Bạn đang đọc Nữ Thần Báo Tử (Tập 2: Cứu Rỗi Linh Hồn) – Chương 16
Chương 16
CHÚNG TÔI ĐI THEO HƯỚNG QUỐC LỘ I-30 rồi rẽ ra cao tốc 12 hướng thẳng tới Irving, nơi đội bóng Dallas Cowboys (Các chàng cao bồi Dallas) đã kết thúc mùa bóng cuối cùng của mình tại cái sân vận động cũ. Tôi lái, còn anh Nash chỉ đường. Cũng may là anh ấy tới Sân vận động Texas vài lần rồi, nên ngoại trừ một lần rẽ hụt – tôi rất ghét các biển chỉ dẫn trên đường cao tốc vì chúng không bao giờ rõ ràng – chúng tôi không gặp khó khăn gì để tìm đường tới đó. Mặc dù tôi cũng thấy hơi sờ sợ khi phải lái xe trên con đường vắng tanh không một bóng người như thế này.
Chúng tôi đậu xe ở cửa phía nam của sân vận động và mặc dù không khí bên ngoài ấm áp và ẩm hơn so với ở trên xe nhưng hai tay tôi vẫn sởn hết gai ốc. Tôi đang lo sợ rằng sẽ lại bước qua một cánh đồng toàn gai khác, hoặc thứ gì đó còn khủng khiếp hơn.
“Em sẵn sàng chưa?” Anh Tod đặt tay lên nóc xe của Emma, nhoài người ra phía trước hỏi. Anh Nash đứng bên cạnh, thận trọng quan sát tôi, như thể tôi sắp ngã khuỵu tới nơi rồi. Hoặc bật khóc tức tưởi.
Không lẽ anh ấy thực sự nghĩ tôi yếu đuối thế sao?
Không, tôi chưa sẵn sàng. Nhưng tôi cũng không có ý định kéo dài thời gian thêm một phút nào nữa. Chị Addy đang sắp hết thời gian.
“Đây là nơi thường có rất đông người tụ tập, phần lớn thời gian, vì thế phần này của Cõi Âm chắc hẳn neo khá chặt vào thế giới của chúng ta.” – anh Tod đút hai tay vào trong túi áo khoác – “Đồng nghĩa với việc không gian và thời gian bên đó chạy gần như song song với bên chúng ta.”
“Nhưng mấy tuần nay ở đây làm gì có trận đấu nào” – tôi hết nhìn ông anh lại nhìn sang ông em – “Việc thiếu vắng đi các hoạt động của con người có khiến cái mỏ neo ấy trượt ra chút nào không anh?”
Anh Nash vòng qua đầu xe, nắm lấy tay tôi, trong khi anh Tod nhún vai trả lời. “Chắc nó cũng tuột ra một chút trong thời gian không phải mùa giải. Nhưng nguồn năng lượng con người đã tích tụ tại đây bao năm qua vô cùng dồi dào, nên mất đi hai tuần cũng không thể gây ra sự khác biệt gì đâu.” – anh bước tới nhập hội cùng tôi và anh Nash – “Có thể sẽ có một chút khác biệt về không gian và thời gian bởi vì bây giờ là nửa đêm và xung quanh chúng ta không có ai, nhưng tỷ lệ là rất nhỏ. Chắc chắn nhỏ hơn rất nhiều so với những gì em cảm thấy khi ở nhà.”
“Thế còn cây cối thì sao ạ? Chúng ta có bị đâm cho thủng người khi đi qua đó không?”
Anh Nash ôm tôi vào lòng. “Anh nghĩ là không. Nguồn năng lượng ở đây khá lớn để những loại cây sắc nhọn như thế có thể mọc được. Hơn nữa đám người Cõi Âm suốt ngày lượn lờ điên đảo quanh đây, cây cối nào mà mọc cho được, đúng không?” – anh Nash nhìn anh Tod như thể xác nhận lại và anh chàng thần chết gật đầu. Sau đó anh Nash nâng cằm tôi lên, nhìn thẳng vào mắt tôi – “Và nếu em định lặp lại chuyện đó lần nữa – mặc dù anh không hề khuyến khích em – hãy nhớ mang theo ủng. Càng cao càng tốt. Mẹ anh nói đó là cách tốt nhất để thoát ra đám cỏ sắc nhọn ấy mà không bị xây xước gì.”
Tôi gật đầu và cắn chặt môi để không buột miệng nói với anh về phương pháp bước nghiêng chân, bởi vì nó chỉ càng khiến tôi giống như đang khoe khoang về cái khả năng mới-khai-quật của mình và dự định sẽ tiếp tục hoàn thiện nó. Trong khi trên thực tế, tôi không hề có ý định sẽ quay lại đó.
Trừ phi bắt buộc.
Nhưng ý tưởng mang theo ủng nghe cũng khá hay…
“Ở đó không có đủ hoạt động để ngăn chúng phát triển hoặc san bằng chúng dưới chân” – anh Nash nói, trong khi anh Tod đã đi lên phía trước, cách chúng tôi vài bước – “Đó có lẽ cũng là lý do tại sao bố em chọn sống ở khu vực ấy.”
Anh ấy nói cũng phải. Giờ tôi đã hiểu tại sao bố muốn sống xa khỏi trung tâm, bởi bố đang cố tìm cách giữ cho tôi được an toàn.
Ý nghĩ ấy khiến tôi bỗng cảm thấy tội lỗi vô cùng khi gào lên như vậy với bố ngày hôm qua. Đúng, bố đã khiến tôi rất khó chịu, nhưng tất cả cũng chỉ vì tôi không chịu kể cho bố về việc mình đang làm. Và đó không phải là lỗi của bố. Sau khi chuyện này kết thúc và tôi không còn phải nói dối bố nữa, tôi sẽ làm tặng cho bố cả một chảo bánh quy.
Trên đó viết dòng chữ “Con xin lỗi” bằng sô-cô-la. Đôi khi có những hành động còn tốt hơn lời nói.
“Mặc dù vậy nhưng không có nghĩa cây cối ở chỗ đó an toàn đâu nhé!” – anh Nash cảnh báo. Anh ấy không hề muốn phải bước qua bên đó, và tôi cũng vậy – “Để cho chắc, em nhớ đừng có chạm vào bất cứ thứ gì.”
“Vậy là toàn bộ cây cối ở đó đều nguy hiểm hả anh?”
Anh Tod hắng giọng, xoay lưng lại đi giật lùi, xuyên qua cả cột đèn và những tầm chắn bằng sắt. “Mặt Trời ở Cõi Âm không chiếu sáng rực rỡ như ở đây. Nó hơi… nhờ nhờ. Như kiểu bị thiếu máu ý. Vì thế cây cối ở đó cũng phải thích ứng theo. Chúng sống bằng máu của các loại gặm nhấm, thằn lằn và các động vật khác. Thậm chí cả con người, nếu em không may chạm phải nó.”
Tuyệt… Tôi rùng mình, xoa xoa hai bên tay để giữ ấm. Chưa gì tôi đã thấy ghét Cõi Âm rồi, mặc dù mới chỉ ở đó có vài phút. “Nghe như cây ăn thịt người ý nhỉ.”
Anh Tod cười khẩy và quay người lại đi tiếp. “Đó là em mới chỉ gặp một loại cây thôi đấy.”
Tôi bước lên cái vỉa hè trước mặt sân vận động. “Nói tóm lại là em không chạm vào bất cứ thứ gì và tránh xa mấy cái cây ra.”
“Chính xác” – anh Tod gật đầu hài lòng – “Đi thôi. Sang đến bên kia cũng chẳng sớm sủa gì hơn đâu.”
Việc triệu tập tiếng khóc lần này còn dễ dàng hơn nữa và tôi đã vô cùng kinh ngạc – và lo lắng – khi phát hiện ra rằng mình thậm chí chẳng cần hồi tưởng về cái chết của bất kỳ ai. Thay vào đó, tôi chỉ việc tưởng tượng ra cơn ác mộng lớn nhất của đời tôi.
Cái chết của anh Nash.
Đó không phải là một điềm báo. Tôi biết ngay khi nó vừa le lói xuất hiện trong đầu tôi. Tôi không phải đang linh cảm về cái chết của anh Nash. Tôi chỉ là đang tưởng tượng ra nó mà thôi. Và tiếng khóc ấy bùng lên như một ngọn lửa thiêu đốt cổ họng tôi.
Tôi chỉ muốn khạc ngay ngọn lửa đó ra khỏi người mình nhưng thay vào đó, tôi đã ép mình nuốt chúng lại vào bên trong, chỉ chừa lại một dải âm thanh nhỏ tí xíu đang rung lên trong thanh quản của tôi. Ruột gan tôi bỏng rát như đang bị xông khói.
Tôi mở mắt ra và thấy thế giới đã chuyển sang màu xám.
Sân vận động đang ở trước mặt tôi, nổi lên như một cây nấm khổng lồ bằng sắt và xi măng, bị bao phủ một màn sương mù xám xịt.
Anh Nash nhìn tôi, các vòng xoáy trong mắt anh đang xoay tròn không màu sắc. Tôi đọc được trong đó một nỗi sợ hãi. Cho tôi. Cho tất cả chúng tôi.
Anh Tod cũng đang đứng theo dõi chúng tôi, mặt đầy nghi ngờ, không tin tưởng lắm vào việc tôi có thể đi qua bên đó. Chứ chưa nói đến việc tôi có thể dắt theo anh Nash hay không.
Sự hoài nghi đó của anh chỉ càng khiến tôi quyết tâm hơn và cắn răng chịu đựng để vượt qua nỗi đau đang cào cấu trong cổ họng và cái cảm giác sưng phồng nhức nhối như thể ruột gan tôi sắp nổ tung do phải đè nén tiếng khóc của chính mình. Tôi nghĩ tới Cõi Âm và ý định muốn bước qua đó. Để tìm kiếm tên tà ma đã hút linh hồn của hai chị em nhà Page. Để lấy lại hai linh hồn đó.
Mới đầu, không có chuyện gì xảy ra. Và khi tiếng thét đang vùng vẫy chuẩn bị thoát ra khỏi cổ họng tôi, tôi chợt hiểu ra vấn đề. Tôi vẫn đang nghĩ về cái cây ăn hút máu kia và không hề muốn quay trở lại đó. Chính những ý nghĩ ấy đã làm sao nhãng ý định của tôi.
Tôi cố gắng không tiếp tục nghĩ về chúng và tập trung nhớ lại lời anh Nash vừa nói khi nãy, rằng chúng không thể mọc được ở những nơi đông người.
Đột nhiên, cả cái sân vận động bắt đầu mờ dần vào màn sương và tôi không còn nhìn thấy gì ngoài một màu xám xịt. Không cảm thấy gì ngoài một màu xám xịt. Tôi nhắm mắt lại, không muốn phải đối diện với sự trống vắng kinh khủng này, như thể thế giới vừa nuốt chửng lấy tôi và quấn chặt tôi trong một lớp sương mù.
Tôi quờ quạng tay ra phía trước tìm anh Nash, trước khi quá muộn để đưa anh đi cùng với mình. Tôi không muốn phải đi qua bên đó thêm một lần nào nữa.
Hai tay anh đang nắm lấy tay tôi, cùng cái cảm giác ấm áp quen thuộc. Tôi nhận ra vết chai trên ngón giữa bàn tay phải, và vết sẹo dài trong lòng bàn tay trái của anh. Anh có vết sẹo đó trong một lần sửa xe đạp năm anh 12 tuổi. Tôi nắm chặt tay anh và chỉ độ một giây sau thế giới bắt đầu hiện ra lại trước mắt tôi.
Chỉ có điều đó không phải là thế giới của chúng tôi. Mà là thế giới của Cõi Âm. Lại một lần nữa.
Nhưng cảm giác vẫn thấy không thực, giống như vừa phát hiện có người ngoài hành tinh đổ bộ xuống thành phố New York vậy.
Điều ngạc nhiên đối với tôi là việc Cõi Âm cũng có vỉa hè – một dấu hiệu của sự văn minh và tiên tiến mà tôi không hề mong đợi. Tôi chỉ biết rằng sân vận động tồn tại ở cả hai tầng hiện thực. Là nơi tập trung hoạt động của con người, nó giống như một cái mỏ neo ghim chặt hai thế giới lại, tạo thành hai mặt phẳng cân bằng, gần như trùng khớp với nhau. Đó là lý do tại sao thời gian và không gian của cả hai bên không chênh lệch với nhau là mấy. Có điều, cái tầng bên dưới – thế giới Cõi Âm – chỗ thì dúm dó, chỗ thì biến dạng và chỗ lại nhăn nhúm. Tôi đoán, cảnh vật và cây cối ở những chỗ đó chắc kỳ quái phải biết.
Mặc dù cũng không thể nói chúng hoàn toàn bình thường ở gần những cái mỏ neo…
“Sao ở Cõi Âm cũng có vỉa hè cơ hả anh?” – tôi thì thào thốt lên, buông tay anh Nash ra để lau mồ hôi vào quần. Mạch máu hai bên thái dương của tôi giật mạnh đến nỗi tôi cảm thấy hơi chóng mặt – “Lại còn cả bãi để xe nữa? Đừng nói là họ còn xây dựng cả những toà nhà bằng xi măng ở đây nữa nhé.” Tôi thật chẳng muốn biết đám mafia của Cõi Âm chôn gì ở bên dưới những nền nhà đó…
“Không.” – anh Tod nhếch miệng cười – “Tất cả mấy cái này đều lấy từ thế giới của chúng ta sang, cùng với một lượng năng lượng lớn của con người. Càng neo chặt vào thế giới của chúng ta bao nhiêu, Cõi Âm trông sẽ càng giống với thế giới của chúng ta bấy nhiêu.”
“Vậy là chúng sẽ giống với L.A và New York__”
“Ừ, cũng tương tự như vậy” – anh Nash tiếp lời – “Mỗi tội không có người đi bộ trên vỉa hè thôi.”
Tôi đứng chống hai tay vào hông, đưa mắt nhìn xung quanh. “Cái sân vận động trông cũng không khác lắm…” – mặc dù toàn bộ xe cộ đỗ rải rác trong bãi để xe và khu vực xung quanh tổ hợp khổng lồ này đã biến mất – “… thế còn nơi xử lý Hơi thở nằm ở đâu?”
“Ừm…” – anh Tod hất hàm về phía sân vận động – “Anh nghĩ chính là nó.” – anh nhún vai – “Dân ở đây cũng đâu có chơi bóng bánh gì đâu, đúng không?”
Tôi nheo mắt quan sát cái sân vận động thêm một lần nữa, cẩn thận tìm xem có dấu hiệu của sự hoạt động nào không. Nếu đây thực sự là kho chứa các chất nguy hiểm hẳn là sẽ phải có bảo vệ, hoặc biển cảnh báo, hoặc cái gì đó. “Mọi người đâu hết rồi ạ? Còn đám quỷ sứ thì sao? Em tưởng chúng đang phải luẩn quẩn quanh đây chứ?” Tất nhiên tôi chẳng hề mong muốn phải chạm mặt với chúng. Trừ phi… việc tìm ra chúng giúp chúng tôi tránh được chúng.
“Anh không…” Anh Tod mở miệng định nói.
Nhưng anh Nash đột nhiên túm lấy tay tôi, thì thào hỏi. “Em có nhìn thấy không?”
Tôi nhìn theo ánh mắt anh tới chỗ cổng chính, nơi Mặt Trăng lưỡi liềm đỏ sẫm đang soi bóng xuống. Với một ánh trăng lờ mờ như thế đáng ra tụi tôi khó có thể nhìn thấy mọi thứ rõ ràng như bây giờ, nhưng rồi tôi chợt nhận ra rằng bầu trời đêm ở Cõi Âm không tối như ở thế giới của mình.
Có cái gì đó vừa chuyển động. Màn sương mù cũng động đậy theo, giống như đang có đám người chen chúc trèo lên người nhau để hái lấy ánh trăng treo lơ lửng trên cao.
“Cái gì đấy ạ?” Theo phản xạ, tôi bước lên phía trước để có thể nhìn được rõ hơn. Anh Nash cũng đi theo tôi, nhưng anh Tod đã kịp nắm lấy vai tôi giữ lại.
“Anh nghĩ chúng là đám quỷ sứ.”
Tuyệt. “Có thể ở đây có cửa phụ” – bởi vì chúng tôi không thể di chuyển qua đám quỷ sứ kia được – “Mình đi đường vòng thôi.” Tôi gợi ý. Và vì không nghĩ ra được giải pháp nào hay hơn, hai anh chàng nhà Hudson đành ngoan ngoãn đi theo tôi.
Nếu chỉ nhìn xuống dưới đất, sẽ không ai nhận ra được sự khác biệt giữa hai thế giới này. Bãi đỗ xe ở đây gần như giống hệt với ở thế giới bên kia, từ những vạch vôi vàng và trắng đến những vết bánh xe cháy đen trên mặt đường.
Tuy nhiên, càng đến gần sân vận động, sự khác biệt càng trở nên rõ ràng. Đầu tiên là những lá cờ. Ở thế giới của chúng tôi, chạy dọc quanh sân là những lá cờ trắng và xanh, in hình cầu thủ và biểu tượng ngôi sao của đội bóng Texas. Nhưng ở thế giới của Cõi Âm, chúng chỉ mang một màu xám xịt, tơi tả và rách nát bởi tác động của thời gian và những cơn gió của-thế-giới-khác.
Các bức tranh vẽ trên tường cũng xám ngoét và không có hình dạng gì cụ thể, nhưng nếu xét về tổng thể chúng vẫn có những nét giống với con người. Chỉ có điều có nhiều hơn hoặc ít hơn một vài cái tay, chân hoặc đầu.
“Thật quái đản quá đi” – tôi thì thào nắm lấy tay anh Nash để tìm một chút hơi ấm – “Chúng ta thử tìm đường vào bên trong rồi hỏi người đầu tiên mình gặp đi. Biết đâu cô Libby lại đang có mặt ở đây…”
“Cô ấy sẽ không giúp đâu.” – anh Tod đi tránh sang phía bên phải, xa khỏi cánh cửa chính, nơi các sinh vật đang bò trườn kia ngày càng hiện ra rõ hơn – “Cô ấy đã nói cho chúng ta biết mọi điều có thể rồi. Anh không nghĩ là còn thần chết nào biết được hơn cô Libby đâu. Chúng ta sẽ phải hỏi một người khác.”
“Và đó là ai?” Tôi nheo mắt nhìn lại vào những cái bóng bên dưới bức màn sương. Giờ thì tôi đã có thể phân biệt được rõ từng cá thể và khá bất ngờ khi nhận ra rằng chúng không phải đang bò ngoằn ngoèo như tôi đã tưởng.
Chúng có đủ đầu – một cái thôi, ơn Chúa – và đầy đủ chân tay. Và đó là hai điểm tương đồng duy nhất với loài người của chúng. Thân hình chúng nhỏ bé – mặc dù đứng từ khoảng cách này, tôi không thể xác định được là nhỏ tới mức nào – và không mặc gì trên người. Da chúng đen hơn tôi nhưng sáng hơn cô Libby, và qua làn sương mù tôi không dám chắc về màu sắc của chúng.
À, và chúng có đuôi. Những cái đuôi nhỏ, dài và nhẵn thín, quấn quanh chân và các phần phụ khác một cách uyển chuyển, như thể không có xương vậy.
Phần đuôi không phải bộ phận duy nhất không có lông. Những sinh vật tí hon này không hề có tóc và tôi tự hỏi phải chăng đó chính là lý do chúng túm tụm lại với nhau, cốt để giữ ấm ? Cơ chế bầy đàn để chống cự lại cái rét?
“Đó chính là đám quỷ sứ mà cô Libby nói tới đấy.” Anh Tod nhẹ nhàng nói. Thật chẳng giống với tính cách thường ngày anh ấy chút nào. Ăn nói nhẹ nhàng, lững thững đi bộ cùng chúng tôi, thay vì hô biến vào bên trong sân vận động để tìm đường. Không lẽ năng lực thần chết của anh ấy không có tác dụng ở Cõi Âm?
“Không thể nào là quỷ sứ được.” – tôi nói, quyết định tạm gác câu hỏi ấy lại – “Trông chúng quá bé.” Chúng chắc đứng chưa đến thắt lưng tôi, và theo cái cách cô Libby nói về quỷ sứ, tôi đang chờ đợi những con quái vật khổng lồ gớm ghiếc nhảy bổ ra từ đằng sau cánh cửa của nơi xử lý Hơi thở của Quỷ, đòi ăn.
“Kích cỡ không phải là tất cả” – anh Tod nói – “Chúng là quỷ sứ thật đấy. Em cứ nhìn xem cái cách chúng giẫm đạp lên nhau để tới được chỗ cửa. Nhưng vô ích thôi. Cánh cửa đó chắc đã được chốt từ bên trong.”
Thì ra vậy, chúng không phải đang tìm cách giữ ấm cho nhau. Chúng đang tìm cách đột nhập vào bên trong. Tôi vung chân đá một viên gạch trên đường, thầm nghĩ: Nếu nó bị chốt từ bên trong, làm thế nào mà các thần chết vẫn vào được? Chắc hẳn họ phải đi qua đây từ trong lòng sân vận động. Một việc dễ dàng đối với các thần chết, kể cả khi đã hết giờ mở cửa.
“Thế bọn mình làm sao để vào trong đấy đây?”
“Chưa biết.” Anh Tod vẫn tiếp tục cau mày quan sát đám quỷ sứ.
“Anh không thể từ đây hô biến vào trong đó à?”
Anh chậm rãi lắc đầu và giả vờ chăm chú nhìn vào cái vết nứt trên vỉa hè.
Anh Nash nói tiếp. “Nói chung là năng lực của thần chết không có tác dụng ở đây.” Vậy là linh cảm lúc nãy của tôi là đúng.
Anh Tod thở dài, ngước mắt lên nhìn tôi, trán nhăn tít lại. “Anh có thể đi vào từ phía bên kia, nhưng anh dám chắc là đám nhân viên trong đó sẽ không muốn giúp một thần chết mới vào nghề, tự dưng hiện ra không xin phép trước và không mang theo Hơi thở của Quỷ.”
“Vậy là ở dưới này anh cũng chỉ giống như bọn em?” Tôi vẫn không thể rời mắt khỏi đám quỷ con đang tranh cướp, xô đẩy nhau để bám lấy cái cửa. Chúng dùng đuôi quặp chặt lấy cổ những con ở phía trên đỉnh và giật thật mạnh quăng xuống đất. Mặt con nào con nấy xước xát và chảy máu khắp người, nhưng không ai chịu bỏ cuộc. Tiếp tục lồm cồm bò dậy và chiến đấu tiếp.
Tôi như đang nhìn vào đám đông đang chen lấn xô đẩy nhau tìm đường thoát ra khỏi một toà nhà đang bốc cháy, chỉ khác là ở đây chúng đang cố tìm đường vào.
Đúng lúc đó tôi nhận thấy một vài con quỷ chỉ lặng lẽ đứng bên ngoài, quan sát. So với đám đông hỗn loạn kia, chúng trông khá điềm tĩnh và ít điên hơn.
“Hay là chúng ta hỏi đám kia xem.” – tôi thì thào chỉ về mấy con quỷ đang đứng ngoài rìa – “Trông chúng có vẻ cũng hay lui tới đây.”
“Kaylee, chúng ta đâu thể đi tới trước mặt một con quỷ và bắt chuyện” – anh Nash kéo tôi sát lại gần bên mình, vòng tay ôm lấy eo tôi. Nhưng lần này không phải để giúp tôi bình tĩnh lại mà là để bảo vệ tôi, giúp tôi tránh xa khỏi đám quái vật tí hon kia.
“Tại sao không?” Tôi nhíu mày nhìn ra xa. OK, trông chúng đúng là dữ tợn thật nhưng chúng bé xíu xiu thế kia. Nếu đứa nào dám tấn công chúng tôi, chỉ việc… dẫm bép một cái là xong.
“Bởi vì chúng có nọc độc” – anh Tod đứng khựng lại – “Và chúng cắn người.”
“Chúng ăn thịt người ý ạ?” Tôi lùi lại ra đằng sau. Trông người chúng bé như thế kia, giỏi lắm một đứa ăn được một cái tay tôi là cùng.
Hay là chúng chia nhau nhỉ…
Nhưng xem cái cách chúng tranh giành nhau như thế kia, khó mà có chuyện chúng chịu chia sẻ thức ăn với nhau lắm.
“Không, chúng không ăn thịt người, hay bean sidhe. Chúng ta rất hiếm khi xuất hiện ở những nơi như thế này. Nhưng chúng cắn tất cả những gì cản đường chúng, và nước dãi của chúng rất độc với các sinh vật sống trong thế giới loài người.”
“Tuyệt thật!” Tôi lại bước giật lùi thêm vài bước nữa, nhưng đã quá muộn. Bọn tôi đã thu hút sự chú ý của chúng. Hay nói đúng hơn là tôi.
Tên quỷ sứ đứng ở giữa bắt đầu tiến tới chỗ tôi đang đứng, hai tên còn lại cũng bám theo. Vừa đi vừa nhảy tưng tưng trên đường.
“Bữa tối chăng?” Tên quỷ thứ hai hớn hở quay sang hỏi đồng đội. Và khi hắn mở mồm, tôi có thể nhìn thấy rõ hai hàm răng nhọn hoắt chỉa lên, như những mũi kim bằng kim loại.
Chúng loé sáng như máu dưới ánh trăng đỏ sẫm.
Ba tên quỷ sứ càng lúc càng áp sát hơn về phía chúng tôi, các ngón tay xoắn xuýt vào nhau đầy thèm thuồng. Dãi dớt chảy lòng thòng hai bên mép.
Tôi sợ quá hét ầm lên, tay bấu chặt lấy anh Nash. Tôi định lùi tiếp ra đằng sau nhưng chân bị vướng phải cái gì đó và nếu không có anh Nash, chắc tôi đã ngã vập mặt xuống đất rồi.
Nhìn xuống, hoá ra một cây dại mọc từ vết nứt trên nền bê tông, có màu đỏ như lá cây phong Nhật vào mùa Thu. Các cái gai nhỏ tí xíu của nó bám vào gấu quần tôi như những mảnh răng cưa tí hon.
Tôi giật vội chân lên và lập tức bị đám gai đó đâm vào thịt nhức kinh khủng. “Á!” Tôi rú lên nhưng rồi lập tức lấy tay bịt vội lấy miệng. Điều cuối cùng tôi cần lúc này là thu hút thêm sự chú ý về phía mình.
Thấy vậy, anh Nash quỳ vội xuống đất, rút con dao cá nhân ra, chuẩn bị sẵn sàng. Do không thể luồn lưỡi dao vào giữa cái cây leo ấy và chân tôi mà không cắt phải da tôi, nên anh quyết định chặt phăng nó ra khỏi mặt đất, rồi kéo tôi đứng dậy trước khi đám tua còn sống sót có thể túm lấy tôi một lần nữa.
Từ thân cây leo nhỏ ra vài giọt màu đỏ đậm trên nền bê tông. Cũng có thể đấy là máu của tôi. Bụng tôi chộn rộn muốn ói.
Mình đang làm cái quái gì ở đây thế này? Chỗ mắt cá chân vừa bị gai đâm của tôi bỏng rát, tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực, to tới nỗi tôi có cảm giác như át cả tiếng chí choé, tranh giành nhau của đám quỷ sứ trước mặt.
Liệu bọn tôi có đủ thời gian để quay trở lại thế giới của mình trước khi bị đám quỷ kia nhảy bổ vào người không? Bởi vì tôi có linh cảm đó chính là điều chúng đang chuẩn bị làm.
“Chúng có mùi thơm quá” – tên quỷ thứ ba rú lên cười như điên dại – “Chúng đã hôn tà mà chưa? Chúng đã hít Hơi thở của Quỷ chưa?”
“Chưa” – tên thứ nhất nói, trong khi anh Nash, anh Tod và tôi tiếp tục bước giật lùi. Tôi không dám chắc là bọn chúng có thể làm bị thương anh Tod, nhưng rõ ràng là anh ấy cũng chẳng dại gì mà thử – “Bọn chúng vẫn sạch nguyên.”
“Tiếc thế…” Tên thứ hai xịu mặt xuống, rồi quay lưng cùng với tên thứ ba nhảy tưng tưng trở lại chỗ đám đông kia.
Tim tôi đã đập chậm lại hơn được một chút, sau khi mối đe doạ đã giảm đi được 2/3. Nhưng tên quỷ thứ nhất vẫn đang nhìn chằm chằm về phía bọn tôi. Về phía tôi. Hắn nghếch mũi lên hít hà, hai cánh mũi dẹt nhỏ xíu hấp háy. “Người lạ.”
Cánh tay trái của hắn giật liên hồi, như thể muốn giựt ra khỏi cơ thể của chính mình, trong khi chân phải rung lên bần bật như sắp khuỵu xuống đến nơi rồi. Và tôi biết là hắn không phải đang cố tình làm như vậy. Theo tôi, cần có người phang cho hắn một cái để cơ thể của hắn có thể hoạt động trở lại bình thường.
“Các ngươi không thuộc về nơi này, con người ạ.” – hắn tiến lên phía trước, một bên mép giật giật. Tên quỷ sứ nhìn chòng chọc vào mặt tôi, như muốn định giá tôi. Ít ra tên này có vẻ ăn nói điềm đạm hơn hai tên còn lại – “Nếu còn ở lại, các ngươi sẽ bị những thứ to lớn hơn ăn thịt là cái chắc…”
“Tụi tôi không phải…” – tôi mở miệng nhưng anh Nash bấm mạnh vào tay tôi, ngăn cản cho tôi phủ nhận việc mình là con người – “Chúng tôi đang đi tìm một tà ma” – tôi sửa lại, và anh Nash đứng bên cạnh rên lên. Xem ra đó không phải là cách hay để bắt đầu một câu chuyện ở Cõi Âm.
Nhưng ai mà biết được?
Tên quỷ sứ đã khiến tôi phải ngạc nhiên. “Bọn này cũng vậy.” Lông mày tôi nhướn lên như muốn rớt khỏi trán. Hắn nói cũng có lý. Đám quỷ sứ đang tranh giành nhau muốn có Hơi thở của Quỷ, hiển nhiên là muốn đi tìm một tà ma rồi.
“Ừm… ý tôi là bọn tôi đang đi tìm một tà ma cụ thể cơ.” – và lần này đến lượt anh Tod bấm lấy tay còn lại của tôi, nhưng tôi mặc kệ. Nếu tên quỷ này thực sự muốn cắn tụi tôi thì hắn đã làm điều đó từ lâu rồi – “Ông có biết tà ma của lòng tham ở đâu không?”
Đôi mắt vàng ệch của tên quỷ ánh lên như thể vừa nhớ ra được chuyện gì. “À, lòng tham…” – tiếng rít của hắn như muốn khoan thủng hộp sọ của tôi – “Mùi vị yêu thích của ta.”
Toàn thân tôi bỗng phấn chấn hẳn lên, đẩy lùi nỗi sợ hãi nãy giờ trong tôi. Hắn biết gã tà ma của lòng tham. Hay chí ít là một tà ma của lòng tham.
Tôi ngập ngừng tiến một bước lên phía trước, lấy hết dũng cảm nhìn vào mắt hắn. Anh Nash nắm chặt lấy tay tôi để tôi không thể tiến xa hơn. “Ông có thể nói cho tụi tôi biết cần tìm tà ma đó ở đâu không?”
“Có thể.” – tên quỷ sứ gật gật cái đầu hói, và dưới ánh trăng đỏ sẫm, tôi nhìn thấy rõ mồn một các mạch máu trên đỉnh đầu hắn – “Nhưng có cái giá của nó.”
Tôi nhăn mặt lại. “Tôi không có nhiều tiền. Chỉ khoảng bốn…”
“Kaylee…” Anh Nash từ chối buông tay tôi ra, lúc tôi định rụt lại để móc túi quần.
“Ta chẳng cần thứ tiền giấy vô dụng đấy làm gì.” – tên quỷ bĩu môi xám xịt đầy khinh bỉ – “Ta sẽ nói cho ngươi biết cần tìm tà ma ấy ở đâu – để đổi lại một phần hơi thở của hắn. Yêu cầu phải trả trước…”
“Hả?” Hai má tôi đỏ phừng phừng giận dữ. Cánh mũi tên quỷ sứ lại hấp háy, như thể cơn tức giận của tôi đang toả mùi hương trong không khí vậy. Và tôi biết đó là sự thật.
“Đi thôi…” Anh Tod kéo lấy tay tôi.
“Không!” – tôi giằng ra, quay lại nhìn tên quỷ sứ, cố gắng kiềm chế lại cơn giận dữ của mình. Hiển nhiên là sự tức giận của tôi khiến hắn hài lòng, và điều đó sẽ không giúp được gì cho trường hợp của tôi – “Nếu chúng tôi biết phải lấy hơi thở đó ở đâu thì đâu cần phải nhờ ông chỉ chỗ tìm hắn.”
Nhưng hắn chỉ chớp mắt nhìn tôi, hai bàn tay nhỏ xíu xoắn xuýt vào nhau, rõ ràng không hề quan tâm xem tôi định trả tiền như thế nào. Không lẽ ở Cõi Âm không tồn tại cái gọi là lô-gic hay sao? Làm sao tôi có thể…
Tôi đứng thẳng người dậy, đột nhiên nghĩ ra một cách. “Một tiếng có đủ không? Tôi nhếch mép hỏi tên quỷ.
Hắn gật đầu chậm rãi. Đầy háo hức. “Ta sẽ đợi ở đây. Một tiếng. Theo giờ của ta.” Hắn nói thêm, sau khi nghĩ lại.
“Thoả thuận như thế!” Tôi nhoẻn miệng cười tươi.
Anh Nash và anh Tod cau mày nhìn tôi, nhưng thay vì giải thích, tôi chỉ quay lưng chạy về phía bãi để xe, và hai anh cũng lục đục chạy theo. Tôi tập trung nhìn xuống đất phía trước để tránh những thứ có thể hạ độc tôi, túm lấy tôi, hay ăn thịt tôi.
Bởi vì hai anh ấy nói đúng: Nếu tôi không cẩn thận, tôi sẽ không biết được khi nào thì vùng đất quái dị này sẽ nuốt chửng lấy mình…