Bạn đang đọc Nữ Thần Báo Tử (Tập 1: Đoạt Hồn) – Chương 6 phần 1
Phòng ngủ của anh Nash mang lại một cảm giác thân thiện và thoải mái. Tôi đã thích căn phòng đó ngay khi vừa đặt chân vào cửa, mặc dù chăn trên giường vẫn chưa gấp, còn trên mặt bàn thì ngổn ngang đĩa CD, game Xbox và vỏ bánh kẹo. Màn hình TV vẫn đang bật nhưng ngay lập túc đã bị anh ấy ấn nút tắt phụt đi, nên tôi cũng chưa kịp định thần ra anh ấy đang xem cái gì.
Cả căn phòng có độc một cái ghế cạnh bàn học và lon Coke đang uống dở trên bàn chứng tỏ anh Nash vừa ngồi ở đó. Tôi đứng lớ ngớ giữa phòng không biết nên ngồi ở đâu vì xem ra ngoài cái ghế kia ra chỉ còn mỗi cái giường là có thể ngồi thôi. Mạch máu chạy rần trong cơ thể tôi, mỗi lúc một nhanh.
Anh Nash bật cười, để he hé cửa và phẩy tay ra hiệu về phía cái giường. “Giường nhà anh không cắn em đâu mà lo.”
Tôi tự hỏi không hiểu trước tôi đã có bao nhiêu cô gái từng ngồi ở cái giường này rồi…
Để che giấu sự xấu hổ đang sắp sửa hiện ra phừng phừng trên mặt, tôi quyết định gạt quyển sách hóa học sang một bên và ngồi xuống mép giường, tay loay hoay mở túi đồ ăn. “Đây, của anh đây.” Tôi đưa cho anh một cái bánh kẹp thịt và một gói khoai tây chiên.
Anh đặt đồ ăn lên bàn và ngồi xuống ghế, di di con chuột một lúc cho tới khi màn hình máy tính bật sáng. “Chúng ta cần phải tra cứu cái gì nào?” – anh thẩy một miếng khoai tây vào miệng và hỏi.
Tôi bóc phần bánh của mình ra, phân vân không biết nên nói về chuyện đó như thế nào. Nhưng cũng chẳng có cách nào dễ chịu hơn để nói về nó. “Tối nay lại vừa có một cô gái bị chết. Tại rạp chiếu phim ở Arlington. Một anh bạn làm việc cùng em đã có mặt ở đó và anh ấy nói cô gái đó tự dưng lăn đùng ra chết, trên tay vẫn đang cầm hộp bắp rang bơ.”
Anh Nash đang nhai lập tức ngừng lại và chớp mắt nhìn tôi sững sờ. “Em nói thật đấy à?” – anh nuốt vội miếng khoai tây rồi hỏi tôi. Và tôi gật đầu – “Em có nghĩ nó có liên quan với cô gái ở khu West End không?”
Tôi nhún vai. “Lần này em có linh cảm thấy gì đâu, có điều em thấy sự việc lần này kỳ lạ hơn chuyện xảy ra ở quán Taboo. Em muốn biết rõ hơn chi tiết.” Để tôi có thể chứng minh với chính bản thân mình rằng hai cái chết này chẳng hề có liên hệ gì với nhau.
“OK, chờ chút…”- anh Nash gõ dòng gì đó lên thanh công cụ và trang web tìm kiếm hiện lên trên màn hình – “Em nói là Arlington đúng không?”
“Vâng” – tôi ngoạm một miếng bánh nhỏ và nói.
Anh Nash vừa gõ máy tính vừa nhai, một loạt các đường link hiện lên. Anh nhấp con chuột vào đường link đầu tiên. “Đây rồi.” Đó là mẩu tin trên trang tin tức của kênh Thời sự Dallas – cũng chính là đài truyền hình đã đưa tin về chị Heidi Anderson ngày hôm trước.
Tôi nhổm dậy, nhoài người ra nhìn qua vai anh, ý thức được rất rõ mùi thơm dịu mát đang toát ra từ cơ thể anh. Anh Nash đọc to lên cho tôi nghe. “Các nhà chức trách địa phương hiện đang vô cùng bối rối trước cái chết bất ngờ của nữ sinh thứ hai chỉ trong vòng hai ngày vừa qua. Cuối giờ chiều hôm nay, nữ sinh 15 tuổi, Alyson Baker, đã đột tử ngay tại sảnh chính của rạp Ciné 9 ở trung tâm Six Flags. Cảnh sát hiện vẫn chưa xác định được nguyên cái chết của cô, nhưng đã loại bỏ khả năng đột tử do dùng chất kích thích hay đồ uống có cồn. Theo lời khai của một nhân chứng, Baker tự dưng “lăn đùng ra chết” trước quầy bán đồ ăn. Lễ tưởng niệm sẽ được tổ chức vào ngày mai tại trường Trung học Stephen F. Austin, nơi Baker đang theo học năm thứ hai và là thành viên của đội cổ vũ.”
Tôi hút ống nước tu một hơi dài, khi đọc lại mẩu tin đó thêm một lần nữa sau khi anh Nash đã đọc xong. “Có thế thôi ạ?”
“Có một bức ảnh” – anh di chuột xuống, để lộ bức ảnh đen trắng của một cô gái xinh xắn với mái tóc nâu dài thẳng tắp, được từ trong quyển lưu bút của Baker – “Em nghĩ sao?”
Tôi thở dài và ngồi phịch xuống mép giường. Việc nhìn vào chân dung của cô gái thứ hai vừa qua đời không những không giúp tôi tìm được câu trả lời cho những thắc mắc của mình mà còn khiến cho cái chết của họ càng trở nên thật hơn trong tâm trí tôi, nhất là khi tôi đã biết họ tên và khuôn mặt họ.“Em cũng chẳng biết nữa. Em ấy trông không có điểm nào giống với chị Heidi Anderson. Và lại còn trẻ hơn tận 4 tuổi.”
“Và không hề uống say.”
“Và lần này em không hề thấy có điềm báo” – không còn tâm trậng nào muốn ăn, tôi gói cái bánh lại và cất vào trong túi – “Điểm chung duy nhất giữa hai người đó là họ đều chết ở nơi công cộng.”
“Mà không rõ nguyên nhân” – anh Nash liếc nhìn cái túi đang đặt trên đùi tôi – “Em có định ăn nốt cái bánh đó không?”
Tôi đưa cho anh cái bánh đang ăn dở của mình, trong đầu vẫn đang văng vẳng những lời của anh. Anh đã vừa đóng một cái đinh vào trong đầu tôi, với câu nói đó – và xuyên thẳng xuống trái tim tôi. Chị Heidi và Alyson đều đã lăn đùng ra chết, theo đúng nghĩa đen, mà không để một lời cảnh báo hay bệnh tật hay vết thương nào. Và tôi đã biết trước về cái chết của chị Heidi.
Nếu tôi cũng có mặt ở đó khi Alyson Baker mua bắp rang bơ, liệu tôi có biết trước được là cô bé sẽ chết không?
Và nếu có thì việc tôi cảnh báo cho em ấy có giúp ích được gì không?
Tôi co hai chân lên giường, cúi gằm mặt ôm lấy hai chân. Một cảm giác tội lỗi về cái chết của chị Heidi xâm chiếm toàn bộ cơ thể tôi, giống như miếng cao su xốp bị ngấm nước. Phải chăng tôi đã để mặc cho chị ấy chết?
Anh Nash ném cái vỏ bánh vào trong túi và quay ghế ra nhìn tôi. Anh khẽ nhíu mày khi thấy phản ứng đó của tôi, và anh nhoài người ra, nhẹ nhàng kéo hai chân tôi xuống để có thể nhìn thấy khuôn mặt của tôi. “Em đâu thể làm được gì khác.”
Không lẽ suy nghĩ của tôi hiện ra rõ như vậy sao? Tôi không sao gượng cười nổi, mặc dù đôi mắt và cái má lúm đồng kia giờ chỉ cách mặt tôi có vài phân. “Làm sao anh biết chắc được.”
Môi anh mím chặt lại, như thể sắp sửa tranh luận với tôi, nhưng rồi anh chỉ mỉm cười và nhìn sâu vào trong mắt tôi. “Nhưng anh biết chắc một điều là em cần phải thả lỏng và nghỉ ngơi. Hãy nghĩ về điều gì đó khác, không phải là cái chết.” Giọng anh nhẹ nhàng và ấm áp. Anh đứng dậy bước tới ngồi xuống bên cạnh tôi, làm cho cái đệm lún hẳn xuống dưới sức nặng của anh.
Hơi thở của tôi bỗng trở nên gấp gáp, mạch càng lúc càng lúc đập nhanh. “Thế anh bảo em nên nghĩ về cái gì bây giờ?” Tôi hạ giọng nói gần như thì thào, bé tới nỗi đến bản thân tôi cũng chẳng nghe thấy được.
“Anh” – anh nghiêng người sang thì thầm vào tai tôi, đôi môi anh khẽ chạm vào vành tai tôi. Mùi hương từ cơ thể anh bao quanh lấy tôi, má anh cọ nhẹ lên má tôi – “Em nên nghĩ về anh.” Ngón tay anh đan lấy mấy ngón tay đang để trên đùi của tôi và môi anh từ từ rời khỏi tai tôi, chuyển dần xuống má, nhẹ nhàng và mềm mại, trái ngược hẳn với cảm giác xù xì, thô ráp khi nãy. Rồi anh đặt lên đó một chuỗi những nụ hôn ngắn, dịu dàng và mơn trớn, khiến trái tim tôi như muốn vỡ òa theo từng dấu hôn.
Khi môi anh hôn xuống đến cằm của tôi cũng là lúc chuỗi nụ hôn ấy được chuyển dịch dần lên trên, và chỉ dừng lại khi môi anh gặp được môi tôi. Và anh cứ giữ nguyên tư thế như vậy, như một cách để đùa nghịch với tôi.
Tôi muốn hơn thế nữa…
Anh đã nghe thấy điều đó. Chắc chắn là như vậy. Anh ngửa người ra sau, ánh mắt anh nhìn tôi đắm đuối và tôi chợt nhận ra rằng hơi thở của anh cũng đang gấp gáp không kém gì mình. Một tay đan chặt lấy tay tôi, tay còn lại anh luồn xuống dưới tóc tôi và nhẹ nhàng kéo đầu tôi sát lại gần.
Và rồi anh đã hôn tôi thật sự.
Toàn thân tôi đắm chìm trong một thứ cảm xúc mới lạ trước đây chưa từng trải qua bao giờ.
Đôi môi anh lại rời môi tôi một lần nữa và anh nhìn vào trong mắt tôi. Đôi mắt anh đang cháy bừng một niềm đam mê mãnh liệt, giống như một con sóng lớn đang chỉ chực nuốt chửng lấy tôi và cuốn tôi ra ngoài đại dương.
Trong đầu tôi lúc này chỉ toàn hình ảnh của anh Nash và có lẽ tôi sẽ không bao giờ còn có thể nghĩ tới điều gì khác nữa…
Cho tới khi cánh cửa phòng ngủ bật mở.
Anh Nash giật vội người ra, nhanh tới nỗi làm tôi không kịp phản ứng theo. Tôi chớp chớp mắt không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Và rồi hai má tôi đỏ lựng lên và tôi vội vàng lấy tay vuốt lại tóc.
“Bữa tối là thế này đây hả Nash?” – cô Hudson đứng ở ngoài cửa phòng, tay khoanh trước ngực, trên áo lấm lem một vệt sô-cô-la mới tinh. Cô nhíu mày nhìn hai đứa bọn tôi, nhưng trông không có vẻ gì là giận dữ hay ngạc nhiên.
Anh Nash đưa hai tay lên ôm mặt. Tôi ngồi trơ như phỗng, không thốt nên được lời nào. Cả đời tôi chưa bao giờ thấy ngượng đến như thế. Nhưng vẫn còn may người bắt quả tang là mẹ anh ấy, chứ không phải bác của tôi. Nếu không chắc tôi không bao giờ vượt qua được cú sốc này mất.
“Lần này thì phải nhớ mở cửa thật đấy nhé Nash” – cô Hudson quay lưng định bỏ đi thì đột nhiên nhìn thấy trên màn hình vi tính hình ảnh của Alyson Baker. Một bóng đen thoáng vụt qua khuôn mặt cô ấy – là nỗi sợ hãi chăng, hay là sự lo lắng? – và rồi cô nghiêm mặt nhìn anh Nash.
“Hai đứa đang tra cứu cái gì thế?” – cô hỏi.
“Không có gì ạ” – mặt anh Nash đột nhiên cũng nghiêm trọng không kém gì mẹ anh ý. Tôi cũng không thể đọc được điều gì cụ thể từ nét mặt của anh ấy nhưng có một điều rõ ràng là không khí căng thẳng trong phòng đang nóng lên từng giây.
“Chắc cháu xin phép về đây ạ” – tôi đứng dậy, mò tìm chìa khóa trong túi.
“Không” – anh Nash nắm chặt lấy tay tôi.
Nét mặt cô Hudson chợt dịu đi. “Cháu không cần phải về đâu” – cô nói – “Hãy ở lại và nếm thử món bánh quy của cô xem có ngon không. Chỉ cần mở cửa phòng là được.” Cô quay sang nhìn anh Nash lúc nói cái câu cuối cùng và mọi căng thẳng trong phòng đột nhiên biến mất khi cái nhíu mày của cô không còn.
Anh Nash đảo tròn hai mắt nhưng vẫn gật đầu nghe lời. Sau đó cả hai mẹ con quay sang chờ đợi câu trả lời của tôi.
“Cháu cảm ơn cô nhưng cháu vẫn còn chút bài tập về nhà chưa làm xong…” Hơn nữa, việc bị mẹ anh Nash bắt gặp hai đứa bọn tôi ôm hôn nhau trên giường của anh ấy khi nãy cũng đã kết thúc buổi tối hôm nay của tôi ở đây.
Anh Nash đưa tôi ra tận xe và lại hôn tôi một lần nữa. Lưng tôi dựa vào thành xe và các ngón tay của chúng tôi đan chặt vào nhau. Sau đó tôi lái xe về nhà trong tâm trạng lâng lâng giống như vẫn đang ở trên mây. Vừa về đến nhà tôi chui tọt vào trong phòng, phớt lờ mọi sự khiêu khích hòng để moi tin từ tôi của chị Sophie. Và phải rất rất lâu sau tôi mới nhận ra rằng quả thực tôi đã quên hết mọi thứ liên quan tới hai cô gái xấu số kia và tôi vẫn chỉ nghĩ về anh Nash cho tới khi ngủ thiếp đi.
CHƯƠNG 5
“BÊN NGOÀI HAY BÊN TRONG?” –
anh Nash đặt khay thức ăn xuống cái bàn gần nhất và thọc tay vào trong túi tìm xu. Tiếng đồng xu xủng xoảng vẫn không thể át nổi tiếng leng keng của dao dĩa và tiếng rì rầm nói chuyện không ngớt của đám đông đang tập trung ở đây. Anh rút ra một vốc xu và đi ra chỗ máy bán nước tự động.
Không khí se se lạnh của buổi sáng mùa Thu thật trong lành và dễ chịu. Đến khoảng tiết ba thì trời bắt đầu ấm dần lên và thầy Sinh cho phép chúng tôi mở cửa sổ phòng thí nghiệm, cho gió ùa vào thổi bay cái mùi hăng hăng của các chất bảo quản hóa học. “Bên ngoài.” Ý tưởng được ngồi ăn trưa ngoài sân thật là sung sướng, nhất là khi căng-tin đang chật ních người như thế này, và rất nhiều người trong số đó bắt đầu quay ra nhìn khi thấy anh Nash chạm vào ngón tay tôi lúc hai đứa đứng xếp hàng mua pizza.
Bao gồm cả cô bạn gái gần đây nhất của anh ấy, người đang hằm hè nhìn tôi bằng ánh mắt hình viên đạn, giữa một đám thành viên đội cổ vũ đầy khiêu khích.
Tôi liếc vội ra sau như muốn hội ý cùng Emma và nhận được cái gật đầu đồng tình của cậu ấy. “Để mình đi lấy bàn.” Nói rồi cô nàng quay lưng chạy vụt đi, xém tí nữa làm đổ cả khay thức ăn trên tay vì va phải cậu học sinh năm nhất đứng ngay phía sau.
“Xin lỗi” – cậu ta lúng búng thốt được ra mỗi câu đó rồi đứng ngẩn ngơ nhìn theo Emma với đôi mắt hình trái tim của kẻ si tình. Trong khi cô bạn của tôi thậm chí còn chẳng buồn dừng lại liếc cậu ta lấy một giây.
Anh Nash lấy ra hai lon Coke và đặt một lon lên khay của tôi. Sau đó hai đứa luồn lách qua các dãy bàn chật hẹp tiến thẳng ra ngoài cửa chính. Tôi có thể cảm nhận được ánh mắt của đám bạn cùng lớp đang nhìn chòng chọc đằng sau lưng và phải cố gắng lắm tôi mới không nhảy dựng lên trước sự soi mói khó chịu này. Sao anh ấy có thể chịu được cảnh bị mọi người theo dõi nhất cử nhất động suốt cả ngày nhỉ?
Chúng tôi chỉ còn cách cái cửa kéo độ vài bước chân thì đột nhiên cánh cửa bật mở, suýt chút nữa hất đổ cả khay đồ ăn của tôi. Một nhóm các cô nàng người dây trong bộ đồng phục thể thao đang tíu tít đi vào trong, một vài người trong số đó dừng lại mỉm cười với anh Nash. Thậm chí có người còn lấy ngón tay vuốt dọc cánh tay anh, khiến tôi nóng mắt chỉ muốn lao tới hất tay cô ta ra. Nhưng tôi đã lo lắng không cần thiết bởi anh Nash thản nhiên đi qua mặt cô ta với một cái gật đầu rất xã giao.
Chị Sophie là người duy nhất liếc mắt về phía tôi và khó có thể gọi đó là một cái nhìn thân thiện được. Cho tới khi ánh mắt ấy quét sang người anh Nash. Chị ấy cố tình để cánh tay sượt nhẹ qua cánh tay anh Nash, rồi ngước mắt nhìn anh và mỉm cười e thẹn.
Các nàng công chúa của đội khiêu vũ đi khỏi được một lúc rồi mà mùi nước hoa đậm đặc của họ vẫn khiến mắt mũi tôi cay xè. Tôi hậm hực đi qua cái cửa vẫn đang mở và bỏ ra ngoài sân. Anh Nash thấy vậy liền chạy vội theo tôi. Một tay cầm khay thức ăn, tay còn lại anh vòng qua eo tôi. “Cô ấy chỉ đang cố tình chọc tức em thôi.”
“Chị ấy bảo biết rất rõ băng ghế sau của xe anh.” Tôi không giấu được sự hoài nghi trong giọng nói của mình. OK, với việc công khai ôm tôi chặt cứng như thế này trước mắt mọi người và tuyệt nhiên không hé răng nửa lời về chứng bệnh thần kinh của tôi với bất kỳ ai, cuối cùng anh Nash đã khiến cho nỗi lo lắng của tôi, rằng anh chỉ định chơi bời với tôi đến hết Chủ Nhật thôi rồi sẽ đá viu tôi vào ngày thứ Hai, tan biến hết.
Nhưng anh ấy chưa một lần phủ nhận các tin đồn về những chiến tích tình trường trước đây của anh, và tôi không thể chịu đựng được cái ý nghĩ rằng Sophie đã từng là một trong số đó.
“Hả?” Anh đứng khựng lại giữa sân, nhíu mày nhìn tôi đầy bối rối.
“Băng ghế sau xe anh ý. Chị ấy bảo có một vết rách ở đó và nói như thể biết rất rõ các chi tiết trên xe của anh vậy.”
Anh Nash khẽ tặc lưỡi và rảo bước đi tiếp, làm tôi cũng phải lẽo đẽo đi theo anh. “À, ừ… Chính cô ấy là thủ phạm gây ra vết rách đó chứ đâu. Cái đêm anh cho bà chị Sophie của em đi nhờ xe về nhà, cô ấy đã say tới nỗi nôn hết ra sàn xe phía trên. Anh đành phải cho cô ấy ra đằng sau ngồi, và chẳng hiểu cô ấy loay hoay thế nào mà móc cả cái khóa giày vào ghế làm rách toạc cả một miếng.”
Tôi ngửa cổ cười phá lên. Cơn giận dữ của tôi đột nhiên tan chảy giống như lớp phấn son trên mặt chị Sophie vào những ngày Hè tháng Bảy. Tôi thậm chí còn thấy có chút thương hại chị ta – nhưng không nhiều tới mức có thể bỏ qua cho chị ta nếu còn dám ve vãn tán tỉnh anh Nash trước mặt tôi.
Cái sân trong của trường tôi thực chất có hình chữ nhật, ba mặt được bao bọc bởi các cánh khác nhau của tòa nhà, với cánh cửa căng-tin nằm ở phía cuối của một bức tường còn lại của sân nhìn thẳng ra sân bóng đá và sân bóng chày ờ rìa ngoài sân trường.
Emma đă giữ được một cái bàn ở góc khuất, nơi giao nhau giữa khoa Ngôn ngữ và khoa Khoa học, để tránh gió lùa. Tôi và anh Nash ngồi xuống cái ghế đối diện với Emma, sự đụng chạm của chân anh với chân tôi, từ hông tới đầu gối, cũng đủ giữ ấm cho tôi, mặc dù thỉnh thoảng lại có một cơn gió lạnh thốc ngược vào sau lưng.
“Cái lũ trong đội khiêu vũ bị làm sao thế?” – Emma hỏi đúng lúc tôi đang cắn dở miếng pizza – “Cả đám vừa nhảy tưng tưng ở đây, hò hét ầm ỹ, như thể ai đó vừa đánh đổ nước sốt lên mấy bộ đồ bó của bọn họ vậy ”
Tôi ngửa cổ cười sằng sặc, suýt nữa thì hóc pizza. “Bọn nó vừa giành chức vô địch toàn khu vực hôm thứ Bảy mà. Bà Sophie nhà này từ hôm đấy tới giờ cũng phởn kinh người.”
“Thế bọn họ còn định tiếp tục rú rít tít mù như một đám sóc chuột thế này tới lúc nào?”
Tôi giơ tay lên ra hiệu và cố nuốt nốt miếng pizza xong để trả lời. “Giải vô địch toàn bang sẽ diễn ra vào tháng tới. Vì thế cậu sẽ còn phải chứng kiến màn kịch này dài dài, chưa kể có khi còn có thêm những giọt nước mắt nữa đấy. Sau đó mọi thứ sẽ tạm lắng cho tới tháng Năm, khi họ bắt đầu tuyển chọn đội hình mới cho năm sau.” Tuy nhiên chính tôi sẽ lại là người khóc than cùng Sophie khi mùa thi đấu kết thúc. Bởi thời gian luyện tập của đội khiêu vũ luôn chiếm gần hết thời gian rảnh rỗi của chị ấy một vài tháng trong năm, đồng nghĩa với việc tôi sẽ có một khoảng thời gian yên bình của riêng mình, khi chị ấy không có ở nhà.