Bạn đang đọc Những cô em gái – Chương 4
Chương 4
Tôi ghé chơi nhà Minh Hoa đến lần thứ mười thì gặp một vị khách lạ.
Sau khi giới thiệu tôi, Minh Hoa quay sang con nhỏ ngồi cạnh:
– Đây là Quyên, học chung lớp với Minh Hoa.
Nhỏ Quyên xinh xắn lạ lùng, xinh đến mức thoạt trông thấy nó bỗng dưng tôi đâm bối rối. Tóc nó dài không thua gì tóc Đinh Lăng. Da trắng như trứng gà bóc, và đôi mắt đen láy như những hạt nhãn trong vườn nhà ông tôi.
Nghe Minh Hoa giới thiệu, hai hạt nhãn chớp chớp nhìn tôi.
– Chào anh! – Nhỏ Quyên e lệ mỉm cười.
Khi nó cười, tôi nhìn thấy lúm đồng tiền trên má nó. Và tôi ấp úng:
– Chào Quyên.
Tôi chỉ nói được một câu ngắn rồi ngồi thừ ra, mặc Minh Hoa và nhỏ Quyên trò chuyện với nhau.
Tôi mới quen biết Minh Hoa đây thôi. Nhưng vừa gặp nó lần đầu tiên, tôi đã thấy ngay sự gần gũi. Tôi chuyện trò với Minh Hoa vui vẻ và thân mật như với một người bạn cũ.
Với nhỏ Quyên mọi chuyện không như thế. Tôi ngạc nhiên nhận ra sự lúng túng của mình. Tôi hết đặt hai tay lên đùi lại gác lên thành ghế, thậm chí có lúc tôi nhét cả vào trong túi quần, vẫn thấy chúng như thừa ra.
Thỉnh thoảng nhỏ Quyên quay sang hỏi chuyện tôi, và những câu trả lời ngượng nghịu của tôi bao giờ cũng kèm theo một tiếng ho.
Đó là những tiếng ho che giấu sự bối rối, tôi biết thế và tôi không cắt nghĩa được tâm trạng kỳ lạ của mình. Chắc chắn tôi không phải lòng nhỏ Quyên. Trái tim của tôi đã có chủ, mặc dù cho đến nay tôi vẫn chưa có diễm phúc được thấy mặt chủ nhân của nó.
Nhưng không hiểu sao ngồi trước nhỏ Quyên tôi trở nên rụt rè quá mức. Khi nó đưa tay vén tóc, những ngón tay trắng muốt, thuôn dài của nó khiến tim tôi bất giác đập mạnh. Phải chăng đó là cảm xúc của một tâm hồn nghệ sĩ trước cái đẹp? Rimbaud ngày xưa khi đối diện với các giai nhân cỡ nhỏ Quyên chắc cũng đầu váng mắt hoa như tôi?
Tối đó, tôi ngồi trên vỉa hè đường Nguyễn Du lâu hơn thường lệ.
Bản sonate “Au claire de lune” vẳng ra từ ô cửa sổ trên cao dìu tôi vào cõi mộng. Tôi nhìn thấy những ánh trăng đang dát bạc lòng tôi dù trời cuối tháng tối thui.
Chìm đắm vào thế giới âm thanh của nàng Stéphanette, trong một thoáng tôi quên phắt nàng Đinh Lăng tóc dài che mặt, quên cả nhỏ Quyên kiều diễm. Tâm hồn tôi lúc này tràn ngập một nỗi dịu dàng phiền muộn. Tôi biết tôi không thể sống thiếu tiếng đàn của nàng Stéphanette. Mặc dù tiếng đàn nửa như hữu ý nửa như vô tình kia vừa an ủi trái tim lạnh lẽo của tôi lại vừa khiến tôi nhận rõ hơn bao giờ hết sự lẻ loi của mình trên phố vắng.
Ngồi bệt trên vỉa hè hằng giờ, tôi thôi làm Rimbaud vĩ đại. Tôi trở về thân phận nhỏ nhoi của một chàng chăn cừu, rụt đầu trong cổ áo vì lạnh, và vì thất vọng. Cho đến hôm nay bàn tay ngọc ngà của nàng Stéphanette vẫn chưa một lần vén rèm và đôi mắt chắc là rất tình tứ của nàng vẫn chưa một lần nhìn xuống.
Chỉ có tôi:
Trời đất rộng sao đường đời quá hẹp
Lối đi nào để đến giấc mơ xanh?
Tôi là chàng chăn cừu cô đơn lang thang trên đồng cỏ
Dẫu chết đi, tình ái lại sinh thành…
Đoạn cuối của bài thơ “Giấc mơ của chàng chăn cừu” vang lên thì thầm trong đầu tôi như một lời than ngậm ngùi, thống thiết.
o O o
Tôi làm thơ cho nàng Đinh Lăng một phần là do khoai khoái khi biết nàng ái mộ tài thơ của tôi, nhưng phần chính là do nể lời thằng Đông Anh. Một đứa đã thành khẩn mời mình về nhà, trân trọng giới thiệu mình với ba mẹ nó, toàn nói tốt về mình với em gái nó thì mình không thể từ chối khi nó nhờ mình một chuyện nhỏ nhặt như vậy.
Chứ tôi hoàn toàn không có ý định tán tỉnh nàng Đinh Lăng. Tôi làm thơ cho nàng Đinh Lăng, nhưng tâm sự trong bài là tâm sự dành cho nàng Stéphanette.
Đó chỉ là bài thơ “đền ơn đáp nghĩa”. Khi thằng Đông Anh đem bài thơ về nhà giúi vào tay em gái nó và em gái nó toét miệng cười hoan hỉ, tức là xem như tôi đã trả ơn xong.
Tôi nghĩ đơn giản như vậy. Và tôi đinh ninh ngoài anh em thằng Đông Anh ra, sẽ không có thêm một ai biết chuyện tôi mới gặp em gái nó lần đầu mà đã vội ca cẩm “Tôi là kẻ ngu ngơ bị tình yêu đánh lưới” như một tên đa tình hạng bét.
Nào ngờ mấy hôm sau, tôi vừa đút đầu vô lớp, thằng Hồng Hà đã chạy lại bá vai tôi, gật gù:
– Mày… mày đúng là thi sĩ.
Tôi tưởng Hồng Hà bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với một nhà thơ lớn, liền hí hửng:
– Thằng Đông Anh cũng bảo tao như vậy.
Hồng Hà tiếp tục cảm khái:
– Chỉ… chỉ thi sĩ mới đa… đa tình thế thôi!
Câu nói thứ hai của thằng cà lăm này làm tôi chột dạ:
– Sao mày lại nói thế?
Hồng Hà tủm tỉm:
– Chứ… chứ không phải vừa gặp mặt em gái thằng Đông Anh, mày… mày đã thương sao?
– Trời đất! – Tôi kêu lên sửng sốt – Ai nói mày vậy?
– Thằng… thằng Đông Anh nói chứ ai. Nó còn bảo mày làm thơ tặng cho em gái nó nữa.
Lúc này sét nổ bên tai cũng không làm tôi choáng váng đến thế. Hóa ra thằng Đông Anh hại bạn kia đã tiết lộ chuyện này ra ngoài.
– Không… không có chuyện… chuyện đó đâu! – Tôi ấp úng nói, còn cà lăm hơn cả Hồng Hà.
– Mày đừng chối! – Tiếng thằng Bội vang lên bên tai cắt đứt lời thanh minh của tôi – Thằng Đông Anh đem bài thơ mày làm cho nhỏ Đinh Lăng vào lớp khoe nhặng, ai mà chẳng biết.
Rồi không để tôi kịp phản ứng, nó ra rả đọc:
– Tôi là kẻ ngu ngơ bị tình yêu đánh lưới
Những sợi tóc nào đan kín giấc mơ tôi?
Cũng như Bội, thằng Minh Khôi tiến sát sau lưng tôi lúc nào không hay. Bội mới đọc hai câu, Minh Khôi đã nhanh nhẩu tiếp:
– Tôi đã gặp hàng ngàn gương mặt
Chiêm bao sao chỉ một người?
Trong khi tôi ngượng đỏ mặt thì Minh Khôi giơ ngón tay cái lên, khen:
– Mày làm thơ hay lắm. Hôm nào mày làm tặng em gái tao một bài nhé.
Sợ tôi từ chối, nó lật đật quảng cáo:
– Em gái tao còn đẹp hơn em thằng Đông Anh gấp tỉ lần. Gặp mặt là mày mê tít liền.
Thằng Bội sợ mất phần, liền vọt miệng:
– Em gái tao nữa. Em gái tao là hoa khôi trường Sao Mai đó. Mày làm tặng nó một bài nghe Khoa!
Hết thằng Bội tới thằng Diên, rồi những đứa khác. Tụi nó xúm vào khoe em gái. Đứa nào cũng khẳng định em gái nó mới là người đẹp nhất trong những người đẹp và thi nhau “đặt hàng” tôi.
Trong một thoáng, tôi không còn nhớ mình là ai. Tôi tưởng tôi là trưởng ban giám khảo cuộc thi hoa hậu quốc tế. Tôi tưởng tôi là siêu sao trên vòm trời thi ca hoàn vũ, được hàng ngàn người đẹp vây quanh giành giật. Tôi là Rimbaud. Có khi còn hơn cả Rimbaud. Ừ, biết đâu!
Và tôi bắt đầu khệnh khạng:
– Tao không hứa.
– Hứa đi Khoa! – Bội năn nỉ – Em gái tao dễ thương lắm.
Tôi tiếp tục cao ngạo:
– Dễ thương cũng mặc. Thi ca là vương quốc của tâm hồn, không thể ban phát bừa bãi được. Muốn làm thơ phải có cảm xúc.
– Chiều nay mày ghé nhà tao chơi! – Bội kiên trì – Mày sẽ gặp em gái tao. Rồi mày sẽ có cảm xúc.
Minh Khôi hùa theo:
– Đúng rồi đó. Chiều nay mày ghé nhà tao đi.
Thằng Diên không chịu thua:
– Nhà tao nữa…
Tôi lạnh lùng cắt ngang:
– Tụi mày phải xếp hàng.
Chỉ tay vào Bội tôi phán:
– Chiều nay tao ghé nhà thằng Bội trước.
Rồi tôi xua tay, với cái cách một ông vua đuổi đám nịnh thần:
– Thôi, giải tán!
Từ nãy đến giờ, Hồng Hà đứng bên cạnh im lặng quan sát cảnh tụi Pascal quỵ lụy tôi với vẻ mặt hả hê.
Khi tụi kia ai về chỗ nấy, tôi quay sang Hồng Hà, ngạc nhiên:
– Sao mày không kêu tao làm thơ cho em gái mày?
Hồng Hà liếm môi:
– Tao… tao không có em gái.
Tôi tò mò:
– Nếu có, mày có kêu tao làm thơ tặng em mày không?
– Tao không biết.
Hồng Hà bối rối đáp.
Tôi gật gù, hào hiệp:
– Nếu mày có em gái, tao sẽ làm thơ tặng em mày trước tiên.
Hồng Hà có vẻ cảm động trước sự ưu ái của nhà thơ lớn. Nó nói mà mặt buồn xo:
– Ừ, tiếc ghê!
Chiều đó, y hẹn, tôi đến nhà Bội. Sở dĩ tôi chọn đến nhà thằng Bội trước, bởi vì tôi muốn biết hoa khôi trường Sao Mai xinh đẹp cỡ nào.
Hóa ra em gái thằng Bội chả xinh đẹp tẹo nào như nó quảng cáo.
Khi em gái nó bước ra bẽn lẽn chào tôi, tôi tò mò dán mắt vào mặt hoa khôi trường Sao Mai, tim đập rộn. Nhưng rồi tôi thất vọng ngay. Hoa khôi tóc ngắn củn cỡn, lại lưa thưa. Mặt hoa khôi trổ đầy mụn. Lúc hoa khôi cười e lệ, tôi thấy hoa khôi thiếu mất một cái răng cửa trên.
Bội chẳng thèm đếm xỉa gì đến tâm trạng não nề của tôi. Khi em gái nó quay gót, nó nhìn tôi, giọng thản nhiên:
– Em tao đó.
– Ừ.
Tôi “ừ” hờ hững.
Thằng Bội ngu như bò. Nó không nhận thấy giọng điệu chán chường của tôi, hí hửng “đặt hàng”:
– Mày làm tặng nó một bài thơ nhé.
Tôi lại “ừ”, gọn lỏn. Và khi tôi “ừ”, tôi biết tối nay về nhà tôi sẽ làm thơ tặng em gái Bội, dù nhan sắc của nàng chỉ bằng một phần mười nàng Đinh Lăng “tóc dài che mặt”, và bằng một phần hai mươi nhỏ Quyên tôi gặp ở nhà Minh Hoa hôm nọ.
Với tôi, làm thơ cho em thằng Đông Anh hay em thằng Bội, cho nàng Hằng Nga hay cho nàng Chung Vô Diệm cũng thế thôi. Bởi tâm sự trong những bài thơ đó vốn là tâm sự tôi dành cho nàng Stéphanette. Các cô em gái của bạn tôi chỉ là cái cớ để tôi gửi gắm tình cảm cho người con gái khiến tôi phải bồn chồn chôn chân trên vỉa hè đường Nguyễn Du đêm này qua đêm khác.
Có tài thánh thằng Bội mới hiểu được điều đó. Nên ngày hôm sau, nó vô cùng cảm động khi thấy tôi chìa bài thơ ra:
– Tặng em gái mày nè!
Bội trân trọng đón lấy tờ giấy tôi đưa. Rồi lập tức khoe ầm:
– Thằng Khoa làm thơ cho em gái tao nè!
Tụi bạn lập tức xúm đen xúm đỏ quanh Bội.
Thằng Diên giật tờ giấy, ngâm nga:
– Áo trắng ai về qua ngõ xa
Hay làn sương mỏng sắp trôi qua
Trái tim em đập ngoài xa vắng
Sao trái tình tôi rụng trước nhà?
Nó giơ ngón cái lên:
– Tuyệt cú mèo!
Rồi thấy chỉ khen suông thì phí quá, nó thực tế hơn:
– Chiều nay mày đến nhà tao nhé Khoa! Tao sẽ nói em gái tao làm bánh xèo đãi mày.
o O o
Một năm học kéo dài chín tháng. Nhưng mới tới tháng thứ ba, thầy Xuân Thu đã hết muốn dạy học trò.
Thầy nghiêm trang nói với chúng tôi:
– Thầy không còn gì để dạy các em nữa. Nếu học để làm bài trong kỳ thi tú tài, các em đã thừa sức rồi.
Thầy Xuân Thu không nói ngoa. Đề thi tú tài môn tiếng Pháp gồm một bài tập rédaction và một bài lecture kèm theo những câu hỏi. Học trò của thầy toàn dân trường Tây, các loại bài tập này tụi nó làm như máy. Hai đứa trường Việt là tôi và Hồng Hà lại là hai đứa luôn dẫn đầu lớp môn rédaction. Xét ra, thầy Xuân Thu không lo lắng là đúng. Tôi kém nhất môn nghe nói. Nhưng kỳ thi tú tài chỉ thi viết, không thi vấn đáp. Vì vậy điểm yếu của tôi không có cơ hội để bộc lộ.
Tất nhiên trước khi tuyên bố hùng hồn như vậy, thầy Xuân Thu đã lôi không biết ở đâu về nguyên một xấp đề thi tú tài môn tiếng Pháp dành cho ban C mấy năm trước, bắt cả lớp ngồi làm tại chỗ.
Chúng tôi è cổ suốt một tuần mới làm xong xấp đề thi của thầy.
Thầy đem xấp bài làm của chúng tôi về nhà, hai ngày sau đi tay không vô lớp, hào hứng phán:
– Tốt lắm! Không rớt một em nào. Đỗ hết. Thậm chí có vài em đỗ cao.
Dù sao, bảo thầy Xuân Thu không buồn dạy học trò cũng không đúng hẳn. Thầy vẫn dạy, nhưng chỉ dạy qua loa, đại khái. Thời gian còn lại, thầy toàn kể chuyện lúc thầy sống bên Tây.
Nhưng chuyện bên Tây kể hoài cũng hết, thầy Xuân Thu bèn nghĩ đến chuyện rủ học trò trốn học đi chơi.
Thú thật, trước đó và mãi mãi sau này, tôi chuyển rất nhiều trường, học với rất nhiều thầy cô khác nhau, vẫn không thấy ai tài tử bạt mạng như ông thầy dạy tiếng Pháp năm lớp mười hai của tôi.
Hôm đầu tiên nghe thầy bảo:
– Hôm nay thầy trò mình đi chơi!
Tôi tưởng thầy sẽ đĩnh đạc dẫn đầu cả lớp tiến ra theo cửa chính như những thầy cô các năm trước vẫn dẫn học trò đi dã ngoại.
Tôi đinh ninh như thế nên sau khi xếp tập, tôi liền ôm cặp hiên ngang bước ra cửa.
– Khoa, em đi đâu đó?
Tiếng thầy Xuân Thu gọi giật khiến tôi dừng bước, quay lại:
– Thưa thầy…
Thầy Xuân Thu khoát tay:
– Không đi ngả đó được. Thầy trò mình nhảy cửa sổ đi cổng sau.
Tôi chưa hết ngơ ngác, thầy đã quay sang thằng Bội, hạ lệnh:
– Bội, em nhảy ra trước, canh chừng giám thị hành lang.
Thầy Xuân Thu điều khiển học trò cũng oai vệ không kém một viên tướng đang chỉ huy trận đánh giữa chiến trường.
Được giao sứ mạng trong đại, Bội hào hứng nhét tập vào lưng quần, lồm cồm leo qua cửa sổ ra sân sau.
Thầy Xuân Thu ban “quân lệnh” thứ hai:
– Minh Khôi, Hồng Hà, hai em đóng chặt cửa chính và cửa sổ phía trước lại.
Minh Khôi và Hồng Hà nhanh chóng thi hành nhiệm vụ.
Cửa vừa đóng, cả thầy lẫn trò lập tức bu lại chỗ cửa sổ thằng Bội vừa leo qua, hồi hộp chờ nó ra hiệu.
Tôi đứng sau lưng thằng Diên, nhón chân nhìn ra ngoài, thấy thằng Bội đang ngồi thu lu sau gốc mẫu đơn trắng ở góc rào.
Nó nấp sau bụi cây, dáo dác đảo mắt tứ phía. Bội ngồi lâu thật lâu, có đến cả chục phút, mặt không ngừng nhăn nhó. Chắc giám thị hành lang vẫn còn lảng vảng quanh các dãy lớp gần đó nên thằng Bội mới mặt mày bí xị như thế.
Tôi đang nghĩ ngợi vẩn vơ thì Minh Khôi thúc mạnh vào lưng:
– Chuẩn bị leo ra đi!
Tôi giật mình ngước lên, thấy Bội đang đưa tay ngoắt ngoắt.
Thế là người trước kẻ sau, thầy trò tôi lục tục trèo lên bệ cửa, phóc ra ngoài.
Bác bảo vệ cổng sau thấy đoàn người tiến ra một cách đáng nghi liền chặn lại:
– Tụi mày đi đâu giờ này?
Thầy Xuân Thu vẹt học trò, đàng hoàng tiến lên:
– À, bác Tám! Bữa nay tôi dẫn học trò đi thực tập mà.
Bác Tám nhác thấy thầy Xuân Thu, liền lễ phép cúi đầu:
– Chào thầy! Vậy mà tôi tưởng các em đây trốn học đi chơi!
Nói xong, bác móc xâu chìa khóa trong túi áo ra, loay hoay mở cổng.
– Cảm ơn bác!
Thầy Xuân Thu nói, và ung dung dẫn học trò tiến qua cánh cổng mở hé.
Rồi như sực nhớ ra điều gì, đi vài ba bước, thầy liền quay lại:
– À, bác Tám này! Sắp tới, thầy trò tôi đi thực tập thường xuyên lắm đấy.
Thầy Xuân Thu nói xa xôi, nhưng bác bảo vệ hiểu ngay:
– Dạ tôi biết rồi, thưa thầy. Tôi sẽ để cổng cho thầy và các em qua.
Bác Tám bảo “biết rồi” nhưng tôi ngờ là bác chẳng biết gì cả. Vì khi miệng bác trả lời sốt sắng như vậy, tôi vẫn thấy mặt bác nghệt ra đến tội. Chắc từ ngày giữ chân bảo vệ của nhà trường đến nay, chưa bao giờ bác thấy một ông thầy dẫn học trò chuồn ra cổng sau để đi thực tập như ông thầy dạy tiếng Pháp của tôi.
Lần trốn học đầu tiên, thầy Xuân Thu dẫn tụi tôi đi “thực tập” ở rạp xi nê. Tất nhiên là thầy bao toàn bộ tiền vé.
Thầy trò chui vô rạp Trưng Vương gần ngã năm Thái Bình Dương ngồi xem phim “Love story”, bộ phim đang nổi tiếng như cồn tại Mỹ, do Ryan ONeal và Ali Macgraw thủ vai. Phim hay tuyệt, dài ba tiếng đồng hồ nhưng xem không chán. Đến trưa trờ trưa trật, thầy trò mới bước ra khỏi rạp, miệng ai nấy đều không ngớt xuýt xoa.
Lần trốn học thứ hai, thầy Xuân Thu bao học trò ăn phở.
Lần thứ ba, thầy dẫn tụi tôi đi “thực tập” tại một quán nhậu.
Thầy kêu cả chục món ăn, cả chục lon Coca Cola, một chai whisky và một ly soda.
Thầy bảo:
– Các em uống nước ngọt thôi. Không nên tập tành rượu chè.
Tụi tôi không đứa nào phản đối. Bởi chẳng đứa nào biết uống rượu.
Trong khi thầy Xuân Thu ngồi nhâm nhi từng ngụm rượu thì tụi tôi thi nhau tấn công ồ ạt các đĩa thức ăn thơm phức.
Đến giữa bữa, xem chừng no nê, đám học trò bắt đầu quay sang thách nhau. Xem đứa nào uống được rượu.
Đầu tiên là thằng Minh Khôi. Nó bưng ly rượu thầy Xuân Thu vừa đặt xuống, đưa lên miệng nhắp một tợp. Rồi chùi mép, khề khà:
– Ngon ghê! Đố đứa nào làm được như tao!
Tụi tôi xanh mặt ngó nhau. Không đứa nào mở miệng. Vì không đứa nào có gan nốc rượu như Minh Khôi.
Thầy Xuân Thu không cản, chỉ nói:
– Hơn nhau chuyện học tập mới đáng kể, hơn nhau chuyện rượu chè đâu có gì hay ho!
Bất chấp lời bình luận sáng suốt của thầy Xuân Thu, thằng Minh Khôi đảo mắt một vòng, mặt nhơn nhơn:
– Tụi mày chịu thua rồi phải không?
Bị khiêu khích, Đông Anh nóng mặt. Nó cầm lên ly rượu:
– Tao uống.
Nó kề ly vào miệng. Nhìn bộ tịch hùng hổ của Đông Anh, tôi tưởng nó sẽ dốc trọn phần rượu trong ly vào cuống họng trong nháy mắt.
Nhưng hơi rượu bốc lên nồng quá, chiếc ly vừa chạm môi, thằng Đông Anh lập tức hắt xì hơi hai ba cái liền. Nó hoảng hồn đặt vội chiếc ly xuống, mặt đỏ tía:
– Tao chịu thôi!
Minh Khôi cười hô hố:
– Yếu mà ra gió!
Nó lướt mắt qua những đứa còn lại:
– Đứa nào thử sức?
Tấm gương của thằng Đông Anh khiến tụi tôi im thít.
Chờ cả buổi không thấy ai hó hé, Minh Khôi dán mắt vào mặt tôi:
– Mày đi Khoa!
Tôi lắc đầu.
Minh Khôi khích:
– Mày là Rimbaud, phải biết uống rượu. Xưa nay các nhà thơ đều làm bạn với men say. Nếu không có rượu, đã không có thiên tài Lý Bạch. Không có rượu, Nguyễn Bính đã không viết nổi câu “Người ơi, buồn lắm mà không khóc. Mà vẫn cười qua chén rượu đầy”…
Minh Khôi là một con cáo. Nó đánh ngay vào lòng tự tôn của nhà thơ lớn.
Do dự một thoáng, tôi khẽ liếc mắt về phía thầy Xuân Thu rồi rụt rè cầm lấy ly rượu.
Tôi bưng ly rượu lên nhưng không uống ngay. Những cái hắt xì hơi vừa rồi của thằng Đông Anh khiến tôi chột dạ.
Đang phân vân, tôi chợt nảy ra một sáng kiến. Tôi rót rượu vào lon Coca. Tôi nghĩ như vậy sẽ dễ uống hơn. Rượu hòa vào nước ngọt chắc chắn sẽ bớt mùi đi nhiều.
Nhưng khi tôi kề lon Coca vào môi, thầy Xuân Thu vội đưa tay chặn lại:
– Whisky pha Coca, nặng lắm đó!
Thầy Xuân Thu làm tôi nhụt nhuệ khí quá xá. Thốt nhiên tôi hết ham làm Lý Bạch. Lý Bạch say rượu nhoài ra khỏi thuyền vớt trăng dưới đáy sông mà chết. Tửu lượng ông ngang cỡ Lưu Linh mà còn thế, huống gì tôi. Tôi là thằng Khoa học trò tỉnh lẻ, từ bé đến lớn chưa nhúng môi vào rượu bao giờ.
Nhưng đúng vào lúc tôi định đặt lon Coca xuống và mở miệng nhận thua, thầy Xuân Thu bỗng nói:
– Nếu em chưa từng uống rượu bao giờ thì đừng uống!
Câu nói vô tình của thầy khiến tôi bỗng thay đổi ý định. Tự ái dồn dập, tôi không muốn đầu hàng thằng Minh Khôi nữa.
Tôi cầm lon Coca lên, hùng hồn:
– Không sao đâu, thầy!
Và tôi dốc ngược lon Coca vào miệng. Đúng như tôi nghĩ, whisky pha nước ngọt không đến nỗi khó uống.
Tôi nốc một hơi cạn queo, rồi hiên ngang dằn chiếc lon rỗng xuống bàn, dõng dạc:
– Có gì ghê gớm đâu! Tao uống hoài!
Tôi liếc mắt một vòng qua những gương mặt, hả hê khi thấy tụi bạn đứa nào đứa nấy tròn mắt thán phục.
Minh Khôi bật ngón tay cái:
– Ngon! Mày đúng là Lý Bạch của Việt Nam.
Hôm trước được Đông Anh tôn làm Rimbaud. Nay được Minh Khôi phong làm Lý Bạch, tôi sướng rơn, tưởng như đang ngồi trên chín tầng mây.
Nhưng Lý Bạch chỉ ngồi trên mây được khoảng mười phút. Tới phút thứ mười một, Lý Bạch dụi mắt xuống gầm bàn nôn thốc nôn tháo và qua phút thứ mười hai thì không còn biết trời trăng gì nữa.