Bạn đang đọc Nữ Thần Báo Tử (Tập 1: Đoạt Hồn) – Chương 11
“OK, em phải tin anh, Kaylee ạ” – tôi lại nghe thấy tiếng bước chân, và rồi một tiếng sập cửa, và không còn tiếng gió rít trong điện thoại của anh nữa. Giọng anh dịu dàng cất lên – “Linh cảm của em không phải do bị ung thư não mà có. Không cần biết câu chuyện hai bác em nói khi nãy là chuyện gì, nhưng có điều chắc chắn không phải là chuyện đó.”
“Làm sao anh biết được?” — tôi chớp mắt cho nước mắt rơi xuống nốt khỏi lông mi, tự cảm thấy bực bội với chính mình vì bỗng trở nên dễ xúc động như vậy. Chẳng phải đó cũng là một trong các triệu chứng của bệnh ung thư não sao?
Anh Nash thở dài, nhưng nghe giống như đang lo hơn là chán nản. “Anh có chuyện này cần nói với em. Anh sẽ đến đón em, khoảng mười phút nữa.”
CHƯƠNG 8
BẢY PHÚT SAU,
tôi đã yên vị trên cái ghế ngoài phòng khách, chìa khóa trong túi, điện thoại trên đùi, hai tay cào qua cào lại trên cái đệm bọc vải sa-tanh một cách đầy lo lắng. Góc tôi đang ngồi vừa đối diện với TV – đang mở kênh tin tức buổi tối, và tắt tiếng – vừa nhìn ra cửa sổ trước. Hy vọng rằng sẽ không có ai nhận ra rằng tôi đang đợi người tới đón. “Không có ai” ở đây ý chỉ vợ chồng bác trai nhà tôi. Chị Sophie vẫn đang say giấc nồng và tôi bắt đầu tự hỏi không hiểu bác Val đã cho con gái mình uống tổng cộng bao nhiêu viên thuốc trắng đó.
Bác Val đang ở trong bếp làm món mỳ Ý, món ăn giải tỏa stress yêu thích của bác. Bác ấy hết đóng ngăn tủ này lại mở ngăn tủ khác, nồi niêu va vào nhau cứ gọi là loảng xoảng. Bình thường rất hiếm khi bác ấy chịu nạp nhiều năng lượng trong cùng một bữa ăn như thế, xem ra hôm nay bà bác tôi đang có một ngày khó khăn. Nếu không muốn nói là cực kỳ khó khăn, cứ chiếu theo mùi bánh mỳ bơ tỏi ngập ngụa trong bếp thì rõ.
“Ê, Gấu Kay, cháu thấy sao rồi?”
Tôi ngẩng mặt lên và thấy bác Brendon đang đứng dựa lưng vào bức tường giả, ngăn cách giữa phòng ăn và phòng khách. Bác ấy đã không gọi tôi bằng cái tên ấy gần thập kỷ nay rồi, và việc bác ấy dùng lại cái nickname cũ đó chứng tỏ bác ấy cho rằng tôi đang rất… mong manh dễ vỡ.
“Cháu không bị điên” – tôi nhìn thẳng vào đôi mắt xanh biếc của bác và dõng dạc tuyên bố.
Bác Brendon mỉm cười, trông bác ấy cười như vậy trẻ hơn nhiều so với lúc nghiêm nghị. “Bác chưa bao giờ nói là cháu bị.”
Tôi phụng phịu nhìn vào trong bếp, nơi bác Val đang khuấy mỳ trong một cái nồi nhôm lớn. “Bác ấy thì có đấy.” Tôi còn biết nhiều chuyện hơn thế, nhưng tôi không có ý định để cho hai bác ấy biết là mình đã nghe lén được cuộc tranh cãi khi nãy của họ.
Bác Brendon lắc lắc đầu và đi về phía tôi, hai tay khoanh trước ngực. Bác ấy đã kịp thay sang cái áo phông mặc ở nhà. “Bác Val chỉ là quá lo lắng cho cháu thôi. Cả hai bác đều lo.” Nói rồi bác ấy ngồi xuống cái ghế bành in hình hoa đối diện với tôi. Bác Brendon luôn luôn ngồi ở đấy, thay vì trên cái ghế bành trắng hoặc sô-pha. Chắc bác ấy hy vọng rằng nếu chẳng may có làm rớt cái gì ra ghế thì bác Val cũng sẽ không bao giờ phát hiện ra vết bẩn trên nền họa tiết rối rắm này.
“Sao hai bác không lo lắng về chị Sophie?”
“Có chứ” – bác Brendon ngừng lại, như thể đang cố lựa tìm một câu trả lời thích hợp – “Nhưng chị Sophie nhà bác có thể… phục hồi rất nhanh. Sau khi hết buồn, chị ấy sẽ trở lại bình thường thôi.”
“Còn cháu thì không?”
Bác rướn một bên lông mày nhìn tôi. “Bác Val nói cháu đâu có quen biết gì với Meredith Cole đâu.” Rõ ràng bác ấy đang né tránh câu hỏi của tôi – về tình trạng sức khỏe của tôi trong tương lai.
Cả bác và tôi đều biết điều đó.
Trước khi tôi kịp trả lời – và tôi cũng không hề vội vàng gì – thì có tiếng xe đậu xịch lại trước cửa. Liếc vội ra cửa sổ, tôi nhìn thấy một chiếc xe mui trần màu xanh rất lạ đang đỗ bên cạnh xe mình, lấp lánh trong ánh nắng cuối chiều. Đằng sau tay lái là một khuôn mặt vô cùng quen thuộc, với một mái đầu cũng thân thuộc không kém.
Tôi đứng bật dậy, nhét điện thoại vào một bên túi.
“Ai đấy?” – bác Brendon ngoái lại nhìn ra cửa sổ.
“Bạn cháu. Cháu phải đi đây.”
Khi bác ấy đứng được dậy khỏi cái ghế hoa thì tôi cũng chạy ra gần đến cửa rồi. “Bác Val đã đang nấu bữa tối rồi!” tôi nghe thấy tiếng bác gọi với theo.
“Cháu không đói.” Kỳ thực là tôi đang đói lả người đi rồi, nhưng tôi cần phải ra khỏi căn nhà này. Tôi không thể ngồi ăn mỳ Ý như không có chuyện gì xảy ra được. Nhất là sau khi biết được rằng cả nhà đã lừa dối tôi bao nhiêu năm nay.
“Kaylee, quay lại đây!” – bác Brandon gầm lên, đuổi theo tôi ra ngoài cửa. Hiếm khi tôi nghe thấy bác ấy cao giọng lên với ai, chứ đừng nói là hét lên như thế này.
Tôi nhanh chóng mở cửa xe, nhảy lên cái ghế cạnh anh và khóa trái cửa lại.
“Bác em đây à?” – anh Nash hỏi – “Có khi anh nên gặp…”
“Đi thôi!” – tôi gào lên giục giã – “Em sẽ giới thiệu hai người với nhau sau.” Nếu tôi còn sống được tới lúc đó.
Anh Nash gạt cần về chế độ Lùi và quay người nhìn ra phía sau, từ từ lùi xe khỏi sân nhà tôi. Tôi ngoái đầu nhìn lại bác Brendon một lần cuối trước khi xe đi khuất khỏi tầm nhìn, bác ấy đang đứng khoanh tay trước ngực đầy phẫn nộ, bên cạnh là bác Val, tay cầm giẻ rửa bát, mồm vẫn há ra vì bất ngờ.
Chỉ tới khi xe đã rời khỏi khu phố và tôi ngồi ngay ngắn lại trên ghế, tôi mới nhận ra độ hào nhoáng của con xe mình đang đi. “Đừng nói với em là anh đến đón em bằng một cái xe ăn cắp đấy nhá.”
Anh Nash cười phá lên và liếc sang nhìn tôi mỉm cười. Dù là trong hoàn cảnh nào đi chăng nữa, nụ cười của anh vẫn luôn khiến cho tim tôi đập loạn xạ. “Là xe của anh Carter. Anh có thể mượn nó tới đêm.”
“Tại sao anh Scott Carter lại cho anh mượn xe?”
Anh Nash nhún vai. “Vì cậu ấy là bạn anh.”
Tôi chớp mắt nhìn anh. Tạm gác lại vấn đề lựa chọn bạn bè của anh, Emma là bạn thân nhất của tôi nhưng tôi cũng chưa bao giờ cho cậu ấy mượn xe kiểu như thế. Mà đấy là tôi còn chưa sở hữu một con Mustang mui trần mới tinh đâu đấy.
Anh Nash nhe răng cười khi thấy tôi trông không được thuyết phục cho lắm bởi lý do vừa rồi của anh. Ánh mắt anh nhìn tôi lần này còn ngọt ngào và ấm áp hơn cả lúc nãy. “Chắc tại cậu ấy cũng đoán là em… cần được an ủi.”
“Và anh tự tin rằng mình có thể làm được điều đó?” – Tim tôi đập thình thịch. Không ngờ tôi vẫn có thể thốt ra được những lời tán tỉnh như thế, nhất là trong một ngày như hôm nay. Và nó khiến tôi cảm thấy mình vẫn đang sống, nhất là khi cái chết đang treo lơ lửng trên đầu tôi, giống như một đám mây đen phủ bóng xuống cuộc đời tôi. Xuống tất cả mọi thứ, ngoại trừ anh Nash và cảm xúc của tôi mỗi khi anh nhìn tôi. Chạm vào tôi…
Anh Nash lại nhún vai. “Carter đòi tự đến đón em cơ. . .”
Tất nhiên rồi. Bởi vì anh ấy là bạn thân của anh Nash và là bạn trai của chị Sophie mà. Cái gu chọn bạn của bà chị họ tôi thật tệ. Và có vẻ như anh Nash cũng vậy. “Tại sao anh lại chơi với anh ý?”
“Bởi vì bọn anh là đồng đội của nhau.”
Ôi giời. Nếu một giọt máu đào hơn ao nước lã thì bóng đá và bóng bầu dục hiển nhiên đã ăn sâu vào máu của một số người.
“Chỉ thế thôi và hai người trở thành bạn bè?” Tôi hơi xoay người lại, hậm hực nhìn ra băng ghế phía sau. Trong xe toàn mùi ghế da và mùi nước hoa lan tiên của chị Sophie.
Anh Nash nhíu mày, hình như không hiểu tôi đang muốn ám chỉ điều gì. Hoặc cũng có thể là anh ấy muốn đổi chủ đề. “Bọn anh cũng có một số điểm chung. Cậu ấy luôn biết cách khuấy động không khí. Và theo đuổi những thứ mà mình muốn.”
Anh ấy nói về bạn của mình mà tôi nghe cứ như đang nói về con chó chăn cừu Đức của bố tôi vậy. Và tôi lập tức đế thêm vào. “Vâng, nhưng một khi anh ấy đạt được xong sẽ nhanh chóng đi tìm thứ khác mới lạ hơn.”
Hai tay anh Nash nắm chặt lấy vô-lăng, và anh mở to mắt quay sang nhìn tôi, trán anh ấy nhăn lại đầy thất vọng. “Không lẽ em cũng đang nghĩ về anh như thế?”
Tôi nhún vai. “Các chiến tích trước giờ của anh đã tự nói lên tất cả.” Nếu không, tại sao anh ấy phải nhẫn nhịn chịu đựng tôi như thế? Tại sao một chàng trai như Nash Hudson lại chịu sát cánh bên tôi, một đứa con gái trông rất bình thường với những linh cảm quái dị về cái chết và có thể còn đang bị ung thư não?
Thậm chí nếu anh ấy cần thứ gì đó ở tôi thật thì cũng đâu phải nhọc sức, tốn công đến như vậy. Bên ngoài kia có thiếu gì người sẵn sàng xin chết vì anh.
“Cái đó thì lại khác, Kaylee ạ” – anh Nash khẳng định. Chẳng hiểu ý anh nói “cái đó” nghĩa là gì – “Anh và em… chúng ta khác với những người đó.” Mặc dù anh không nhìn vào mắt tôi khi thốt ra những lời này, nhưng mặt tôi vẫn đỏ bừng lên vì xấu hổ.
“Anh nói thế nghĩa là sao?”
Anh thở dài, buông lỏng hai tay trên vô-lăng. “Em đói không?”
NỬA TIẾNG SAU, chúng tôi hạ hết mui trần xe của anh Scott Carter xuống, cùng nhau ngồi ngắm hoàng hôn bên hồ White Rock. Những tia nắng cuối cùng trong ngày vẽ lên mặt hồ nhưng vệt màu đỏ và tía, giống như một bức tranh chiều tà.
Tôi ngồi gặm đùi gà ngon lành trong khi anh Nash đã ăn gần xong cái bánh kẹp phô-mai sữa trâu provolone, thịt xông khói, xúc xích bò tiêu đen, và mấy loại thịt khác mà tôi không phân biệt được.
Tôi đã làm dây mù tạt lên cái cần gạt số của xe anh Carter và rơi mấy giọt dấm ra ghế trước. Nhưng anh Nash chỉ cười xòa và giúp tôi lau chúng đi.
Nếu đúng là tôi sắp chết thật, tôi quyết tâm mỗi ngày còn lại sẽ dành ít nhất một bữa đi ăn với anh Nash. Trò chuyện với anh giúp tôi tìm lại được cảm giác bình yên và tạm quên đi những sóng gió đang xảy ra với cuộc đời mình.
Tôi nuốt nốt miếng thịt gà cuối cùng rồi ngửa cổ tu một hơi soda dài. “Anh hãy hứa là nếu em có khối u trong não thật, anh sẽ mua bánh kẹp thịt và mang vào bệnh viện thăm em nhé.”
Vừa bóc lớp giấy bên ngoài ra, anh vừa nghiêm nghị nhìn tôi nói. “Em không bị ung thư, Kaylee ạ. Ít nhất thì đó cũng không phải lý do tại sao em có những linh cảm kia.”
“Sao anh biết được?” – tôi quay sang chiến tiếp cái bánh kẹp thịt của mình, nhồm nhoàm đợi câu trả lời mà anh đang có vẻ lưỡng lự chưa muốn nói ra.
Cuối cùng, sau ba miếng bánh và hai lần mở miệng hụt, anh Nash quyết định gói cái bánh đang ăn dở của anh lại và kẹp nó vào giữa túi đồ uống của bọn tôi, rồi hít một hơi thật sâu và quay sang nhìn thẳng vào mắt tôi. Trán anh ấy nhăn lại như thể đang lo lắng điều gì đó, nhưng ánh mắt anh ấy nhìn tôi lại đầy kiên định. Và mạnh mẽ.
“Anh có chuyện cần phải nói với em, và có thể em sẽ không tin lời anh nói. Nhưng anh có thể chứng minh điều đó với em. Vì thế đừng có hoảng sợ, ok? Ít nhất là cho tới khi em nghe xong toàn bộ câu chuyện đã.”
Tôi nuốt nước bọt cái ực, bọc nốt cái bánh của mình và đặt nó trên đùi. Xem ra đây không là cái tin khiến tôi có thể tiếp tục đút đồ ăn vào miệng được rồi. Nếu ăn tiếp, rất có thể tôi sẽ phải cho ra toàn bộ những gì vừa mới ăn mất “Okkkk… Dù là chuyện gì đi nữa cũng không thể hơn căn bệnh ung thư não của em được.”
“Chính xác” – anh giơ tay lên vuốt tóc, nhìn tôi với ánh mắt cực kỳ căng thẳng, làm tôi cũng hơi chột dạ – “Em không phải là con người.”
“Hả?” – sự bối rối đã thay thế cho nỗi sợ hãi và lo lắng ban đầu. Tôi thậm chí còn chuẩn bị tinh thần để đón nhận một cái tin kỳ quái và khác thường, giống như bản thân mình cơ. Nhưng tôi không biết phải phản ứng ra sao với câu “không phải là con người” của anh Nash.
“Hoặc là cả hai bác của em đều không biết, hoặc là vì lý do nào đó mà họ không nói cho em biết. Đấy là lý do tại sao anh đã không kể chuyện này với em ngày hôm qua. Nhưng anh không chịu được khi nhìn em bị ám ảnh bởi căn bệnh ung thư não như thế này.” Vừa nói anh Nash vừa chăm chú quan sát phản ứng của tôi, đề phòng tôi có thể phát hoảng lên bất cứ lúc nào.
Thề là nếu tôi mà hiểu được anh ấy đang nói gì chắc tôi cũng đã phát hoảng rồi.
“Anh nghĩ… nếu họ biết là em đang tưởng mình sắp chết, chắc chắn họ sẽ kể hết sự thật cho em nghe” – anh tiếp tục – “Và có vẻ như họ sẽ sớm làm điều đó thôi, nhưng anh không muốn em nghĩ rằng anh cũng đang nói dối em” – anh khẽ mỉm cười, để lộ hai cái núm đồng tiền sâu hoắm – “Hay chuyện em đang bị ung thư.”
Trong một phút, tôi chỉ biết đơ ra ngây người nhìn anh, không hiểu anh ấy đang lảm nhảm chuyện gì. Và phải thừa nhận là tôi đã thoáng có ý nghĩ người cần vào viện tâm thần bây giờ không phải là tôi mà là người khác.
Nhưng anh Nash đã tin tôi khi tôi kể cho anh nghe về chị Heidi, dù câu chuyện có điên khùng đến đâu, và luôn ở cạnh giúp đỡ tôi trong cả hai lần dự cảm đó. Điều ít nhất tôi có thể làm cho anh lúc này là lắng nghe anh nói.
“Thế thì em là cái gì?” – chỉ riêng việc thốt ra hỏi câu đó thôi cũng đủ khiến người tôi nổi hết da gà rồi. Chưa kể tim và đầu cứ gọi là quay mòng mòng như đang ngồi trên mấy trò chơi cảm giác mạnh.
Mặt Trời, như một trái bóng màu đỏ thẫm, bắt đầu xuống mỗi lúc một nhanh. Mắt anh Nash vẫn không hề rời khỏi mắt tôi lấy một giây. “Em là một nữ thần báo tử, Kaylee ạ. Việc em dự báo được cái chết là hoàn toàn bình thường. Chúng là một phần của con người em.”
Tôi há hốc mồm nhìn anh Nash như thể anh ấy đang nói tiếng hành tinh khác, càng nghe càng thấy điên cái đầu. Tôi ngập ngừng hỏi lại. “Xin lỗi, anh vừa nói cái gì cơ?”
Anh nhe răng cười, lấy tay xoa xoa cằm. “Anh biết, em nghĩ là anh bị điên đúng không?”
Lại còn phải hỏi…
“Nhưng anh thề với em đấy là sự thật. Em là một nữ thần báo tử. Bố mẹ em cũng vậy. Hoặc chí ít cũng phải là một trong hai người.”
Tôi lắc lắc đầu, rồi vuốt tóc ra đằng sau, hòng xua tan nhũng bối rối đang bao trùm lấy đầu mình. “Nữ thần báo tử? Giống như trong truyện thần thoại ý ạ?” Năm ngoái bọn tôi đã từng được học qua về truyện thần thoại trong giờ tiếng Anh, nhưng chủ yếu liên quan tới thần thoại Hy Lạp và La Mã. Các vị thần, nữ thần, á thần, và quái vật.
“Ờ. Nhưng là ngoài đời thật” – anh hớp một ngụm soda, sau đó lại đặt lại cái cốc vào chỗ cũ – “Có nhiều cái họ không dạy cho em ở trường. Những thứ mà ngay đến bản thân họ cũng không hề biết, bởi với họ, chúng chẳng qua chỉ là những câu truyện cũ mèm.”
“Và ý anh là không phải như thế?” Tôi không hề biết là mình đã nhích ra chỗ cửa xe từ lúc nào, cho tới khi bị cái tay nắm chọc vào lưng. Không thể tin được, tôi đang tìm cách nới rộng khoảng cách giữa tôi với chàng trai duy trên thế giới này có thể khiến tôi nghĩ rằng mình bình thường.
“Thì đúng là không phải mà. Kaylee ơi, em chính là nữ thần báo tử đấy!” Anh đang chăm chú nhìn tôi với một đôi mắt tràn trề hy vọng, và mặc dù rất muốn phủ nhận điều dó nhưng tôi đã không thể. Kể cả khi anh Nash có những suy nghĩ không bình thường như vậy, tôi vẫn bị thu hút bởi anh, không sao cưỡng lại được, từ đôi tay đẹp như tạc tượng, đến đôi mắt nâu lục nhạt và hai má núm đồng tiền như muốn hút hồn người đối diện. Anh khiến tôi cảm thấy… yên tâm. Thoải mái. Rằng mọi thứ rồi sẽ đâu vào đó, bằng cách này hay cách khác. Nếu không phải là con người thì làm sao tôi có được những cảm xúc rất-con-người như thế được?
“Em hãy thử nghĩ mà xem” – anh khăng khăng – “Em biết gì về nữ thần báo tử?”
Tôi nhún vai. “Họ là những cô gái mặc váy trắng dài thướt tha, thường xuất hiện tại các đám tang, khóc than cho người đã khuất. Đôi khi họ cũng khóc than cho người sắp lìa đời, báo hiệu cái chết đang cận kề” – Tôi nhấp một ngụm soda rồi nói tiếp – “Nhưng anh Nash ơi, nữ thần báo tử chỉ là truyền thuyết trong những câu truyện dân gian của châu u cổ thời xưa mà thôi.”
Anh Nash gật đầu. “Không sai, đa số những truyện trong đó chỉ là truyền thuyết. Hơn nữa, theo ngôn ngữ của người Xen-tơ, nữ thần báo tử được gọi là bean sidhe, B-E-A-N S-I-D-H-E. Hai từ riêng biệt. Nó có nghĩa là ‘nàng tiên.’”
Lông mày tôi dựng ngược lên và tôi đặt vội cái cốc trên tay xuống. “Khoannnn… anh nghĩ em là một nàng tiên á? Kiểu có đôi cánh lấp lánh và cây đũa phép á?”
Anh Nash nhăn mặt lại. “Đây đâu có phải thế giới cổ tích của Disney hả Kaylee. Từ “nàng tiên” ở đây mang khái niệm rất rộng. Có thể hiểu là “những loài không phải con người”. Và em có thể quên đi mấy chi tiết như là mặc váy trắng dài thướt tha, và bám theo các đám tang đi được rồi. Phong tục ấy từ lâu đã được bỏ qua rồi. Còn những cái khác, như là nữ sứ giả thần chết? Nghe có thấy quen không?”
OK, phải thừa nhận là chuyện này hơi có một chút giống với các linh cảm của tôi thật, nhưng… “Trên đời làm gì có cái gọi là nữ thần báo tử hay bean sidhe, tùy anh muốn gọi sao thì gọi.”
“Thế còn những linh cảm của em thì nên giải thích như thế nào đây?” – anh Nash nhe răng nhìn tôi cười, nhất quyết không chịu lùi bước – “OK, chúng ta thử nghe anh lý giải xem có hợp lý không nhé. Bố của em… Trông rất trẻ đúng không? Quá trẻ để có một đứa con gái 16 tuổi đúng không? Cả bác trai em cũng vậy. Họ là hai anh em trai, đúng không?”
Điều này chẳng có gì là mới cả. Tôi đảo tròn hai mắt và thu một chân lên trên ghế. “Anh vừa nhìn thấy bác em mới một tiếng trước chứ đâu – hiển nhiên là anh phải biết mặt bác ý trẻ rồi. Con bố em thì hơn một năm rưỡi nay em chưa gặp.” Mặc dù quả thực là ngay từ bé tôi đã luôn thấy bố mình trẻ và đẹp trai rồi. Nhưng đó là chuyện của rất nhiều năm về trước…
“Anh biết là mặt bác em trông rất trẻ, nhưng với một bean sidhe thì đó là chuyện rất bình thường. Bác ý có khi cũng cả trăm tuổi rồi cũng nên.”
Và lần này thì tôi bật cười phá lên. “Ha ha… Bác em là một cụ già cao tuổi.” Chắc bác Val sẽ phải tức lắm nếu biết chồng mình gấp đôi tuổi mình mà trông vẫn trẻ hơn hẳn!
Anh Nash nhăn mặt trước thái độ hoài nghi của tôi. Bên ngoài, trời đã bắt đầu tối. “OK, thế còn những người khác trong gia đình em thì sao? Tổ tiên của em là người Ai-len đúng không?”
Tôi đảo tròn hai mắt, khoanh hai tay lại trước ngực. “Họ của em là Cavanaugh. Ai mà chẳng đoán ra điều đó.” Hơn nữa anh Nash cùng đã biết từ trước chuyện bố tôi sống ở Ai-len rồi.
“Nữ thần báo tử hay các bean sidhe có nguồn gốc từ Ai-len. Đó là lý do tại sao các câu chuyện về họ đều bắt nguồn từ những câu truyện dân gian cổ của Ai-len.”
Như thế cũng chỉ có thể coi là một sự trùng hợp ngẫu nhiên thôi. Chứ chẳng có ý nghĩa gì hết. “Anh còn bằng chứng gì nữa không?”
Anh Nash nhoài người sang nắm lấy tay tôi và lần này tôi đã không rụt tay lại. “Kaylee ơi, anh đã biết em là ai ngay cái giây phút em nói với anh rằng chị Heidi Anderson sẽ chết. Và đáng ra anh đã có thể nhận ra điều đó sớm hơn, nếu anh chịu khó để ý một chút. Chỉ là anh chưa bao giờ nghĩ sẽ gặp một bean sidhe tại chính trường học của mình.”
“Làm sao anh có thể biết được sớm hơn?”
“Giọng nói của em.”
“Hả?” Trái tim tôi bắt đầu đập mạnh hơn, như thể nó đã biết được một điều gì đó mà trí não tôi vẫn chưa lĩnh hội ra.
“Trong bữa trưa hôm thứ Sáu tuần trước, anh nghe thấy tiếng em và Emma bàn về chuyện lẻn vào CLB Taboo, và không làm sao xua được em ra khỏi tâm trí của mình. Giọng nói của em cứ văng vẳng trong đầu anh, bám theo anh ở khắp mọi nơi mọi lúc. Anh có thể tìm thấy em trong đám đông kể cả khi không nhìn thấy em, miễn là em đang nói chuyện. Nhưng anh đã không biết tại sao. Anh chỉ biết rằng mình cần phải nói chuyện với em bên ngoài trường học, và rằng em sẽ có mặt ở CLB tối thứ Bảy hôm ấy.”
Đột nhiên tôi không sao thở nổi. Chuyện gì đang xảy ra thế này? “Vậy là anh đã bám theo em tới CLB Taboo à?” Lời thú nhận vừa rồi của anh chỉ càng khiến cho cái đầu vốn đã đủ trăm thứ tơ vò của tôi càng thêm bối rối.
“Ờ” – giọng anh trả lời thản nhiên, như kiểu chẳng có gì là to tát khi một anh chàng siêu hấp dẫn, hoàn-toàn-ngoài-tầm-với-của-tôi, tới CLB vào buổi tối thứ Bảy cốt chỉ để gặp tôi – “Tại anh muốn nói chuyện với em mà.”
Tôi nuốt nước bọt cái ực, nhìn chằm chằm xuống hai tay, không dám tin vào những gì mình sắp nói với anh sau đây.
“Lúc anh nói chuyện với em, em có cảm giác như là mọi chuyện rồi sẽ ok, kể cả khi mọi thứ bắt đầu trượt ra tầm kiếm soát của em. Tại sao thế?” – tôi ngước mắt nhìn anh, cố gắng tìm sự thật trong ánh mắt đang đau đáu nhìn tôi kia – “Anh đã làm gì với em?”
“Không gì cả. Anh chẳng cần phải làm gì thì đúng hơn.” – Anh bóp nhẹ tay tôi, đan các ngón tay vào tay tôi – “Chúng ta tự nghe thấy giọng của nhau, bởi vì chúng ta giống nhau. Anh cũng là một bean sidhe, Kaylee à. Giống như bố anh, mẹ anh, và một trong hai bố mẹ em. Giống như em.”
Giống như tôi. Chuyện này có thể nào là thật không? Linh tính mách bảo với tôi là không. Tôi lắc đầu thật mạnh và nhắm chặt mắt lại cho tới khi chắc chắn rằng giấc mơ điên rồ này đã trôi qua. Giờ tôi cũng chẳng biết cái nào kỳ quặc hơn, chuyện tôi là một bean sidhe hay là chuyện tôi tiên đoán được cái chết?
Kể cả nếu đó là sự thật đi chăng nữa thì vẫn có điều gì đó không ổn…
“Trong truyền thuyết, làm gì có bean sidhe là con trai?”
“Anh biết” – anh Nash cau mày, buông tay tôi ra và khoanh hai tay trước ngực – “Các câu truyện dân gian được thêu dệt nên từ những gì con người biết về chúng ta, và dường như họ chỉ biết về mỗi các cô gái thôi. Có lẽ bởi các nữ thần báo tử quá xinh đẹp, với những tiếng thét và tiếng khóc than của mình.”
“Ha ha” – tôi bật cười, giơ tay lên định vỗ vào vai anh nhưng rồi chợt dừng lại giữa chừng. Tôi vừa mới bênh vực – cho dù là đùa – một giống loài mà tôi đã tuyên bố là mình không phải. Thậm chí là không tin vào sự tồn tại của nó.
Đột nhiên tôi như bừng tỉnh, và ngộ ra mọi chuyện.
Đúng vậy, toàn bộ sự việc này nghe có vẻ điên rồ. Nhưng lại rất có lý. Ngay đến những chi tiết nhỏ nhất cũng thấy ăn khớp, nếu xét trên khía cạnh trực giác hơn là lôgic.