không thèm cờ quạt gì à? Tối nay, tao bắt mày phải đền cái tội dám làm cả nhà tao bẽ mặt hôm trước.
– Chúng mày tự bôi nhọ thanh danh mình đấy chứ.
Có lẽ cãi nhau tay đôi với chúng không phải việc làm khôn ngoan. Hai đứa bèn tiến đến chỗ tôi. Vừa lùi dần tới bờ suối, tôi vừa giơ khiên lên cao nhưng Clarisse nhanh như sóc. Mũi giáo đâm trúng mạn sườn tôi. Nếu không mặc áo giáp che kín ngực, chắc tôi thành món thịt nướng rồi. Tuy nhiên, tôi vẫn bị điện giật mạnh đến độ hai hàm răng suýt rụng khỏi hàm. Một đứa chung nhà với nó lướt lưỡi kiếm cắt ngọt ngang cánh tay tôi, để lại vết thương khá sâu và dài.
Nhìn máu mình chảy ròng ròng, tôi chóng mặt, toàn thân thoắt nóng lại lạnh buốt. Tôi cố lý sự:
– Luật cấm gây thương tích mà.
Một thằng trong bọn Nhà Số Năm lên tiếng:
– Xin lỗi đấy. Cùng lắm thì bị phạt, mất bữa tráng miệng tối mai thôi.
Nó đẩy tôi ngã ngồi xuống suối. Nước bắn tung lên.
Cả bọn cười khả ố. Chắc chắn sau khi cười thỏa thuê, chúng sẽ lấy mạng tôi. Bất ngờ, chuyện lạ xảy đến. Hình như nước làm tôi tỉnh táo, kích thích các giác quan của tôi, hệt như tôi vừa ăn h́ết gói thạch đậu hương cà-phê mẹ cho.
Clarisse cùng đồng bọn nhảy xuống nước định thộp cổ tôi nhưng tôi đã đứng vững chờ chúng đến. Tôi đã biết phải làm gì.
Tôi đập lưỡi kiếm nằm ngang vào đầu tên chạy trước làm mũ sắt của hắn văng xuống đất. Cú đập mạnh đến nỗi hai tròng mắt hắn rung lên trước khi ngã dúi xuống nước.
Thành viên thứ hai và thứ ba của đội quân Xấu Xí xông thẳng đến chỗ tôi. Một tay đập mạnh khiên vào mặt đứa này, tay cầm kiếm của tôi xén ngọt chùm lông trên mũ đứa kia. Cả hai vội lùi lại. Đứa thứ tư run sợ, không dám tiến lên nhưng Clarisse còn hung hăng lắm. Tia lửa điện trên lưỡi giáo của nó kêu lách tách. Ngay khi nó xỉa cây giáo tới, tôi nắm ngay cán giáo đoạn giữa khiên và kiếm của tôi và bẻ gãy dễ dàng như bẻ cành củi khô.
– Ối! Đồ ngu! Ðồ giòi bọ hôi thối!
Có lẽ nó sẽ còn nói nhiều câu khó nghe hơn nếu tôi không nhanh tay dùng chuôi kiếm thúc mạnh vào trán, ngay giữa hai mắt nó. Cú đẩy làm Clarisse văng giật lùi cách mép nước xa.
Vừa lúc đó tiếng hò reo vui mừng dội tới. Luke giương cao cờ của đội đỏ chạy tới vạch ranh giới. Sát cánh bên anh có hai bạn nhà Hermes chạy theo yểm hộ cùng vài đồng minh nhà Apollo chạy sau họ. Vừa chạy, họ vừa đánh đuổi mấy đứa con thần Hephaestus. Đám con thần Ares lồm cồm bò dậy, riêng Clarisse cay cú chết lặng như bị yểm bùa.
Nó gào lên:
– Lũ lừa đảo. Trò lừa gạt mạt hạng!
Chúng cuống cuồng chạy theo Luke nhưng đã quá trễ. Lúc anh cầm cờ chạy sang lãnh địa đội mình cũng là lúc mọi người đổ dồn về suối. Đội chúng tôi ở bờ bên này cùng lúc ồ lên tiếng reo mừng chiến thắng. Lá cờ đỏ mờ đi trước khi biến thành màu bạc. Đầu lợn rừng và cây giáo biến thành y hiệu, biểu tượng của Nhà Số Mười Một. Mọi người bên đội xanh đều đến chúc mừng Luke. Họ công kênh anh trên vai đi vòng quanh. Từ rừng già, bác Chiron vừa chạt nước kiệu tới vừa thổi vò ốc.
Cuộc thi kết thúc. Đội tôi chiến thắng.
Vừa định theo các bạn ăn mừng chiến thắng, tôi nghe tiếng Annabeth thoảng bên tai:
– Cũng không tệ nhỉ, anh hùng!
Tôi quay ngoắt sang nhưng không thấy bạn. Tiếng cô hỏi tiếp:
– Cậu học ở đâu chiêu thức đấu tay đôi lúc nãy thế?
Không khí lay động, Annabeth cầm mũ lưỡi trai của đội bóng chày Yankee hiện ra.
Cảm giác giận dữ trong tôi mạnh đến nỗi át cả sự ngạc nhiên trước một Annabeth biết tàng hình.
– Cậu dắt mũi tớ. Sở dĩ cậu bảo tớ đứng đây vì biết thể nào Clarisse cũng đến chỗ tớ gây sự. Trong khi đó, cậu phái anh Luke đưa quân tấn công hai bên sườn đối phương. Cậu tính hết từ trước rồi phải không?
Annabeth nhún vai:
– Tớ đã bảo cậu rồi. Lúc trước tớ có nói nhà Athena luôn có kế sách mà.
– Mưu đồ của cậu biến tớ thành mồi ngon của Clarisse!
– Đừng nói thế. Tớ ráng hết sức chạy thật nhanh đến cứu cậu. Đúng lúc tớ định nhảy vào… – Cô nhín vai – Cậu đâu cần tớ giúp.
Lúc này, Annabeth mới thấy cánh tay tôi bị thương:
– Sao cậu làm được thế?
– Bị tụi nó rạch chứ còn sao nữa.
– Nó khỏi rồi. Cậu nhìn mà xem.
Vệt máu biến mất. Chỗ có vết thương há hoác giờ là vết sẹo dài màu trắng. Thậm chí, sẹo cũng đang mờ dần. Sẹo lớn nhỏ dần thành sẹo mảnh và biến mất ngay trước mắt tôi.
– Sao… sao lại thế được?
Annabeth suy nghĩ rất lung. Cô bạn hết nhìn chân tôi lại nhìn cây giáo gãy của Clarisse rồi ra lệnh:
– Percy, cậu lên bờ đi.
– Gì cơ…
– Làm ngay đi.
Vừa đặt chân lên bờ, tôi đã mệt rã rời. Hai cánh tay tôi tê dại. Cảm giác phấn khích tan biến hoàn toàn. Tôi suýt khuỵu xuống, may mà Annabeth đỡ kịp.
– Thôi chết, không hay rồi. Tớ không mong… Vậy mà mình cứ tưởng thần Dớt…
Tôi định bắt Annabeth giải thích rõ nhưng không kịp. Tiếng chó dữ gầm gừ khi nãy lại nổi lên, lần này nghe gần hơn lần trước. Tiếp đến là tiếng tru rờn rợn vang dội khắp rừng già.
Tiếng reo phấn khởi im bặt. Bác Chiron thét lên bằng tiếng Hy Lạp cổ. Mãi giây lát sau tôi mới hiểu trọn nghĩa:
– Sẵn sàng chiến đấu! Mang cung cho ta!
Annabeth giơ cao thanh kiếm tuốt trần. Ngay trên đống đá tảng sừng sững trước mặt chúng tôi có con chó săn đen trũi, to bằng con tê giác, mắt vằn đỏ như máu, bộ nanh sắc như dao. Mắt nó phóng thẳng về phía tôi. Không ai nhúc nhích ngoại trừ Annabeth. Bạn ấy la lên:
– Chạy đi Percy!
Annabeth định bước lên che cho tôi nhưng con quái thú nhanh như cắt. Nó nhảy qua đầu Annabeth. Cả khối đen thẫm chỉ có răng nhọn trắng nhởn lao thẳng vào tôi. Tôi ngã ngửa, chỉ kịp thấy hàm răng nhọn cắn ngập tấm áo giáp che ngực mình. Sau đó là một loạt âm thanh xoàn xoạt, nghe như ai xé lần lượt bốn mươi tờ giấy, hết tờ này đến tờ khác. Một vòng tên nhọn cắm phập quanh cổ quái thú. Nó lăn ra chết ngay dưới chân tôi.
Tôi còn sống như có phép màu. Tôi sợ không dám nhìn xuống tấm áo giáp tả tơi. Thấy ngực mình ươn ướt, âm ấm, tôi biết mình bị thương nặng. Chỉ chậm một giây thôi là quái thú sẽ biến tôi thành súc thịt vô tri nặng năm chục ký lô.
Lo sợ ra mặt, bác Chiron đến bên chúng tôi. Annabeth bảo:
– Thật kinh khủng. Đó là con chó ở mười hai tầng địa ngục, nơi trừng phạt những linh hồn tội lỗi. Chúng không thể… đáng lẽ chúng không…
Bác Chiron đăm chiêu:
– Có người gọi nó lên đây. Nhất định là người trong trại.
Luke đi tới. Lá cờ rũ rượi trong bàn tay buông thõng. Niềm vui chiến thắng trong mắt anh tiêu tan. Clarisse gào lên:
– Percy làm đấy. Chính nó gọi con chó canh địa ngục.
Bác Chiron gắt:
– Im lặng nào!
Trước sự chứng kiến của mọi người, xác con chó lẩn vào bóng tối, rút xuống đất cho tới khi không còn dấu vết.
Annabeth giục tôi:
– Cậu bị thương kìa. Xuống nước ngay đi.
– Tớ khỏe mà.
– Không, xuống đi. Bác Chiron nhìn cậu ấy xem.
Tôi mệt muốn xỉu, không muốn lý sự dài dòng, chỉ lầm lũi bước xuống suối. Toàn trại vây quanh tôi.
Tức thì, tôi khỏe khoắn hẳn lên. Da thịt rách bươm trên ngực tôi lành lại. Trong đám đông, vài người vụt đưa tay bưng miệng. Tôi cố xin lỗi:
– Các cậu, tớ không biết sao lại thế. Xin lỗi…
Nhưng mọi người không xem vết thương. Mắt họ dồn về phía thứ gì lơ lửng trên đầu tôi. Annabeth chỉ tay:
– Percy, nhìn kìa…
Lúc tôi ngửa mặt lên nhìn, dấu hiệu đã mờ dần. Tuy nhiên, tôi vẫn nhận ra dấu nguệch ngoạc màu xanh lục lấp lánh sáng và đang xoay tròn kia là cây đinh ba.
Annabeth lẩm bẩm:
– Cha cậu đấy. Thế này không hay rồi.
Bác Chiron tuyên bố:
– Thân thế Percy đã được khẳng định.
Mọi người vây quanh tôi đều quỳ xuống, ngay cả mấy đứa trẻ nhà Ares. Tất nhiên, nét mặt chúng chẳng vui vẻ gì. Tôi hoang mang cực độ:
– Cha tớ là ai?
Bác Chiron quả quyết:
– Thần Poseidon, thần gây động đất, dông bão và là thần của loài ngựa. Chúng tôi kính cẩn chào đón Perseus Jackson, con trai của Thần Biển Cả.