Bạn đang đọc Những câu chuyện kỳ lạ của Darren Shan ( Tập 1: Gánh xiếc quái dị ) – Chương 4-08
CHƯƠNG BẢY
Đây là hai vé xem buổi diễn tối thứ bảy. Rất tốt, như vậy tôi có đủ thời gian để thuyết phục ba má và xin phép cho tôi được ngủ lại nhà Steve đêm thứ bảy.
Tôi sẽ không nói cho ba má biết về những màn trình diễn quái dị. Vì nếu ông bà biết, chắc chắn tôi sẽ không được phép đi. Tôi cảm thấy áy náy vì đã không nói sự thật, nhưng sẽ còn tồi tệ hơn, nếu tôi nói dối. Tốt nhất chỉ còn cách câm miệng.
Thứ bảy sao mà lâu đến thế. Tôi kiếm chuyện làm suốt cho thời gian qua mau, nhưng tôi vẫn không ngừng nghĩ tới Gánh Xiếc Quái Dị. Tôi bồn chồn, gắt gỏng cả ngày thứ bảy, vì thế má tôi đã mừng rỡ khi tới giờ tôi đến nhà Steve.
Annie biết tôi đi đâu, nó dặn tôi đem về cho nó một tấm hình, nhưng tôi cho nó biết, họ đã ghi rõ ràng trên vé: cấm chụp hình. Tôi lại không đủ tiền để mua cho nó một áo thun lưu niệm. Tuy nhiên, tôi hứa, nếu có thể, tôi sẽ đem về cho nó một huy hiệu hay một tấm poster, nhưng nó phải hứa không cho ba má biết, còn nếu ông bà biết, cũng không được nói ai cho.
Ba bỏ tôi xuống cửa nhà Steve lúc 6 giờ. Ông hỏi, tôi muốn ông đón vào mấy giờ sáng mai. Tôi bảo ông đón tôi vào buổi trưa cũng được.
Trước khi lái xe đi ba còn dặn:
– Đừng thức khuya xem phim kinh dị. Ba không muốn con về nhà, đêm ngủ cứ hét toáng lên vì ác mộng đâu.
– Ồ, ba. Các bạn lớp con đều xem phim kinh dị, có sao đâu.
– Nghe này, những phim cũ của Vicent Price hay những phim Ma-cà-rồng ít khiếp đảm hơn thì ba không cấm. Nhưng không được xem những phim quá rùng rợn bây giờ. Con hứa chứ?
– Con hứa.
– Thế mới là chàng trai đàng hoàng chứ. Ba đi đây.
Tôi chạy vội lại cửa bấm bốn hồi chuông. Đó là tín hiệu bí mật của Steve. Chắc nó đứng ngay bên trong, nên vừa nghe tín hiệu, nó mở ngay cửa, kéo tôi vào. Nó chỉ lên cầu thang, nghiêm trang nói như một chiến sĩ trong phim:
– Tới giờ xuất kích. Thấy ngọn đồi trước mặt không?
Tôi đứng nghiêm trả lời:
– Rõ, thưa thủ trưởng.
– Chúng ta phải chiếm được mục tiêu trước khi trời tối.
– Chúng ta sử dụng súng trường hay súng máy, thưa thủ trưởng?
– Điên à? Chúng ta không bao giờ vác theo súng máy trong vùng bùn lầy như thế này.
Nó hất đầu về tấm thảm lót sàn. Tôi đồng ý ngay:
– Rõ. Súng trường là đúng nhất.
– Và, nếu chúng ta thất bại, hãy để dành viên đạn cuối cùng cho cậu.
Chúng tôi thận trọng lò mò lên thang, “pằng pằng” bằng súng tưởng tượng và tiêu diệt những kẻ thù tưởng tượng. Trò trẻ, nhưng sướng tuyệt. Trên đường tiến quân, Steve bị mất một chân, tôi phải giúp nó leo tới “đỉnh đồi”. Nó cúi xuống cầu thang phía dưới, gào lên: “Các người có thể lấy chân ta, rất có thể sẽ lấy được mạng ta, nhưng không bao giờ chiếm được tổ quốc ta.”
Một tuyên ngôn thật hào hùng, kích động. Ít nhất cũng kích động được bà Leonard, má của nó. Bà hốt hoảng chạy ra khỏi phòng khách, xem chuyện gì mà khiếp thế. Thấy tôi, bà mỉm cười hỏi tôi có muốn uống gì không. Tôi cám ơn, không uống gì. Thằng Steve bảo nó cần trứng cá ca-vi-a và rượu sâm-banh mừng chiến thắng. Nhưng kiểu cách ăn nói của nó không làm tôi cười nổi.
Steve không hợp với mẹ. Bố nó bỏ đi từ ngày nó còn nhỏ xíu. Chỉ có hai mẹ con sống cùng nhau, và luôn luôn cãi nhau rầm rầm. Tôi không hiểu lý do và tôi cũng không bao giờ hỏi Steve. Có những chuyện con trai không nên bàn tán, tâm sự với nhau. Bọn con gái tỉ tê “buôn dưa” mấy vụ này tài lắm. Bạn biết rồi đó. Còn con trai chỉ có thể bàn cãi ì xèo về máy tính, bóng đá, đánh nhau thôi.
Khi mẹ của Steve trở lại phòng khách, tôi thì thầm hỏi Steve:
– Tối nay chúng mình chuồn ra cách nào đây?
– Yên tâm. Tối nay bà ấy ra ngoài. Lúc trở về bà ây tưởng chúng mình đi ngủ rồi.
Nó thường gọi mẹ là “bà ấy” thay vì “má mình”. Tôi hỏi:
– Lỡ má cậu kiểm tra thì sao?
Nó cười, một nụ cười rất… độc ác:
– Tự tiện vào phòng tớ mà không thông báo trước à? Không dám đâu.
Tôi không ưa lối nói như thế của nó. Nhưng tôi cũng không muốn làm nó nổi “cơn điên”. Tôi không muốn bất kỳ thứ gì làm hỏng buổi đi xem tối nay.
Steve lôi ra cả đống truyện tranh, những truyện chỉ dành cho người lớn. Ba má tôi sẽ la đến vỡ nhà nếu ông bà thấy tôi đọc loại truyện này.
Nó còn có nhiều chồng sách, báo cũ. Toàn sách báo về ma, quái vật, ma-cà-rồng, ma sói…
Đọc xong một cuốn về ma-cà-rồng, tôi hỏi:
– Gậy dùng để đâm ma-cà-rồng phải làm bằng gỗ hả?
– Không. Có thể bằng sắt, ngà voi, kể cả bằng nhựa, điều quan trọng là phải đâm xuyên qua tim nó.
– Như thế là đủ giết được ma-cà-rồng?
– Chính xác.
– Nhưng cậu bảo người ta phải cắt đầu nó, ngâm trong tỏi, rồi ném xuống sông cơ mà.
– Có sách nói vậy, nhưng đó là cách để tiêu diệt cả hồn và xác nó, để nó không thể làm ma hiện lên được nữa.
– Có đúng là ma-cà-rồng lại hiện hồn lên được nữa không?
– Chắc là không. Nhưng để biết rõ hơn, cậu phải có thời gian và có dịp được cắt một cái đầu của chúng. Cậu không muốn được gặp ma-cà-rồng, phải không?
Tôi rùng mình:
– Ồ, không. Thế còn ma sói? Người ta cần đạn bằng bạc để giết chúng không?
– Mình không nghĩ thế, cứ nã cả đống đạn thường cũng đủ quá rồi.
Steve biết tất cả những gì cần biết về chuyện rùng rợn. Nó đọc tất cả các loại sách kinh dị. Nó bảo mỗi truyện dù đa số là bịa đặt, nhưng ít nhất vẫn có một phần sự thật. Tôi hỏi:
– Cậu có nghĩ, Người-sói trong gánh xiếc này là… ma sói không?
– Không đâu. Theo những gì mình đã đọc, Người-sói trong rạp xiếc chỉ là người có đầy lông. Cũng có một số họ giống thú hơn người, ăn gà và đồ ăn sống, nhưng họ không phải là ma sói. Đưa ma sói ra trình diễn nguy hiểm lắm, vì nếu gặp ngày trăng tròn, chúng hóa thành sói ngay.
– Khiếp nhỉ. Thế còn cậu bé rắn?
Steve phì cười:
– Này, hỏi gì mà tới tấp vậy. Ngày xưa, những màn trình diễn như thế này rùng rợn lắm. Chủ gánh xiếc bỏ đói những quái nhân, nhốt họ trong chuồng có khóa, đối xử với họ còn tệ hại hơn loài vật. Nhưng mình không biết gánh xiếc này như thế nào. Có thể là những quái nhân thật, cũng có thể chỉ là những người bình thường ngụy trang thôi.
Buổi trình diễn được tổ chức tại gần khu ngoại ô. Để kịp giờ, chúng tôi phải đi ngay sau lúc 9 giờ. Một phần vì không đủ tiền đi taxi, một phần chúng tôi muốn đi bộ để có thời gian nói toàn chuyện ma cho đã. Thường thường, vì đọc quá nhiều, Steve lẫn lộn tên nhân vật này với nhân vật khác, đoạn kết lại cho lên đầu. Nhưng tối nay thì không, nó kể trơn tru hấp dẫn, còn siêu hơn ông vua truyện kinh dị Stephen King.
Suýt bị lỡ giờ, vì đường xa hơn chúng tôi tưởng. Gần nửa cây số cuối, hai đứa co giò chạy, thở hồng hộc khi tới nơi.
Đó là một rạp hát cũ kỹ, đã có thời thường được dùng để chiếu phim. Trước kia, tôi đã qua đây vài lần. Steve đã từng cho tôi biết, rạp phải đóng cửa vì có một đứa trẻ bị chết trong tai nạn ngã từ ban công xuống. Nó còn bảo cái rạp này bị ma ám. Hỏi ba tôi, ông bảo: “Toàn chuyện bố láo, nhảm nhí.” Khó thật, đôi khi chẳng biết tin ông già mình hay nên tin thằng bạn thân nhất nữa.
Không bảng tên ngoài cửa rạp, không xe cộ và chẳng có ai xếp hàng mua vé. Sau khi khom người thở dốc, chúng tôi đứng nhìn ngôi nhà đá xám cao lớn, tối tăm. Nhiều cửa sổ đã rụng rời, còn cửa ra vào trông cứ như một cái mồm khổng lồ há toang hoác.
Tôi ráng tỏ ra không hề sợ hãi, hỏi Steve:
– Ê, mày tin chắc không lầm chỗ chứ?
Nó đọc kỹ lại cái vé:
– Đúng chỗ này mà.
– Hay cảnh sát đã khám phá ra, hoặc tối nay không diễn?
– Có thể.
– Chúng mình phải làm gì bây giờ?
Nó cũng bối rối nhìn lại tôi trước khi trả lời:
– Tao nghĩ chúng mình cứ vào thử, chẳng lẽ đi xa thế mà không biết chắc chuyện gì xảy ra à?
– Đồng ý.
Tuy nói vậy, nhưng tôi nhìn ngôi nhà thấy khiếp quá, giống như một ngôi nhà ma trong những phim kinh dị, ai vào là không thể nào ra được nữa. Tôi ngập ngừng hỏi Steve:
– Sợ không?
– Cóc sợ.
Hai đứa ngó nhau cười. Biết tỏng là cả hai đều sợ vãi linh hồn, nhưng dù sao chúng tôi có hai đứa cơ mà. Người ta không đến nỗi quá sợ hãi khi không phải ở một mình. Bạn đồng ý chứ?
Steve cố nói đùa:
– Mời vào.
– Xin mời.
Chúng tôi cùng hít mạnh một hơi dài, nắm chặt tay nhau, tiến lên những bực thềm (có chín bực thềm đá long lở dẫn lên cửa, bực nào cũng phủ đầy rêu). Chúng tôi bước vào rạp.
CHƯƠNG TÁM
Chúng tôi thấy mình đang đứng trong một hành lang dài, tối tăm, lạnh lẽo. Tôi đã mặc áo jacket mà vẫn thấy lạnh run người. Tôi hỏi Steve:
– Sao ở ngoài ấm, trong này lạnh khiếp vậy?
– Mấy ngôi nhà cũ đều thế cả.
Tôi mừng vì cuối hành lang có một ngọn đèn, càng vào sâu, lối đi càng sáng dần. Nếu hành lang này tối om, chắc tôi sợ đến không bước nổi.
Vách tường, trần nhà loang lổ, lỗ chỗ. Giữa trưa vào nơi này cũng phải dựng tóc gáy, huống gì bây giờ đã là mười giờ đêm.
Steve đứng lại, nói:
– Có một cái cửa này.
Nó mới mở hé, cánh cửa đã rên lên ầm ầm như tiếng nắp quan tài bị nạy ra. Tôi suýt ù té chạy.
Nhưng thằng Steve chẳng hề sợ hãi gì, nó thò đầu vào trong. Sau vài giây quen với bóng tôi, nó quay lại bảo:
– Có một cầu thang lên ban công.
– Chỗ thằng nhỏ ngã xuống hả?
– Ừa.
– Mình lên không?
– Thôi. Trên đó tối thui, chẳng thấy có đèn đóm gì. Thử tìm xem còn lối vào nào nữa không…
– Các em cần giúp gì không?
Tiếng nói ngay phía sau, làm hai chúng tôi giật nẩy mình quay ngoắt lại. Người đàn ông cao nhất thế giới đứng nhìn xuống như chúng tôi là hai con chuột nhắt. Ông ta cao gần đụng trần nhà, hai bàn tay xương xẩu to đùng và hai mắt đen thui như hai cục than được gắn trên mặt. Miệng ông không hề mấp máy, tiếng nói ồ ề, khản đặc vẫn phát ra. Chắc chắn ông ta có biệt tài phát âm bằng bụng.
– Đêm hôm khuya khoắt rồi mà trẻ con vẫn lang thang thế này sao?
Steve vừa liếm môi vừa ngập ngừng nói:
– Chúng cháu đi… đi xem xiếc kinh dị.
– Hả? Các em có vé không?
Steve đưa ra cái vé. Ông ta lẩm bẩm:
– Tốt lắm. Còn em, Darren, em cũng có vé chứ?
Tôi thọc tay vào túi, bỗng sững sờ: Trời đất! Ông ta biết tên mình!
Tôi liếc qua Steve, hai chân cậu ta run bần bật.
Ông ta mỉm cười. Hàm răng đen, cái còn cái mất. Lưỡi vàng khè.
– Ta tên là ông Cao. Ta là chủ nhân gánh xiếc quái dị này.
Steve hỏi:
– Tại sao ông biết tên bạn cháu?
Ông Cao cười sằng sặc, khom mình, mắt sát mắt Steve:
– Ta còn biết nhiều hơn thế. Ta biết cả tên em. Ta biết em ở đâu. Ta biết em không thích cha mẹ.
Ông ta lùi lại một bước, quay sang tôi. Hơi thở của ông ta bốc mùi hôi tới tận trời.
– Ta biết em không nói cho cha mẹ biết là em tới đây. Ta biết em đã thắng để có vé bằng cách nào.
– Cách nào?
Không biết có phải vì răng tôi va vào nhau lộp cộp, làm ông ta không nghe được câu hỏi, hay vì không muốn trả lời, ông ta quay lưng lại, vừa bước đi vừa nói:
– Lẹ lên mới kịp. Buổi diễn sắp bắt đầu rồi.
Ông ta không sải bước dài như tôi tưởng. Nhưng ông ta vừa rẽ khuất vào cuối hành lang trước chúng tôi vài bước, khi rẽ theo ông, chúng tôi đã thấy ông ta ngồi sau một cái bàn dài phủ vải đen, đầu đội một cái mũ đỏ và tay đeo găng đàng hoàng. Một tay đưa ra, ông nói:
– Vui lòng cho soát vé.
Cầm hai cái vé ông ta bỏ tõm vào mồm, nhóp nhép nhai rồi… nuốt.
– Tốt rồi. Bây giờ hai em có thể vào đi. Đúng qui định, chúng tôi không tiếp đón trẻ em, nhưng thấy hai cậu đàng hoàng, rõ là hai chàng trẻ tuổi dũng cảm. Nên… coi như đây là một ngoại lệ.
Cuối sảnh có một tấm màn xanh che ngang lối đi. Chúng tôi ngập ngừng ngó nhau. Steve hỏi:
– Chúng cháu đi thẳng qua màn ạ?
– Tất nhiên.
– Có người dẫn lối không?
Ông ta cười lớn:
– Nếu cần phải có người nắm tay đưa vào, sao không đi cùng bà vú?
Tôi giận đến quên sợ, đi thẳng lại vén tấm màn, làm thằng Steve cũng phải ngạc nhiên.
Tôi không biết tấm màn làm bằng gì, nhưng nó nghe hẫng như tơ nhện. Tôi đứng trong một hành lang ngắn, trước mặt tôi vài thước còn có một tấm màn xanh nữa. Steve tiến đến bên tôi. Chúng tôi nghe tiếng ồn ào phía sau bức màn.
– Mày thấy có an toàn không?
– Tao thấy tiến tới coi bộ còn an toàn hơn là rút lui. Lão Cao chắc sẽ không thú vị gì nếu chúng mình quay lại.
– Mày thấy chuyện ông ta biết tất cả về chúng mình là sao?
– Chắc lão biết xem bói.
– Ông ta làm tao chết khiếp được.
– Tao thì hơn gì mày.
Chúng tôi tiến bước.
Đó là một căn phòng rộng. Ghế dựa đã dẹp bỏ từ lâu. Nhưng những băng ghế dài đã được kê thay ghế. Chúng tôi dáo dác tìm ghế trống. Cả khán phòng gần như chật cứng. Nhưng chỉ hai chúng tôi là trẻ con. Mọi người lom lom nhìn hai đứa và tiếng rì rầm bàn tán nổi lên.
Len lỏi đến hai ghế trống, qua những đôi chân và tiếng càu nhàu. Đó là một chỗ ngồi rất tốt: ngay chính giữa và không có ai quá cao ngồi phía trước. Chúng tôi nhìn lên sân khấu rất rõ. Tôi hỏi Steve:
– Ở đây có bán bắp rang không nhỉ?
– Vớ vẩn. Cậu muốn mua bắp rang trong rạp xiếc quái dị à? May ra có bán trứng rắn, mắt thằn lằn. Tớ cá là không có bắp rang đâu.
Khán giả quanh tôi đủ mọi thành phần: từ y phục rất hợp thời trang, tới quần áo lao động. Từ già khú khụ tới những người chỉ hơn tôi và Steve mấy tuổi. Có những người cười nói oang oang với bạn bè như đang xem bóng đá. Nhưng lại có những người ngồi im thin thít, lo ngại nhìn quanh.
Tuy nhiên có một điều rất giống nhau, tất cả đều tỏ vẻ tò mò háo hức, chờ đợi những gì đặc biệt, chưa từng được thấy bao giờ.
Giữa lúc đó, một hồi kèn rộn rã vang lên. Mọi người đều im bặt. Tiếng kèn kéo dài, mỗi lúc một lớn hơn. Các ngọn đèn lần lượt tắt. Chung quanh tôi tối om om. Tôi bắt đầu thấy sợ, nhưng đã quá muộn để tháo lui.
Thình lình tiếng kèn tắt lịm. Im lặng như tờ. Tai tôi ù ù mất mấy giây, làm tôi chóng mặt. Cố bình tĩnh, tôi ngồi thẳng lại.
Một ngọn đèn xanh tỏa sáng trên sân khấu. Mấy giây kỳ quái trôi qua, vì sân khấu hoàn toàn im ắng, không có gì xảy ra. Rồi hai người đàn ông xuất hiện, kéo theo một cái lồng có bánh xe và được phủ kín bằng một thứ, trông giống như một tấm thảm bằng da gấu. Ra tới giữa sân khấu, hai người đàn ông ngừng lại, buông sợi dây kéo, rồi chạy vào sau cánh gà.
Mấy giây sau, tiếng kèn rúc lên ba hồi ngắn. Tấm thảm bay bổng khỏi cái lồng, để lộ ra quái nhân đầu tiên.
Ngay lúc đó tiếng la thét bắt đầu vang lên.