Bạn đang đọc Nụ hôn đầu cho em – Chương 2
Chương hai
“Ngài Quinn, tôi là Frankie Paresky. Xin lỗi vì đã để ngài đợi lâu.”
Simon nhìn người đàn ông to béo nhổm người dậy để bắt tay Frankie qua mặt bàn.
“Cô là Frankie Paresty?” Miệng Clayton Quinn cong lên thành nụ cười.
“Có vấn đề gì ư?” Frankie hơi giương vây khi cả hai ngồi xuống.
“Tôi cứ nghĩ là một người nào đó…”
“Cao hơn?” Simon đỡ lời, đi vào phòng và ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh Quinn.
“Già hơn,” Quinn thành thật.
Frankie quay sang Simon. Mắt cô từ màu nâu ấm áp thoắt cái đã trờ nên băng giá. Ngay cả giọng nói miền Nam nồng hậu dường như cũng lạnh nhạt hẳn. “Simon, tôi dám chắc ngài Quinn sẽ hoan nghênh một chút riêng tư trong buổi gặp này…”
“Quả thực tôi không phiền đâu nếu trợ lí của cô ở lại.”
Quinn tặng cho Simon một nụ cười thân thiện. Ngay từ lúc mở cửa nhà Frankie cho ông ta, Simon đã lập tức thấy mến người đàn ông này. “Thực ra, tôi đến đây để tìm một người, và càng có nhiều người biết chuyện thì tôi càng có cơ hội thành công hơn.”
Simon cảm thấy ánh mắt của Frankie lại chiếu vào mình, và anh biết cô muốn anh ra khỏi đây ngay. Nhưng bây giờ sự tò mò của anh đã nhân lên gấp đôi. Anh muốn biết Quinn đang tìm ai, và muốn xem Frankie Paresty, thám tử tư, làm việc ra sao.
Phải công nhận rằng trông cô rất ổn. Nếu chỉ vừa mới bước vào phòng, anh sẽ không hề biết cô đang mặc bộ đồ tắm Speedo và có lẽ dính đầy cát biển bên dưới bộ trang phục chỉnh tề nghiêm ngắn. Cô vẫn rám nắng và rực rỡ như mọi khi – đôi má và cái mũi thanh tú hơi nhếch hồng hào hẳn lên so với những chỗ khác trên khuôn mặt hình trái tim.
Mái tóc đen cắt ngắn của cô có lẽ vẫn còn vương vị muối, nhưng trông cô như đã dành kha khá thời gian ở trước gương phòng tắm với gel và máy sấy để có được mái tóc bay bay trong gió kia.
Trông cô chuyên nghiệp đến từng centimét, ngay cả tập tài liệu luật màu vàng cô lấy từ ngăn kéo bàn ra cũng sạch sẽ, gọn gàng.
“Trước khi chúng ta đi vào các chi tiết trong vụ của ngài,” cô nói, mở một ngăn kéo hồ sơ ở bàn và lấy ra một thứ trông giống như mẫu hợp đồng, “tôi muốn ngài nắm được mức phí của tôi. Bảy mươi lăm đô la một giờ, một trăm đô la ỗi giờ phải đi lại và thời gian nằm ngoài mười hai tiếng trong ngày. Nếu ngài đồng ý kí hợp đồng hôm nay, ngài sẽ phải trả trước một nghìn đô la. Đổi lại, tôi sẽ cung cấp cho ngài bản kê đầy đủ thời gian, công sức, các phí tổn, cộng với tất cả thông tin tôi thu nhập được trong quá trình điều tra.”
Clayton Alan Quinn rút cuốn séc ra, không hề chớp mắt. “Tôi sẽ trả trước cho cô năm nghìn,” ông ta nói, “bởi vì tôi ngờ rằng cô sẽ không thể tìm ra người tôi muốn tìm trong ngày một ngày hai. Thật ra, nếu cô xoay sở hoàn thành công việc trong vòng một tuần, tôi sẽ thưởng thêm cho cô mười nghìn đô la.”
Simon nghe giọng Frankie run lên, nhưng khẽ đến mức có lẽ Quinn không nhận thấy. “Nếu như chưa đầy một tuần tôi đã làm xong việc thì sao?
Quinn cười vang. “Chúng ta sẽ đàm phán sau.”
Frankie gật đầu. “Cụ thể là ngài muốn tìm ai, ngài Quinn?”
“Clay,” Quinn sửa lời cô với một nụ cười khi xé tờ séc từ cuốn séc bìa da và đặt lên bàn trước mặt cô. “Xin hãy gọi tôi là Clay. Tôi đang tìm một người tên John.”
Frankie cất tờ séc vào ngăn kéo trên cùng của bàn, thậm chí không hề nhìn sang phía Simon. Anh biết rằng mười nghìn đô la đã nhiều hơn một nửa thu nhập năm ngoái của cô. Sao cô có thể ngồi đó và nói về mười nghìn đô la tiền thưởng với gương mặt điềm nhiên như không vậy nhỉ?
Nhưng Clay có vẻ tin tưởng rằng cô xứng đáng với nó. Cuộc kiểm nghiệm thực tế sắp bắt đầu – khi cô buộc phải giải quyết vụ này. Trong chưa đầy một tuần.
Simon nhìn cô viết một ghi chú lên tập giấy. John. Cô ngẩng nhìn Quinn, đôi mắt đen sâu thẳm mở to. “John… gì cơ ạ?”
Clay cười buồn bã. “Vấn đề là ở chỗ ấy. Tôi không biết họ của người đó.”
Frankie ngả người vào lưng ghế. “Có lẽ ngài nên giải thích.”
“Tôi là người thi hành di chúc của bà trẻ tôi. Bà ấy có một ngôi nhà nghỉ ở Sunrise Key này.”
Frankie liếc nhanh sang Simon, và anh biết cô đang nghĩ gì. Cả hai đều biết tất cả những người có cơ ngơi trên hòn đảo nhỏ bé này, và tất cả họ đều đang sống khỏe mạnh. Trừ một người…
“Có phải bà trẻ của ngài là Alice Winfield?” Frankie hỏi, ngồi thẳng dậy.
“Đúng vậy.”
“Nhưng bà ấy đã mất hơn tám năm trước. Chúng tôi còn cho rằng nhà cửa của bà ấy đã sang tên đổi chủ…”
“Tám năm trước bà đã bị một cơn đột quỵ nặng,” Clay nói với Frankie. “Bà chưa bao giờ hồi phục hẳn, và cuối cùng đã ra đi vào tháng trước.”
“Bà ấy vẫn còn sống cho đến tháng trước ư?” Frankie nhìn Quinn chầm chậm như thể ông ta là hiện thân của ác quỷ chứ không phải người đàn ông vừa đưa cô năm nghìn đô la trả trước. “Sao không một ai ở Sunrise Key được biết? Bà Alice Winfield có nhiều bạn bè ở đây, ngài Quinn – chí ít họ cũng muốn viết thư hỏi thăm bà!”
Clay giơ cả hai tay lên như để tránh một đòn tấn công tiềm ẩn. “Tôi xin lỗi, tôi thậm chí còn không biết bà Alice có một ngôi nhà ở dưới này cho đến sau khi bà qua đời.”
Frankie quay sang Simon, và anh thấy mắt cô đang rưng rưng. Trời, cô đúng là một quả cầu lửa dễ xúc động. Từ xưa đến nay vẫn thế. Dễ buộc tội, dễ lao vào thử thách, dễ tranh cãi, dễ tấn công. Nhưng cũng dễ dàng tha thứ và bỏ qua.
Nhìn đôi mắt nâu ươn ướt của cô, Simon tự hỏi – không phải lần đầu tiên – rằng Frankie sẽ như thế nào khi ở trên gường. Không phải lần đầu tiên ư? Khỉ thật, thậm chí không phải lần đầu tiên trong ngày hôm nay. Làm tình với Frankie Paresky sẽ ra sao là điều anh cứ tự hỏi gần như mỗi ngày suốt mười hai năm qua. Và gần đây tần suất tự hỏi của anh có vẻ càng lúc càng thường xuyên hơn. Như lúc cô làm anh giật mình khi cởi bỏ quần áo ngoài chỉ để lại đồ tắm trên người trước mặt anh, hay cách cô trèo lên tầng hai chưa đầy vài phút trước. Như lúc anh nhìn thấy cô đi về phía anh trên đại lộ Ocean, hay khi cô nở nụ cười tươi rói với anh. Khi anh nghe thấy âm thanh khàn khàn trong tiếng cười hay giọng nói miền Nam lên bổng xuống trầm êm dịu của cô. Khi anh thức giấc vào buổi sáng. Khi anh chìm vào cơn mơ buổi tối…
“Anh có nhớ bà Alice Winfield không, Si?” cô hỏi.
Anh có thể hình dung ra cô đang mặc chiếc váy đen gợi cảm đó, chất vải mềm ôm sát thân hình uyển chuyển – một thân hình tuyệt mĩ mà cô luôn che giấu kĩ càng trong những chiếc áo phông lùng thùng, quần soóc ống rộng và những bộ đồ tắm liền mảnh tiện dụng. Anh có thể hình dung ra cô không một mảnh vải che thân – với khuôn miệng đầy khao khát, những ngón tay lùa trong tóc anh, cơ thể háo hức chờ đợi…
“Có,” anh hắng giọng và hơi ngọ nguậy trên ghế. “Alice Winfield, tất nhiên là tôi nhớ bà ấy.” Đúng hơn là, anh nhớ bà ấy có một ngôi nhà kiểu Victoria trên đường Pelican mà anh ngờ rằng toàn chứa đồ nội thất cổ hoàn hảo được giữ gìn cẩn thận – một miếng mồi béo bở đối với những tay buôn đồ cổ như anh. Anh luôn muốn vào trong ngôi nhà đó ghê gớm. Tốt hơn là nên nghĩ về điều đó, đừng mê mải với những ý nghĩ gợi tình điên rồ nữa. “Bà ấy là giáo viên tiểu học phải không?”
“Tôi hay ghé qua giúp bà ấy dọn cỏ trong vườn,” Frankie nói. “Tôi chăm sóc khu vườn cho bà ấy vào mùa hè, khi bà ấy đi lên miền Bắc. Bà ấy là người phụ nữ đôn hậu và tử tế nhất. Giá như tôi biết bà ấy vẫn còn sống, tôi đã giữ liên lạc với bà ấy rồi.”
“Tôi không biết về bà tường tận đến thế,” Clay Quinn thú nhận. “Nhưng hình như người chồng quá cố của bà đã để lại cho bà một gia tài kết xù, và bà đã đầu tư nó thành công. Tiền bạc của bà rất dư dả, và bà khá hào phóng phân phát cho họ hàng. Bà không có con cái gì cả, cô biết đấy.”
Frankie gật đầu, tập trung hoàn toàn vào Quinn.
Simon phát hiện mình lại đang nhìn cô chằm chằm. Khỉ thật, anh bị làm sao vậy? Dĩ nhiên cô cực kì xinh đẹp – cho dù cô thường ăn mặc như một phu khuân vác. Nhưng thế thì sao nào? Ngay lúc này có tới hàng trăm phụ nữ xing đẹp đang đi lại ngoài bãi biễn hình trăng lưỡi liềm của Sunrise Key kìa. Và có lẽ đó chính là vấn đề của anh. Có lẽ chỉ vì lâu rồi anh chưa mời ăn tối – và tán tỉnh – một vị khách đáng yêu nào đến hòn đảo này. Tối nay anh sẽ đến nhà hàng nằm trong khu resort, tìm ình một cái hẹn ăn tối, và không nghĩ ngợi gì về Frankie Paresky nữa.
“Alice viết trong di chúc là bà sẽ để lại tài sản ở Sunrise Key ột người tên John,” Quinn nói. “Trong khoảng thời gian cuối những năm bảy mươi đầu những năm tám mươi, mùa xuân nào người đó cũng về nghỉ ở đây hai tuần lễ. Theo lời bà Alice, ông ấy thuê một ngôi nhà gần nhà của bà ở đường Pelican. Hình như trong lúc vợ ông ấy thư giãn ngoài bãi biển, ông ấy thường giúp bà Alice những việc vặt và sửa mấy món đồ hỏng hóc. Bà biết rằng ông ấy chưa bao giờ lấy một đồng nào cho tất cả những công việc đã làm cho bà, và thường sang chơi nhà bà vào buổi tối để đánh bài tay đôi với bà. Alice không nhớ rõ bà có biết họ của ông ấy hay không. Bà nghĩ vợ ông ấy tên là Lynn hay Lana gì đó, và họ có một cậu con trai có biệt danh là Biff hoặc Buzz hoặc…”
“Jazz?” Frankie hỏi.
Simon không nén được cười. Ai mà ngờ được? Có lẽ ý niệm Frankie Paresty làm thám tử tư không đến nỗi quá vô lí. Xét cho cùng, cô biết tất cả mọi người trên đảo – và hình như cả những người đã từng ghé lại đảo này nữa.
“Tôi biết một chàng trai tên Jazz vẫn hay về nghỉ xuân ở đây trong nhiều năm,” Frankie nói tiếp. “Lần đầu tiên tôi gặp anh ấy là khi, tôi cũng không chắc lắm, có lẽ khi tôi mười hai tuổi. Lần cuối cũng tôi nhìn thấy anh ấy là năm tôi mười tám tuổi. Anh ấy từ trường đại học về đây vào kì nghỉ – hình như là đại học Boston thì phải. Gia đình anh ấy luôn thuê một ngôi nhà trên đường Pelican.”
“Không thể tin cô lại nhớ được một anh chàng chỉ ở đây hai tuần mỗi năm,” Simon nói.
Frankie liếc anh một cái thật nhanh. “Jazz… là người không dễ gì quên được. Tôi không nhớ họ của anh ấy, nhưng chắc chắn tôi đã ghi lại ở đâu đó.”
Jazz, cái tên này – và vẻ mặt của Frankie – đột nhiên khơi lại trong Simon những kí ức về một thiếu niên cực kì đẹp trai với mái tóc nâu vàng và vóc người săn chắc như một vận động viên marathon. Thực ra anh có thể tưởng tượng ra cảnh Jazz đang chạy dọc bãi biển, tay trong tay với Frankie, cười vang, thở hổn hển và ngã nhào xuống bãi cát để hôn cô – những nụ hôn dài, chậm và sâu khiến chỉ nhìn thôi cũng làm tim người ta ngừng đập. Và chỉ có Chúa mới biết là Simon đã nhìn thấy. Đó là mùa hè Frankie bước sang tuổi mười tám – lúc Simon nhận ra cô bạn thân của em gái anh từ một cô bé lôi thôi lếch thếch đã lột xác thành một mĩ nhân. Anh đã không thể rời mắt khỏi Frankie – ngay cả khi cô ở bên Jazz.
Simon đã mời Frankie đi chơi vào mùa hè đó, nhưng hình như cô chẳng để ý đến anh. Cô chỉ nghĩ đến tên Jazz khó ưa nọ – cho dù thằng nhóc đã đi khỏi đảo được gần hai tháng.
“Cô định bắt đầu tìm kiếm từ chỗ đó sao?” Quinn hỏi. “Từ cậu con trai ấy?”
“Tôi nghĩ chúng ta buộc phải làm thế,” Frankie nói với ông. “Nếu tôi nhớ không nhầm, thì Jazz sống với mẹ và bố dượng. Nếu bố dượng của Jazz quả thực là người chúng ta đang tìm kiếm, thì John và Jazz sẽ không cùng một họ.” Cô lấy một cặp hồ sơ từ ngăn kéo và viết chữ “Quinn” lên nhãn. “Tôi cũng sẽ đến hỏi một người bạn làm ở văn phòng nhà đất. Sự việc diễn ra cách đây mười hoặc mười hai năm rồi, nhưng có thể cô ấy có sổ sách ghi chép tiền thuê của những ngôi nhà trên đường Pelican thời đó. Có lẽ ta sẽ tìm ra họ của John theo cách ấy.”
Quinn gật đầu. “Tôi sẽ ở tại khu resort Seaholm cho đến khi chuyến bay của tôi cất cánh vào tối mai. Nếu cô tìm hiểu được gì, xin hãy cho tôi biết.”
“Ngài đi sớm thế ư?”
Ông ta cười buồn. “Đáng ra tôi có thể tranh thủ nghỉ ngơi. Nhưng rủi thay, công việc ở nhà còn đang chất như núi đợi tôi giải quyết. Thậm chí tôi còn không có thời gian gọi cho cô trước khi rời Michigan. Tôi xin lỗi vì đã đến mà không báo trước.”
Frankie xếp những ghi chú vào cặp file rồi đóng lại. “Không sao đâu ạ.”
Clay Quinn liếc nhìn chiếc đồng hồ Rolex trên tay. “Cô gọi hộ tôi một chiếc taxi được không?”
Frankie cứng người. “Umm…”
Simon biết cô đang nghĩ gì. Cô đang nghĩ đến chiếc taxi duy nhất trên đảo hiện đậu ở khu nhà kế bên. Cô đang nghĩ cho dù có chạy lên lầu và thay lại cái áo phông, quần soóc và mũ bóng chày, thì lần này cô cũng không thể nào che mắt được ông Quinn.
Simon đành làm người giải cứu cho cô. “Xe jeep của tôi đỗ ngay bên ngoài. Sao ngài không để tôi chở ngài đến khu resort?”
“Ồ, cảm ơn anh, thế thì còn gì bằng.” Quinn đứng dậy, thu thập hành lí và áo mưa. Ông quay lại nhìn Frankie. “Suýt nữa quên mất – sáng mai tôi sẽ đến ngôi nhà trên đường Pelican, cô có muốn đi cùng không? Tôi không dám chắc sẽ có manh mối, nhưng biết đâu đấy?”
“Mấy giờ ạ?” Frankie hỏi.
“Chín giờ.”
“Tôi sẽ gặp ngài ở đó.”
“Cả tôi nữa.” Simon nói.
Frankie mỉm cười ngọt ngào với Simon. Quá đỗi ngọt ngào. “Anh vào trong với tôi một lát được không?” Cô quay sang Clay. “Xin phép ngài nhé?”
“Được thôi.”
Simon theo Frankie ra hành lang và xuống bếp, rồi nhìn cô khi cô đóng cửa xoay lại sau lưng.
“Tôi cảm ơn anh đã cho ông Clay Quinn đi nhờ về khu resort.” Cô hạ giọng nói, “và tôi sẽ mãi mãi yêu mến anh vì đã đến đây giúp tôi chiều nay, nhưng anh không phải là trợ lí hay cộng sự gì gì khác của tôi. Tất nhiên trừ khi anh muốn giúp tôi một công việc kém hấp dẫn hơn – như tra cứu sổ sách văn phòng nhà đất chẳng hạn…?”
“Chín giờ sáng mai, cánh cửa ngôi nhà số sáu trên đường Pelican sẽ được mở lần đầu tiên sau nhiều năm.” Simon cũng gắng hạ thấp giọng, nhưng không thể giấu nổi sự phấn khích. “Thử nghĩ đến những báu vật có thể có trong đó xem!”
“Có thể chẳng có gì ngoài đồ bỏ đi, Si ạ.”
“Có thể có những món đồ vô giá. Có thể có những món đồ mà khách hàng của tôi đang tìm kiếm.”
“Và tất cả chúng thuộc về con người bí ẩn tên John này,” Frankie chỉ ra.
“Khi nào cô tìm ra ông ta,” Simon nói, “tôi sẽ thuyết phục ông ta bán cho tôi đồ nội thất cổ của bà Alice Winfield.”
Frankie nhìn anh, ánh mắt thật khó đoán định. Cô đang nghĩ gì nhỉ? Với những phụ nữ khác, anh có thể đọc tâm sự họ như một cuốn sách. Nhưng còn Frankie… cô đúng là một bí ẩn.
“Nghe này.” Simon hi vọng giọng anh không tuyệt vọng như anh cảm nhận. “Tôi chỉ muốn vào trong ngôi nhà đó và nhìn ngó một chút thôi. Sáng mai hãy cho tôi đến đấy cùng cô đi, và chúng ta sẽ chẳng nợ nần gì nhau nữa. Đôi bên cùng có lợi mà.”
Cô không nói lời nào. Chỉ nhìn anh.
“Thôi được,” anh nói. “Tôi cũng sẽ đến văn phòng nhà đất với cô chiều nay, giúp cô kiểm tra sổ sách tiền thuê nhà. Thế là chúng ta sẽ thực sự sòng phẳng nhé.” Anh dừng lời. “Vậy được chưa?”
Frankie mỉm cười. “Tôi tự hỏi, nếu tôi cứ đứng ì ra đây, chẳng nói năng gì, thì đến cuối cùng liệu anh có đưa tôi giấy tờ nhà anh không.”
“Tôi chỉ nghĩ ngó nhà bà Alice Winfield một cái thôi cũng phải đánh đổi bằng giấy tờ nhà của mình,” Simon nói, “nhưng tôi sẽ rất cảm kích nếu cô cho tôi ít phút để nghĩ thấu đáo.” Anh ngừng lại trong một phần mười giây. “Được, tôi sẽ gán thêm cả cái đó nữa.”
Frankie phì cười, lắc đầu. “Không thể nào từ chối anh được.”
“Mới vài phút trước cô làm điều đó rất tốt còn gì.”
Frankie đẩy cửa bếp, ra hiệu cho anh đi ra trước. “Tôi sẽ gặp anh ở văn phòng nhà đất trong nửa giờ nữa.”