Bạn đang đọc Nữ Tướng Miền Sơn Cước – Chương 17: Cướp Tử Tù
ình thù phi thú, phi nhân, coi gớm ghiếc, quái đản, khoác một tấm áo choàng đen, đầu là một cái sọ người, mình mẩy từng lớp đen xì, coi như vẩy cá.
Hai con mắt đầu lâu đỏ khé như mắt cọp ăn đèn săn, nhòm xuống bãi khô lâu.
Thoạt thấy, kẻ nhát gan khủng khiếp, tưởng hình thù ma quái, nếu gần, nhìn kỹ, mới hay đó chỉ là một pho tượng sắt, gỗ chì, giống pho tượng đã hiện ngoài Mê
Sơn vịnh Hạ Long.
Không ai khác Quang Sát Tinh Quân, chúa soái Cờ Đen!
Lão tặc ngồi im, mắt trừng như con thú dữ rình mồi.
Bỗng một hồi tù và từ dưới vọng lên, nơi tiền môn, liền hai bóng kỵ sĩ vọt qua cầu cuốn, vào sơn trại. Lát sau đã nối đuôi nhau lao vào cửa hang Đầu Lâu, rạp mình trước bãi khô lâu:
– Bẩm soái gia, bọn tôi đã về!
Giọng nói hết sức cung kính, hình thù phát tiếng trầm oai:
– À! Cả hai đã về đó ư? Cứ vào đây!
Cả hai rón rén đi giữa bãi khô lâu. Nến soi tỏ hai viên cận tướng Cờ Đen: Đa Sát Thủ và Thiên Lôi Đả.
Tuy cận tướng nhưng chưa khi nào thấy Chúa soái vì ngày thường chỉ được gặp Độc Tinh Quân, Long Nữ nên vừa ngó lên, thấy Đông Quân, cả hai đều giật mình đứng sững. Mấy giây, A Thiên hộ pháp mới cất giọng ồm ồm Quảng Đông:
– Bẩm soái gia, bố cáo khắp nơi, mấy tỉnh biên đều đang dựng pháp trường!
Chưa thấy yết rõ. Tây Quỷ hiện ở Cao Bằng, còn Tây Bàn, tuần phủ Cung không biết đi đâu! Nhưng có tin từ Lào Kay cho biết đêm mai một chuyến tàu bị xung công bảy toa chở lính! Hình như có chở theo tội nhân, vì “xếp” ga cho hay: có cả toa tàu bọc sắt!
– Còn Đa Sát Thủ?
– Dạ! Tôi cùng thám mã giả dạng đi dọc sông Lô, sông Gầm, sông Chảy về
Việt Trì được biết đạo quan binh ở đó bị cắm trại một tuần và mấy hôm trước có một chiếc tàu chiến nhỏ ngược sông Gầm! Người của ta hiện theo sát, dò ngày tàu xuôi!
– Nghe chúng bàn sao?
– Quân binh mấy tỉnh đều bố phòng cẩn thận, sửa soạn “trảm”, có nơi đang lo in giấy mời quan khách!
Trên ngai đen, Đông Quân “hừ” một tiếng, cười khô:
– Tây Quỷ đa mưu, đang nghi binh kế! Làm ta không biết chém nơi nào. Có thể nó sẽ chém mỗi tỉnh một vài người, còn phó soái, soái cô bọn ngươi hiện nó sẽ giải về Hà Nội cho chắc chắn, hay để tại biên trấn? Nó giấu chỗ giam, chưa rõ, tốt nhất cứ đánh cướp cả hai đường thủy bộ rồi sẽ liệu! Nếu không… Đang nói, bỗng lão ngừng lại, giơ tay trái đánh luôn một quẻ Lục Nhâm!
Vùng phát giọng cao:
– À! Ứng “Thủy”! Nó giải đường sông! A Thiên, Đa Sát Thủ, hai ngươi khá lấy 102 kỵ binh cảm tử, đi theo đường bộ! Còn đường sông để ta! Nhớ trà trộn vào một ít! Cận chiến nghe!
– Còn soái gia… dẫn bao nhiêu, để bọn tôi đi điểm?
– Độc hành!
Lão soái Cờ Đen nghiến răng buông tiếp lời trầm rợn:
– Ta sẽ vào tàu chiến, cứu soái cô, phó soái, như vào chỗ không người! Ta sẽ cho nổ tung cả biên thùy, tát cạn biển để vớt hai con cá quỷ. Nếu cần ta sẽ bắt cả tướng Tây, cả Thống sứ toàn quyền đổi mạng! Đi ngay!
Hai viên giặc khách rạp người “dạ” ran, rời hang đá.
Còn lại lão Tinh Quân, chợt lão vùng đưa tay bấm thêm quẻ độn Trương
Lương, theo đốt vòng quanh Bát Quái:
– Càn khảm cấn chấn tốn ly khôn đoài! Kim mộc thủy hỏa thổ! À! Không sai! Lại “thủy”! Bí truyền độn pháp, không sai!
Vèo cái, lão đã xẹt xuống tít bãi khô lâu, cười thé, rạp cả hàng nến cháy.
Khi xưa nhờ giỏi độn, Lưu Vĩnh Phúc tướng giặc Cờ Đen đã tung hoành khắp cõi, nằm bên khay đèn, định được trận như chơi! … Đêm sau, trăng soi vằng vặc, dân Lào Kay xôn xao bàn tán, thấy quan binh cả mấy đại đội kỵ bộ pháo thủ lên đông đầy bảy toa tàu, thêm mấy toa lừa ngựa, đem theo mấy chiếc cũi bịt kín, bỏ vào toa bọc sắt. Mật thám kiểm điểm từng hành khách, rồi mới cho tàu chạy.
Con trăn khổng lồ xình xịch chạy trên thiết lộ, lắc lư như say rượu, vắt khắc mấy chục toa xuyên qua vùng rừng núi âm u. Trăng mười ba đầm đìa, đêm khí đá lành lạnh, hành khách chui vào nhau, trò chuyện, mấy toa lính, súng chĩa tua tủa hai bên, trên nóc toa cuối, đều đặt ổ liên thanh.
Vừa tới “tuy nen” Hokéou tối thui, thình lình từ trên liền hai mươi bóng đen đu vèo xuống, đèo nóc toa, sườn toa như khỉ, thoắt qua hầm, mất dạng.
Rồi mỗi ga dừng, lại một khách sơn cước lên như thường lệ. Cứ thế, con tàu tiếp tục nuốt đường. Hành khách bắt đầu ngủ gật, các đám lính Tây, ta cũng lim dim nhắm mắt vì tiếng chạy triền miên cành cạch, bánh tàu nghiến qua khúc nối đường rầy…
Trong một toa hành khách, một người Tàu thu hình ngủ gật, bỗng choàng mắt hỏi bâng quơ:
– Hầy à! Không pết tới đâu rồi à?
Một người đàn bà đáp giọng hơi khác:
– Gần tới Văn Phú rồi! Chú xuống Văn Phú, hay Yên Bái?
Người Tàu đứng phắt lên, xách va-li, bước ra ngoài cửa toa, nhìn hai bên đường. Tàu đang vào một vùng rậm rạp. Người khách biến mất. Trên toa đầu máy, người “vát măng” vừa buông tay, cùng kẻ phụ máy hút thuốc lào. Một chú lính ta trong tổ liên thanh mò xuống kéo một hơi, trên nóc còn một chú cai Tây và một lính khố đỏ. Tàu vừa vào bóng núi loang lổ, thình lình, người khách vừa nãy, leo vụt lên nóc toa máy.
Người cai Tây vừa thoáng thấy, đã bị tên khách xòe tay chặt một nhát ngang cổ, lộn bắn xuống đường, tay kia đặt va-li thọc luôn vào huyệt chú lính bên cạnh, gục luôn trên báng súng. Nhanh như cắt, tên khách mở va-li rút ra một khẩu tiểu liên đu vèo xuống dưới. Mấy người đang hút thuốc, giật mình trông ra, đã bị tên khách chặt một nhát gục cả hai, dí súng vào người “vát măng”, quát trầm:
– Dừng tàu lại!
Chú “vát măng” thất kinh, lật đật bấm máy. Con tàu chậm dần. Ngay khi đó, lại một tên từ ngoài len vào. Tên khách hất hàm:
– À! Mi biết nghề lái tàu, để nó làm gì?
Bịch! Một báng súng nện trúng đỉnh đầu “vát măng” gục liền. Tên kia hất ra ngồi luôn vào ghế.
Người Tàu nọ rút phắt một chiếc khăn trắng buộc cổ tay, phát cười khô ác, chiếu đèn phía trước. Lập tức có ánh sáng lập lòe trên núi xa, ngay bên đường sắt.
Con tàu rú lên một tràng còi, ngừng lại giữa khu núi rậm.
Hành khách, lính tráng choàng mắt ngơ ngác hỏi nhau:
– Cái gì thế? Tới ga rồi à?
Ngay lúc đó tên khách dữ vọt lên nóc toa, rê luôn một tràng tiểu liên về phía ổ súng máy cuối tàu, theo ánh đèn bấm chiếu. Cả mấy người lính chết gục. Từ đâu hai, ba bóng đen vọt lên, chiếm luôn ổ súng.
Hành khách, lính tráng nhốn nháo. Trong một toa lính, đặt ban chỉ huy, viên quan tư Tây, quát lớn:
– Phục kích! Chuẩn bị! “Phơ”!
Trong mấy toa kế toa lính, lẫn toa hàng, toa tàu ngựa nhà nước, vụt nhô lên cả mấy chục họng súng tua tủa:
– Ngồi im!
Hành khách run lập cập. Có kẻ sợ quá, đái ra quần. Có mấy người rút hẳn súng ra, nhưng bọn kia nhanh mắt, lia chết gục.
Trên toa mấy tên Tàu dữ cười khô:
– Thanh toán xong các toa phụ rồi! Mau nổi hiệu tấn công!
Tên lửa bay vun vút về phía toa lính, cắm dọc trên đường sắt.
Lập tức, từ hai bên núi, súng nổ chát chúa, đạn từ các tên lửa thi nhau bắn vào các toa lính, cắm cả vào thành cửa.
Quan binh bắn trả như mưa. Viên Thiếu tá hét:
– Ổ súng máy nóc toa đâu? Sao chưa khai hỏa?
Một viên đội ta bị một vết thương trên trán từ trên nhảy xuống:
– Bẩm quan tư! Chúng nó chiếm hai ổ súng trên nóc rồi! Mấy toán rải ở toa hành khách cũng bị thanh toán!
Viên Thiếu tá nổi nóng hét:
– Chiếm lại các toa khách! Coi chừng toa giáp nó quăng tạc đạn! Bắn hỏa pháo hai bên rừng! Thụt “moóc chê” vào! Đạn nổ chát chúa! Hỏa pháo rớt vòng cầu sáng rực, soi rõ từng bóng nhân mã đen lố nhố sau lùm cây hốc đá. Hỏa lực quan binh rất mạnh đánh dạt bọn ngoài, nhưng bọn trong tàu chiếm nóc toa các cửa lên xuống bắn rát lính nhà nước nhất thời không ló đầu ra được, tuy chỉ có chừng vài ba chục địch.
Quan binh phải đóng cửa ra vào toa còn toa khách bắn cầm chừng.
Trên toa máy, tên Tàu dữ không ai khác Đa Sát Thủ, cận tướng Cờ Đen.
Trước hỏa lực quan binh, viên tướng Cờ Đen vùng truyền thủ hạ:
– Bắn cản cho ta! Mau!
Và nhanh như cắt, tên khách dữ, leo lên nóc, rún mình nhảy vọt qua các toa, hạ chân xuống trại lính, lăn vèo vèo, dưới lằn mưa đạn, thoắt đã tới toa tù bọc sắt. Đứng sau mỏm đá bên núi, Thiên Lôi Đả vội truyền thủ hạ nhè bắn vào những bàn tay lính đứng lấp ló cửa toa.
Viên thiếu tá thấy giặc không áp lại, vội quát:
– Thanh toán ổ súng mau! Đạn vãi rào rào. Nhưng bọn giữ súng máy bắn rất giỏi, lợi hại không kém hai cánh quân. Đa Sát Thủ rút ra một lọ “át-xít” khoanh tròn một đường vòng thúng, rút gươm vạch mạnh, xòe tay đánh thốc xuống. Cả một mảng bằng cái thúng bắn tung theo, đường gió quật nhào luôn hai người lính nấp dưới định bắn lên. Tên tướng giặc Cờ Đen bay theo như con cắt, đường gươm đảo lia, vừa kịp chém lìa tay súng thứ ba phát nổ. Viên đạn sướt qua gáy, Đa Sát Thủ lăn vèo vào một góc tối, lia đèn bấm. Không còn một người lính nào nữa. Cả mừng tên khách tiến luôn lại bên cúi lật phắt tấm vải trùm. Cũi trống không!
Soạt! Soạt! Liền hai cái nữa cũng vậy! Chỉ là ba cái cũi không người. Cái trong cùng, có một hình rơm bện ngồi trong trên ngực có tấm biển đề chữ Hán: “Gửi tướng giặc Cờ Đen họ Võ! Bản chức sẽ chém đầu con gái ngươi, em ngươi, bêu đầu khắp biên thành. Ngươi còn hai ngày nữa để suy nghĩ! Nếu chịu bỏ mộng điên cuồng, về hàng, nhà nước sẽ tha tội chết cả ba, cho sống cuộc đời sung túc tại một hải đảo thuộc địa Mỹ châu, đủ danh dự của hàng tướng loạn! Nếu không chịu, cứ đến xem mặt con, em tại pháp trường!” Đa Sát Thủ giật tấm biển, nghiến răng:
– Hầy! Tây Quỷ đánh lừa! Phải về báo soái gia mới được!
Tên khách đu người lên, rút một tràng tù và. Lập tức, bọn đuôi Tàu quất ngựa thả hết xuống đường, chuyền nóc toa, mạnh ai nhảy xuống, đánh giáp lá cà thốc vào các toa có giặc.
Nhưng đầu máy bất ngờ đã rời xa, xình xịch chạy về phía Văn Phú, chỉ còn đạn vãi lại sau. Bọn A Thiên phục hai bên núi cũng rút đi như biến. Quan binh lấy ngựa đuổi theo, ngựa chạy tứ tán rồi đành vừa đuổi bắt lại ngựa vừa bắn theo chiếc đầu máy mất hút vào rừng đêm. Chừng lát sau kiếm được ngựa đuổi tới, chỉ còn thấy toa máy đang bốc cháy cách ga Văn Phú mấy cây, bọn giặc Cờ Đen đã biến mất, thồ theo cả xác đồng bọn.
Cũng đêm đó, tít miệt thượng lưu sông Gầm, một chiếc khinh khoái đỉnh mở máy chạy về phía ngã ba sông Lô, sông Gầm, bất chấp đá ngầm cuồng dữ. Khinh khoái đỉnh đèn điện sáng chưng phía trước có một chiếc “ca-nô” dẫn lối, đến đâu cũng cấm thuyền bè lại gần. Trên bờ rầm rập bóng kỵ binh, khinh khoái đỉnh, ca nô bịnh kỵ đều trương quân kỳ biên giới, lại có phụ cờ thêu khố xanh của giám binh Cao Bằng. Trên tàu, lố nhố đầy lính khố đỏ khố xanh. Nguyên trên boong có cả tiểu đội lính canh cẩn mật.
Trăng soi vằng vặc, tàu chiến xuôi giòng, quá nửa đêm, cách ngã ba sông
Lô, sông Gầm chừng hai mươi cây thì trăng đã xế bóng núi Tây.
Cũng đêm đó, từ hướng thành Tuyên Quang, một người áo chàm với ngựa đỏ lông, phóng như bay về phía sông Gầm!
Mấy giờ sau, đã thấy người này xuất hiện bên hữu ngạn sông Gầm, dừng ngựa trên một ngọn đồi ven sông hoang vắng, đăm đăm nhìn xuống sông đêm đẫm ánh trăng bóng núi.
Thình lình, có tiếng vó câu khua nhẹ, gần đấy, chàng vội ẩn vào bóng cây, bỗng nghe có tiếng trầm rợn rót vào tai:
– Gã kia! Mi là ai? Ra đây làm gì?
Chàng trai còn đang ngơ ngác, đã thấy một bóng nhân mã xẹt tới trước mặt.
Chàng vội đề chân khí, định thần nhìn kỹ, thốt bật kêu khẽ:
– Kìa! Mi…. chính mi! Lão tặc!
Vì bóng kỵ sĩ vừa hiện ra, phi thú phi nhân, chỉ là một pho tượng sắt, đầu lâu đen xì, cỡi trên một con thiết kỵ, ngoài còn choàng một chiếc áo rộng:
– Đông Quân Phi Mã Ác!
Tượng đen phát tiếng sắc như dao:
– Phải ta đây! Còn mi… là ai? Phải đến đây đón tàu Tây? Cái mặt tên Ma dục… Nhưng tên đó đã bị Thần Quân giết chết, còn đâu? Mi là ai? Phải họ… Lê, ngựa đỏ?
Thái Dũng thấy dạng cừu nhân cách độ hai thước, lòng sục căm hờn, cười gằn:
– Khen lão tặc thông minh! Chính ta họ Lê đây! Cùng mi chẳng đội chung trời!
Dứt lời, chàng vận khí, tung luôn một nhát phản phong. Một luồng khí đen loằng ngoằng chụp tới, thế mạnh khác thường. Đông Quân phát cười the thé, có ý coi thường, vung luôn ra một đường chưởng dữ.
Nghe “ầm” một tiếng, áp lực gãy cành, cả hai đều “hừ” bắn lại hàng thước.
Ngạc nhiên lão tặc vùng hỏi:
– Mới có mấy tháng, lẽ nào đã tiến bộ đến thế? Phải ngươi đã được cao nhân truyền nội lực?
Thái Dũng chẳng nói, chẳng rằng, múa cây định đánh nữa, bất ngờ có tiếng la từ đâu tới vọng lại tựa chuông đồng:
– Kỵ binh nhà nước sắp hộ vệ tàu Tây tới! Sao không hoãn cuộc?
Cả hai cùng liếc quanh, Đông Quân hỏi:
– Trai Lê! Phải tới đây chờ lên tàu chiến?
Thái Dũng lạnh lùng:
– Khuyển phụ sinh hổ tử? Bất tất hỏi ta!
Lão soái Cờ Đen bỗng phá lên cười, vọt luôn đi:
– Mai mốt gặp lại, nếu muốn tranh hùng! Giờ ta tạm dung cho!
Thái Dũng định chặn lại, chợt lại thôi, vì đã nghe tiếng nhạc đồng khua rộn rã ven sông, rập vó câu nhà nước tới, tít xa vừa hiện ra bóng chiếc khinh khoái đỉnh xuôi lại, đèn điện như sao sa. Khẽ chép miệng, chàng vọt xuống đồi nói vọng:
– Lão Đông Quân! Xong việc này ta sẽ đến tìm ngay!
Phút chốc đã thấy từng đoàn kỵ binh tới, nước kiệu băm, dưới sông chiếc khinh khoái đỉnh ầm ì đổ xuôi, bóng lính canh đứng sững trên boong. Ca-nô dẫn đầu đuổi thuyền bè tránh xa. Ngay lúc đó, có một chiếc thuyền chài đi gần hữu ngạn, vừa đến dưới một tàn cây rũ bờ ao, bỗng hơi chao nhẹ một bóng đen buông mình xuống như lá rụng. Ánh đèn cháy vật vờ soi bộ mặt dữ tợn, một cô gái chài đang nằm ngửa, chèo bằng chân, nhác thấy sợ quá định kêu, bóng đen đã xẹt vào, dí luôn ngọn kiếm đen xì.
– Im! Chớ sợ! Cứ chèo như thường! Động, ta cắt cổ!
Cô líu cả lưỡi, răm rắp tuân theo, chiếc thuyền chài lửng lơ xuôi giòng đậu, chờ ca-nô đi qua liền ra luôn giữa sông, như bị nước cuốn. Phút chốc, khinh khoái đỉnh đã lại gần, vượt lên, sóng đánh dội thuyền chài, bóng đen câm nín nhìn lên, ra lệnh cho cô lái lùi lại. Cô gái dạt chèo, khinh khoái đỉnh vượt lên đến hai con sào, còn đang chống sóng đánh, chợt thấy thuyền chài nhẹ bổng, ngoái lại không thấy cái bóng đâu nữa. Cô gái dựng tóc gáy, tưởng gặp ma rừng, lật đật đánh miết thuyền vào bờ.
Trên khinh khoái đỉnh, bóng đen dữ tợn đã đu mình lên boong tàu, nương bóng trăng xế, bóng cột tiến vào. Vụt lại, nắm ngay lấy mạch môn cườm tay một tên lính ta đang ngồi ngủ gật:
– Chớ sợ! Nói, ta sẽ không giết! Tù giam đâu? Bao nhiêu người?
Bị điểm, chú lính ú ớ, thất thần mãi mới lắp bắp:
– Dưới hầm tàu, bẩm… hình như có mấy người!
– Định chở đi đâu?
– Bẩm Tuyên Quang, Hà Giang! Tới ngã ba sẽ ngược sông Lô!
– Dẫn lối! Khác ý chết liền! Đoạt súng ném đi, cái bóng dí huyệt sau lưng đẩy chú lính theo ngả khuất xó tối, tiến bước canh khuya, lính thủy bộ đã ngủ, chỉ còn ít lính gác cùng một người trên viễn vọng đài. Nhờ thế, thoắt đã tới cầu thang khuất. Bóng đen – Thái Dũng – lập tức đánh ngất chú lính canh, lột y phục, mũ khoác vào gạt bắn xuống một góc tối, theo lời khai xuống hầm. Loanh quanh mãi mới đến tần sâu tối om, chàng trai đang lần mò bỗng giật mình thấy chờn chợn như có kẻ đang rình. Bèn nép vào xó, thủ thế định thần ngó phía trước thấy có ánh đèn le lói, thoáng có bóng người.
Lập tức tiến vào nữa, chờ ánh đèn hắt ra, mới hay nơi này là một kho đạn chồng chất, cách mươi bước, có một căn buồng khóa, ngoài cửa có hai chú lính đang ngồi tu vụng rượu, súng để ngang đùi.
– Đúng đây rồi!
Thái Dũng vừa toan đi tới, ra tay, thình lình nghe “véo véo” hai tiếng xé gió, lập tức hai người lính gục chết tươi, thủng óc coi đáng sợ.
Bựt! Ngọn đèn điện vỡ tan. Thái Dũng ngạc nhiên rón gót tiến lại, nghe tiếng khóa lách cách, lóe ánh đèn bấm, rồi im lìm.
Chàng trai tiến luôn lại, dòm qua khe hở, thấy dưới ánh đèn tù mù, bốn, năm người bị xiềng, rũ lưng vào vách. Xế cửa vào, có một bóng đen đứng sững, phát giọng rất lạnh:
– Thiên La! Thiên Kiều! Giòng họ mi phải chết! Ta tới đưa hồn về cõi âm!
Cả mấy người bị xiềng, cùng nhìn lên, nhờ ánh đèn, Thái Dũng thấy rõ Độc
Tinh Quân cùng mấy tên giặc Cờ Đen.
Bóng lạ bật giọng khàn khàn:
– Không có gái Đông Quân! Nó đâu? Độc Tinh Quân chừng bị tiêu lực, lắp bắp:
– Ngươi là ai? Tới đây làm gì? Cháu ta chúng giải đường khác!
Bóng đó cười khan, giơ tay mặt phóng chỉ liền. Bọn phó soái Cờ Đen thúc thủ, Thái Dũng không thấy Long Nữ, đã định bỏ đi, nhưng nghe tiếng người lạ quen quen, lấy làm lạ cố nán lại, chợt thấy người lạ thình lình xuất thủ, Thái Dũng còn đang khó xử, bất thần nghe vù gió dị, từ ngoài một đạo ngân quang bay vào, nhanh như chớp lòe. Người lạ rút phắt tay lại, nhưng cũng bị đứt lìa một ngón. Từ ngoài, một hình thù tượng sắt nhảy vào, kẻ lạ búng tay trái vỡ tan ngọn đèn, quét một đường gió cực mạnh, vọt ra. Nhưng bóng tượng – Đông Quân – đã án ngữ chỗ Độc Tinh Quân, vung luôn tay, nổi ngân quang, chém vụt theo.
Bóng lạ đã kịp lăn vèo đi, “chát” ngân quang đảo ngoằn sát sàn tàu, chém đứt đôi một két đạn! Lửa lóe lên, két đạn nổ đì đùng bắn loạn như mưa rào. Đông Quân thu gươm, chém xả xuống xích xiềng, lôi Độc Tinh Quân cùng cả bọn dậy. Đông Quân quả tay lợi hại, chỉ phất một cái đã giải hết huyệt đạo cho cả bọn.
Nhưng cả bọn thương tích đầy mình, đi chưa vững. Độc Tinh Quân nói nhanh:
– Cha con họ Cung đánh âm thương, cho uống độc dược, công lực còn lâu mới hồi… Đạn vẫn nổ dữ, Đông Quân ghé vai cõng luôn em, một tay cắp thêm một thủ hạ đầu mục.
Vừa ra cửa, liền hai tên bị trúng đạn, chết tươi. Cả hầm lập lòe, đạn bắn lia, phát nổ luôn mấy két nữa.
Thái Dũng thấy thế, tự nhiên quên hết thù riêng, vọt lại cắp đại hai tên còn sót, cùng Đông Quân lao đi như gió.
Ngay lúc đó, một bóng tầm thước hiện cửa buồng, chiếu đèn bấm, nhặt luôn ngón tay còn dẫy dụa như đuôi thạch sùng. Và rất ung dung, đu mình lên một lỗ hổng khoét sẵn trên trần tối, mất hút.
Cả tàu choàng thức, nhốn nháo, ngược xuôi. Trong phòng riêng viên giám binh cùng tuần phủ họ Cung đang chúi đầu đàm mật, nghe đạn nổ, xách gươm súng chạy ra.
Vừa kịp thấy mấy bóng đen cõng nhau vọt dưới hầm lên, cả hai hô lớn:
– Cướp tù! Phơ!
Dưới hầm phát nổ dữ dội. Lính gác lảy cò. Mấy bóng nhanh như cắt vọt về phía tàu, lao vù xuống sông.
Một bóng đứng sững trên lan can cười the thé:
– Đêm nay, ta để đầu bọn mi trên cổ! Còn con gái ta, nếu không tha gấp, cả biên thùy sẽ nổ tung như tàu chiến đêm nay!
Cả Tây Bàn, Cung Đình Quyền cùng lảy cò. Chỉ thấy bóng Đông Quân giơ hai tay. Đoàng! Đoàng! Súng Tây Bàn, họ Cung đã bị bắn rụng, toạc hổ khẩu.
Viên giám binh, lão soái Cờ Đen đã tung mình lao người xuống sông Gầm, độn thủy biến mất. Đạn vãi trên giòng, bỗng một tiếng nổ mạnh xé rách màn đêm, chiếc khinh khoái đỉnh rúng động, nổ tung hất cả lính tráng lên cao, giữa những tiếng rú kinh hồn.
Khắp miền tả hữu ngạn, dân gian choàng thức bàng hoàng. Chỉ phút sau, chỉ còn chiếc ống khói cột cờ nhấp nhô giữa dòng, chung quanh lềnh bềnh xuồng cấp cứu, người lội bì bõm…
Dưới trăng tà, Gầm giang nước réo vô tình…