Những Bí Ẩn Của Sa Mạc

Chương 22


Đọc truyện Những Bí Ẩn Của Sa Mạc – Chương 22

Nó ở đó, Mike Martin nói hai giờ sau đó.

– Đâu cơ? đại tá Beatty hỏi với sự tò mò lộ rõ.

– Ở đâu đó

Trong phòng họp ở dưới hành lang từ Hố Đen, Martin đang đứng dựa vào bàn nghiên cứu một bức ảnh về phần đất rộng hơn ở Jeban và dãy Hamreen. Nó chỉ ra một diện tích năm dặm vuông. Anh chỉ vào với đầu ngón tay.

– Những ngôi làng đó, ba ngôi làng – ở đây, ở đây, và ở đây.

– Có chuyện gì với chúng nào?

– Chúng là giả mạo đấy: Được làm thật tuyệt, chúng là những bản sao hoàn hảo của các ngôi làng của nông dân miền núi, nhưng chúng đầy lính gác đấy.

Đại tá Beatty nhìn chằm chằm vào ba ngôi làng. Một cái ở thung lũng cách khoảng giữa ba hòn núi chỉ nửa dặm nằm chính trung tâm khu vực. Hai làng khác ở ngoài rìa xa hơn.

Không ngôi làng nào đủ lớn để có được một nhà thờ; thực tế, chúng quá nhỏ, chỉ hơn một thôn mà thôi. Mỗi cái có kho thóc chính và ở trung tâm để tích trữ cho mùa đông và thức ăn, và những kho nhỏ hơn cho cừu và dê. Khoảng chừng hơn chục túp lều đơn giản tạo nên phần còn lại, những ngôi nhà xây bằng gạch và bùn với thạch hoặc mái tôn theo dạng có thể được nhìn thấy khắp nơi ở vùng núi Trung Đông. Vào mùa hè có thể có những đồng ruộng nhỏ hoặc những ruộng gần đó, nhưng mùa đông thì không.

Cuộc sống vùng núi Iraq rất khắc nghiệt vào mùa đông, với những cơn mưa lạnh giá và mây mù. Khái niệm cho rằng lúc nào ở Trung Đông cũng nóng ấm là sự sai lầm chung xưa nay.

– Tốt thôi, thiếu tá, anh biết nhiều về Iraq. Tôi thì không.

– Thế tại sao chúng là giả mạo?

– Hệ thống trợ giúp cho cuộc sống, Martin nói. Những ngôi làng quá nhỏ, quá nhiều nông dân, quá nhiều dê và cừu. Không đủ thức ăn. Họ sẽ chết đói.

– Mẹ nó chứ, Beatty nổi điên lên. Đơn giản quá.

– Cũng có thể, nhưng nó cho thấy Jericho đã không nói dối, hoặc nhầm lẫn lần nữa. Nếu chúng đã làm vậy, thì tức là chúng đang giấu cái gì đó.

Đại tá Craig, sĩ quan chỉ huy của đội SAS số 22, đã đến chỗ họ từ căn cứ của mình. Anh đang thì thầm nói chuyện với Steve Laing. Bây giờ anh mới tham gia vào câu chuyện.

– Anh nhận ra gì thế, Mike?

– Ở đây đấy, Bruce ạ. Ai đó có khả năng nhìn thấy – từ cách 1000 yard bằng ống nhòm.

– Brass muốn đưa một đội vào đó để đánh dấu. Anh thua rồi.

– Trời ơi, thưa ngài. Những ngọn đồi đó đầy các đội canh phòng. Ông có thể thấy không có đường sá gì cả.

– Thế thì sao? Có thể tránh các đội canh phòng chứ.

– Và thế nếu rơi vào một đội thì sao? Không có ai nói được tiếng Arập như tôi, và ông cũng biết điều đó. Ngoài ra, đó là một HALO. Máy bay trực thăng cũng không làm được gì đâu.

– Anh đã làm mọi thứ anh cần, cho đến giờ tôi có thể nói thế.

– Thật ngớ ngẩn. Tôi chưa từng thấy hành động nào như thế cả. Tôi chán ngán cái việc này rồi. Để tôi làm. Những người khác đã ở sa mạc hàng tuần, trong khi tôi phải đi chăm sóc một khu vườn.

Đại tá Craig nhướng lông mày. Anh đã không hỏi Laing chính xác Martin đã làm gì – anh cũng không muốn nói đến dù là gì đi nữa – nhưng anh đã ngạc nhiên khi một trong những sĩ quan của mình lại phải đi làm người làm vườn.

– Thế thì quay về căn cứ đi. Chúng ta có thể lên kế hoạch tốt hơn ở đó. Nếu tôi có ý tưởng nào, anh có thể thực hiện.

Trước khi trời sáng, tướng Schwarzkopf đã đồng ý không có lựa chọn nào khác và cho sự chuẩn y của mình. Tại cái góc bí mật của căn cứ không quân Riyadh này là chỗ riêng dành cho người của SAS, Martin vạch phác thảo các ý tưởng của mình cho đại tá Craig và đã được chấp thuận để thực hiện.

Sự điều phối của việc lập kế hoạch có thể ở lại với đại tá Craig cho những người trên mặt đất và với tướng Glosson cho vụ tấn công bằng máy bay cuối cùng.

Buster Glosson đã uống cà phê buổi sáng với bạn mình và thượng cấp Chuck Horner.

– Không có ý tưởng nào khác cho đơn vị chúng ta sẽ dùng cho vụ này à? ông ta hỏi.

Tướng Horner nghĩ đến một sĩ quan nào đó hai tuần trước đã khuyên ông làm cái gì đó thật là dữ dội.

– Có chứ, ông nói. Hãy dành cho đội 336.

Mike Martin đã thuyết phục được đại tá Craig khi chỉ ra – một cách lôgic – rằng với phần lớn các lính SAS ở vùng Vịnh đã được sử dụng ở Iraq, anh là sĩ quan cao cấp có khả năng làm được, mà anh là chỉ huy đội B, đội đã từng làm những chiến dịch trong sa mạc dưới sự chỉ huy của người dưới quyền anh, và chỉ một mình anh nói được tiếng Arập trôi chảy.

Nhưng lý luận vững chắc của anh là anh từng được huấn luyện và có kinh nghiệm nhảy dù tự do. Chỉ một cách để vào được vùng núi Iraq một cách bí mật là đi đến vùng HALO – mở dù thật thấp – có nghĩa là ra ngoài máy bay ở độ cao 25.000 fít và rơi tự do và chỉ mở dù khi còn cách mặt đất 3.500 fít. Đó không phải công việc cho những tay mơ.

Việc lập kế hoạch toàn bộ phi vụ phải mất đến một tuần lễ, nhưng không còn thời gian nữa. Giải pháp duy nhất là với nhiều kiểu nhảy dù, đi bộ qua vùng đất, và lựa chọn một vị trí lý tưởng để lên kế hoạch. Với cái đó, Martin cần người anh có thể tin cậy cả cuộc đời mình, đó chính xác là cái anh sẽ làm dù thế nào đi nữa.

Quay trở lại cái góc dành cho SAS ở căn cứ không quân Riyadh, câu hỏi dầu tiên đại tá Craig dành cho anh là:

– Tôi có thể lấy ai?

Danh sách rất ngắn; chỉ là những người từng đi chiến dịch trong sa mạc.

Khi người thượng sĩ có tên trong danh sách, một cái tên nảy ra trong anh.

– Peter Stephenson – chắc chắn.

– Anh may mắn đấy, Craig nói. Anh ta vừa quay trở lại qua biên giới một tuần trước. Đang nghỉ ngơi. Anh ta được đấy

Martin đã biết thượng sĩ Stephenson khi viên trung sĩ còn là một viên đội và anh là đại uý lần đầu tiên đi trong sư đoàn với tư cách một chỉ huy nhóm. Cũng giống như bản thân anh, Stephenson có thể nhảy dù tự do và là một thành viên lính dù của đội anh ta.

– Anh ta tốt đấy, Craig nới. chỉ một cái tên khác. Một người quen đi núi nhé. Tôi cho là anh cần hai người.

Tên được chỉ định là hạ sĩ Ben Eastman.

– Tôi biết anh ta. Anh nói đúng đấy – tôi sẽ lấy anh ta. Ai nữa nào?

Lựa chọn cuối cùng là hạ sĩ Kevin North, từ một dội khác. Martin chưa từng bao giờ đi đánh trận với anh ta, nhưng North là một chuyên gia về núi và được người chỉ huy của anh khuyến khích nên sử dụng.

Có năm địa bàn lập kế hoạch mà anh phải tuần tự hoàn thành. Martin chia ra các nhiệm vụ trong đó anh chịu trách nhiệm chung.


Đầu tiên là lựa chọn máy bay để nhảy dù. Không do dự, Martin chọn chiếc Hercules C-130, máy nhảy thông thường SAS sử dụng, và ở đó đã có chín chiếc phục vụ ở vùng Vịnh. Chúng đều đóng ở gần sân bay quốc tế Vua Khaled. Thậm chí tin tốt hơn đến vào bữa sáng: ba trong số chúng đến từ đội số 47, đóng ở Lyneham ở Wiltshire, một đội đã có nhiều năm kinh nghiệm với các vụ nhảy dù của lính SAS.

Giữa những phi công của ba chiếc Hercules là một trung úy tên là Glyn Morris.

Qua cuộc chiến tranh vùng Vịnh, những chiếc máy bay vận chuyển Hercules đã là một phần trong chiến dịch chuyển hàng hoá đến được Riyadh ở các căn cứ bên ngoài của Không quân Hoàng gia ở Tabuq, Muharraq, Dhahran, và thậm chí Seeb ở Oman. Morris đã từng là người chuyên chở hoặc giám sát hàng hoá, nhưng nhiệm vụ chính thức của anh ở miền này là một PJI, hướng dẫn nhảy dù, và Martin đã từng trước đây nhảy dù dưới sự chỉ dẫn của anh ta.

Ngược hẳn với khái niệm mà Paras và SAS tìm kiếm ở sự nhảy dù của mình, mọi sự nhảy dù quân sự trong các lực lượng quân sự Anh quốc đều diễn ra dưới sự chỉ đạo của RAF, và mối quan hệ được dựa trên niềm tin lẫn nhau khi mà mỗi bên đều biết được chính xác đang làm gì. Người chỉ huy bay Ian Macfadyen, chỉ huy RAF Ở vùng Vịnh, đã ra lệnh cho những chiếc Hercules được chỉ định cho nhiệm vụ của SAS vào lúc nó quay trở về sau chuyến chở hàng từ Tabuq, và bắt đầu chuyển nó cho nhiệm vụ HALO được lên kế hoạch cho cùng đêm hôm đó.

Quan trọng nhất trong số các nhiệm vụ phối hợp là tạo ra một chỗ có ôxi trên sàn của chiếc máy bay chở hàng. Chủ yếu bay ở tầm thấp, chiếc cho đến lúc đó không bao giờ cần ô xi ở đằng sau để giữ cho những người ở trong sống được ở độ cao.

Trung uý phi công Morris không cần chỉ dẫn thêm về công việc anh sẽ làm, và anh dẫn đến một PJI thứ hai từ một chiếc Hercules khác, trung sĩ phi công Sammy Dawlish. Họ đã làm việc cả ngày trên chiếc Hercules và đã xong việc chuẩn bị vào lúc mặt trời xuống.

Ưu tiên thứ hai là chính những chiếc dù. Vào thời điểm đó, SAS chưa từng nhảy dù xuống Iraq – họ đã đến các sa mạc Iraq bằng xe cơ giới – nhưng trong những tuần trước khi chiến tranh thực sự nổ ra, các phi vụ tập luyện được tiến hành đều đặn. Tại căn cứ không quân có một bộ phận trang thiết bị được niêm phong và bảo vệ nghiêm mật, nơi SAS để dù của mình. Martin yêu cầu và được phép lấy tám dù chính và tám cái dự trữ, mặc dù anh và người của mình có thể chỉ cần mỗi người bốn chiếc. Trung sĩ Stephenson cũng được giao nhiệm vụ kiểm tra và đóng gói những cái dù đó trong ngày.

Những chiếc dù không dài hơn loại tròn dính với các đơn vị bay, nhưng với mẫu thiết kế mới hơn được gọi là “vuông”. Chúng không thật sự vuông vắn mà thật ra có hình thuôn với hai khay. Trong khi bay, không khí được trượt đi giữa hai khay đó, tạo ra một “cái cánh” tương tự với một phần giao với không khí, cho phép người nhảy dù tự do “bay” chuyến đó xuống như một người nhện, với sự cơ động và khả năng tác hoạt tốt hơn. Chúng là dạng vẫn thường được nhìn thấy trong những màn biểu diễn nhảy dù tự do.

Hai viên đội có nhiệm vụ xem xét và quản lý mọi thứ đồ đạc cần thiết còn lại. Chúng gồm bốn bộ quần áo, bốn túi ngủ lớn của Anh, các chai nước, mũ bảo hiểm, dây đeo, vũ khí, HVC viên đạm – có thể ăn ở mọi nơi – thuốc nổ, đồ dùng sơ cứu… danh sách rất dài. Mỗi người có thể mang theo được 80 pound trong những chiếc túi Bergen đó và có thể cần đến mỗi ounce trong số đó.

Những người sửa chữa và thợ máy làm việc với chiếc Hercules trong một hangar, chuẩn bị thật kỹ máy móc và quan tâm đến từng bộ phận một.

Chỉ huy đội bay đã chỉ định đội nhân viên giỏi nhất của mình mà trong số đó hoa tiêu sẽ đi theo đại tá Craig về Hố Đen để lựa chọn một vùng nhảy dù thích hợp, tức là DZ cực kỳ quan trọng.

Martin được sáu kỹ thuật viên giúp đỡ, bốn người Mỹ và hai người Anh, để sử dụng máy tìm ra mục tiêu, định vị nó trong vài yard vuông, và chuyển thông tin trở về Riyadh. Khi đã kết thúc, các dụng cụ nhiều thứ của anh đã được gói ghém cẩn thận để chống đổ vỡ bất ngờ và được mang đến hangar, nơi hàng núi đồ cho bốn người đang dồn đến. Để tuyệt đối an toàn, mỗi thứ dụng cụ khoa học đều có hai thứ, lại thêm vào trọng lượng một người có thể mang.

Martin đi gặp những người lên kế hoạch ở Hố Đen. Họ cúi lom khom trên một cái bàn rộng trải đầy những bức ảnh mới do một chiếc TR- 1 khác vừa chụp sáng hôm đó. Thời tiết trong sáng, và các bức ảnh cho thấy từng xó xỉnh và hẻm núi một của Jebal và Hamreen.

– Chúng tôi cho là, đại tá Craig nói, cái thứ súng quỷ quái này có thể nằm ở đông nam. Điểm quan sát tốt nhất chính là ở chỗ đó.

Ông chỉ ra một loạt những hẻm núi trong phần núi về phía nam của vùng được cho là Pháo Đài, ngọn đồi ở trung tâm nhóm trong km vuông đã được đại tá Osman Badri xấu số chỉ rõ. Còn với DZ, có một thung lũng nhỏ ở đây, chừng 40 km về phía nam… Anh có thể nhìn thấy nước óng ánh trong một dòng suối chảy xuôi xuống thung lũng.

Martin nhìn. Đó là một sự thấp xuống một chút ở những ngọn đồi, dài 500 yard và rộng khoảng 100, với những sườn dày cộp đầy những tảng đá, và cái rill làm chảy róc rách dòng nước mùa đông của mình dọc theo đáy của dip.

– Đây là chỗ tốt nhất à? Martin hỏi.

Đại tá Craig nhún vai. “Thẳng thắn mà nói, đó là cách của các anh thôi. Cái thứ hai cách mục tiêu tới 70 km cơ. Thì chọn điểm nào gần hơn, để các anh có thể nhìn thấy ngay vùng đất đó.”

Trên bản đồ, trong ánh sáng ban ngày, có thể chắc chắn: trong bóng tối dày đặc, sâu xuyên qua không khí lạnh ở tốc độ 120 dặm/giờ, có thể dễ dàng để mất. Có thể không có ánh sáng để hướng lối chúng, không có đèn pha trên mặt đất. Từ bóng tối đến bóng tối.

– Tôi chọn nơi này, anh nói. Người hoa tiêu của RAF đứng thẳng dậy.

– Tốt, tôi sẽ thực hiện.

Người hoa tiêu có một buổi chiều thật bận rộn. Việc của anh ta là tìm ra đường mà không cần tới đèn đóm và đi qua một bầu trời không trăng sao, không hề biết đến chỗ nhảy dù mà phải nhìn từ một điểm trên không trung từ đó, trong tâm trí căng thẳng, bốn thân hình sẽ ra máy bay của anh để đi tìm cái thung lũng bé xíu đó. Ngay cả những thân hình rơi xuống đó cũng chịu sức gió; công việc của anh qua đó sẽ được đánh giá.

Không phải đến mãi buổi đêm tất cả những người này mới gặp nhau lần nữa tại hangar, giờ đây đã bị cấm đối với tất cả những người khác trong căn cứ. Chiếc Hercules đã sẵn sàng, được tiếp nhiên liệu đầy đủ. Dưới một cánh của nó là những thứ đồ đạc mà bốn người có thể cần đến. Tờ mờ sáng, người hướng dẫn của RAF đã gói cẩn thận mỗi cái dù nặng 48 pound như thể chính anh ta sẽ dùng chúng. Stephenson cảm thấy hài lòng.

Trong một góc là một cái bàn rộng. Martin, người đã có được những bức ảnh được phóng to từ Hố Đen, dẫn Stephenson, Eastman, và North đi đến bàn để chỉ rõ con đường họ sẽ đi đến DZ cho những hẻm núi nơi họ dự định sẽ đi sâu vào và nghiên cứu Pháo Đài để biết nó dài bao nhiêu. Dường như đó là 2 đêm đi bộ nặng nề, vào ngày hôm sau. Không nghi ngờ gì nữa khi bước đi trong ánh sáng, và con đường sẽ không thẳng.

Cuối cùng mỗi người gói lại túi Bergen của mình từ dưới đáy, dụng cụ cuối cùng là cái dây lưng, một vòng dây nặng với số có thể được tháo ra sau khi đã chạm đất và đeo vòng quanh cố tay.

Những chiếc hambuger và soda Mỹ được mang đến từ căng tin khi mặt trời xuống, và bốn người nghỉ ngơi cho đến giờ cất cánh. Đã được lên kế hoạch là 9h45, hướng đến một cuộc nhảy dù vào 11h30.

Martin vẫn luôn nghĩ chờ đợi là điều tồi tệ nhất; sau hoạt động tích cực trong ngày hôm đó, dường như đó là một nỗi thất vọng lớn. Không có gì để tập trung vào mà chỉ là sự căng thẳng, cái suy nghĩ nóng nảy rằng dù cho đã kiểm tra như thế và kiểm tra lại như thế, cái gì đó thật thiết yếu vẫn bị bỏ quên. Đó là thời điểm khi một số người ăn, hoặc đọc, hoặc viết thư về nhà, hoặc ngủ lơ mơ, hoặc chỉ đơn giản đi đến phòng vệ sinh để tắm rửa.

Chín giờ một máy kéo đưa chiếc Herculee ra khỏi chỗ để, và đội nhân viên gồm phi công chính, phi công phụ, và kỹ sư bay bắt đầu các cuộc kiểm tra máy móc của mình. 20 phút sau đó, một chiếc xe bus cửa sổ đen ngòm đi vào trong hangar để đưa bốn người và đồ đạc của họ ra máy bay, đang đợi với cửa sau mở rộng và sẵn sàng.

Hai PJI đã sẵn sàng cho họ, với người giám sát và người chỉnh dù. Chỉ có bảy người bước đi và đi vào khoang lớn của Hercules. Các cánh cửa đóng lại. Người chỉnh dù đã quay trở lại xe bus; anh ta có thể không bay cùng với họ.

Cùng những người PJI và người giám sát, bốn người lính đi vào chỗ ngồi của mình ở những chỗ dọc theo tường và đợi. Vào lúc 9h44 tối, chiếc Hercules lăn bánh đi khỏi Riyadh và quay cái mũi màu xám của mình về hướng bắc. Trong khi chiếc máy bay RAF đang lao lên bầu trời đêm ngày 21 tháng Hai đó: một chiếc trực thăng Mỹ đã được yêu cầu nằm ở một chỗ trước khi đến gần với bộ phận Mỹ của căn cứ quân sự.

Nó được gửi tới Al Kharz để đón hai người. Steve Turner, người chỉ huy đội 336 chiến thuật bay, đã được triệu tập lên Riyadh theo lệnh của tướng Buster Blosson. Với ông ta, như đã được ra lệnh, anh ta sẽ mang người mà anh đánh giá là phi công giỏi nhất của mình cho những chuyến bay đánh mặt đất tầm thấp.

Không phải người CO của Rocketeer cũng không phải đại uý Don Walker hiểu được tại sao mình lại được chỉ định. Tại một căn phòng nhỏ dưới đại bản doanh của CENTAF một giờ sau đó, họ được cho biết tại sao, và điều đó là cần thiết. Họ cũng được cho biết không ai khác, với người sĩ quan sử dụng hệ thống vũ khí của Walker, người đã bay cùng anh trên băng ghế sau, dược phép biết đầy đủ các chi tiết.

Rồi họ được máy bay trực thăng chở về lại căn cứ.

Sau khi cất cánh bốn người lính có thể tháo dây an toàn và di chuyển quanh chỗ của đội bay nhờ vào những ánh đèn màu đỏ mờ tối phía trước. Martin đi lên trước, đến cái thang để đến bàn bay, và ngồi một lúc với đội bay. Họ bay ở độ cao 10.000 fít về phía biên giới với Iraq, rồi bắt đầu lên tiếp. Tại độ cao 25.000 fít chiếc Hercules giữ thăng bằng đi thẳng vào lraq, dường như hoàn toàn cô độc trong bầutrời không một vì sao.

Trên thực tế nó không phải ở một mình. Trên Vịnh một chiếc AWACS đã có lệnh giữ yên chỉ nhìn quanh bầu trời gần đó và dưới họ. Nếu một màn hình rađa bất kỳ của Iraq, vì một lý do nào đó không bị không lực Liên quân thổi bay, đột nhiên “phát sáng”, nó sẽ bị tấn công ngay lập tức. Để thực hiện điều đó, hai chuyến bay của chiếc Wild Weasels với các tên lửa chống ra đa HARM đang ở dưới.

Trong trường hợp một phi công máy bay chiến đấu nào đó của Iraq đột nhiên bay lên trời trong đêm đó, một chiếc máy bay của RAF Jaguars đã ở phía trên và sẽ lao vào nó ở bên trái, một chiếc F-15C Eagle ở bên phải. Chiếc Hercules đang bay trong một tầm bảo vệ của công nghệ cực kỳ hiện đại Không phi công nào trên bầu trời đêm đó có thể biết tại sao. Họ chỉ biết tuân lệnh.

Trên thực tế, nếu có ai đó ở Iraq nhìn thấy một nhấp nháy nào đó trên rađa đêm đó, thì cũng sẽ nghĩ đó chỉ là một chiếc máy bay chở hàng đang bay về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ. Người chở hàng làm tất cả để những người khách của mình được thoải mái với trà, cà phê, đồ uống nhẹ, và bánh. 40 phút trước khi đến điểm nhảy dù, viên hoa tiêu bật một ngọn đèn báo trước chỉ ra 40 p trừ, và các chuẩn bị cuối cùng được thực hiện.

Bốn người lính đeo dù chính và phụ vào, cái thứ nhất qua vai, cái thứ hai thấp hơn ở sau lưng. Rồi đến những chiếc Bergen, treo ngược ở sau lưng giữa hai cái dù. Vũ khí – một khẩu Heckler giảm thanh và Koch MP5 SD súng bán tự động – được đeo ở hông trái, và bình dưỡng khí cá nhân treo ở thắt lưng.

Cuối cùng họ đeo mũ bảo hiểm và mặt nạ phòng độc trước khi nối dù phụ vào trung tâm, một cấu trúc khung với kích cỡ một cái bàn ăn đầy những chai ô xi. Khi mọi người đã có thể thở được thoải mái, viên phi công được báo và bắt đầu thổi không khí ra ngoài và áp suất bên trong khoang lái trong màn đêm gần như cân bằng giữa hai bên.

Mất khoảng 20 phút. Rồi họ lại ngồi xuống, chờ đợi. 15 phút trước khi đến điểm nhảy dù, một thông điệp nữa lại đến từ bàn bay đến tai người lái. Anh ta nói với các PJI ra hiệu cho những người lính chuyển từ máy ô xi chính sang những cái chai nhỏ riêng của mình. Mỗi người có dự trữ 30 phút, và họ sẽ có thể cần 3 đến 4 phút để có thể nhảy ra.

Vào thời điểm đó chỉ có hoa tiêu trên bàn bay biết được chính xác đang ở đâu; dội SAS đã tin cậy hoàn toàn vào anh ta ở vị trí chính xác.

Khi đó người lái đang liên lạc với những người lính bằng một dòng không ngừng những kí hiệu bằng tay, kết thúc khi anh ta chỉ cả hai tay vào những ngọn đèn trên màn hình. Đến tai anh ta là cả một dòng thác những chỉ dẫn từ người hoa tiêu.

Bốn người đứng lên và bắt dầu di chuyển, chậm chạp, giống như các phi hành gia nặng nề bởi đồ đạc lỉnh kỉnh, ra đến cửa. Các PJI, cũng đang đeo chaỉ ô xi di động, đi cùng với họ. Những người của SAS đứng thành hàng dọc trước cánh cửa hông vẫn còn đóng, mỗi người kiểm tra lại trang thiết bị của mình đang ở trước mặt.

Vào P-minus -4 cửa hông mở ra, và họ nhìn chằm chằm ra ngoài với không khí ở độ cao 25.000 fít. Một ký hiệu ra bằng tay khác – hai ngón tay do PJI đưa lên – nói với họ rằng họ đang ở P- minus-2. Mọi người lùi ra đến bệ cửa và nhìn vào các ngọn đèn (chưa được bật) ở hai bên. Rồi đèn bật đỏ, lừ lên. Đèn đã chuyển sang xanh…

Cả 4 người quay gót, đứng đối diện vào trong, và nhảy ngược ra, tay chìa ra, mặt cúi gằm. Bậc nhảy lướt qua mặt nạ của họ, và chiếc Hercules bay đi.

Trung sĩ Stephenson dẫn đường. Lấy lại thăng bằng ở vị trí của mình, họ nhảy vào trong bầu trời đêm từ năm dặm không một tiếng động. Tại độ cao 3.500 fít những áp suất tự động đã mở túi dù, và nó bay ra ngoài. Ở vị trí thứ hai, Mike Martin nhìn thấy cái bóng 15 fít dưới anh đã ngừng không chuyển động. Cùng giây phút đó anh cảm thấy sự rung lên của cú mở dù của mình, rồi chiếc dù “vuông” sững lên và anh chuyển từ tốc độ 120 dặm/giờ sang còn 14, với những loại máy hãm để không bị sốc mạnh.


Còn 1.000 fít mỗi người đóng lại khoá đang giữ Bergen ở lưng họ và trượt xuống chân, nó nơi dính vào chân họ. Những chiếc Bergen sẽ ở đó trên suốt đường bay xuống, để có thể mở rộng đúng lúc.

Dù của viên trung sĩ đi vượt qua Martin ở bên tay phải, nên anh phải đi theo. Bầu trời trong sáng, những vì sao nhìn rõ, những mảng núi đen thẫm hiện lên ở mọi hướng. Rồi Martin nhìn thấy cái viên trung sĩ đã nhìn thấy: sự lấp lánh của dòng nước trong dòng suối đang chảy xuôi thung lũng.

Peter Stephenson bay xuống bên phải ớ trung tâm vùng đất, vài yard cách bờ suối, trên cỏ mềm và ấm. Martin vứt chiếc Bergen của mình theo hướng đó, dừng lại trong không trung, cảm thấy chiếc Bergen chạm đất ngay bên dưới mình, và đã đứng được thẳng trên hai chân.

Hạ sĩ Eastman ở phía sau và bên trên anh, quay ra, trượt xuống, và trượt đến cách 50 yard. Martin đã cởi dây dù của mình và không nhìn thấy Kevin North cũng đã đáp xuống đất. Trên thực tế, anh chàng người miền núi là người thứ tư và cũng là cuối cùng chạm mặt đất, xa hơn khoảng 100 yard nhưng rơi xuống lưng chừng đồi chứ không phải lên cỏ. Anh cố gắng lại gần đồng đội của mình, giữ thăng bằng, khi chiếc Bergen ở dưới anh đã chạm đất. Khi nó rơi xuống đến đất, chiếc Bergen rơi ra xa kéo tuột người đang bay ở trên mà cổ tay đang buộc vào nó. Nó lăn dọc theo sườn đồi năm yard, rồi mắc vào giữa hai tảng đá. Việc đột ngột đó kéo North lao thẳng xuống và rơi nghiêng nên anh không chạm đất bằng chân mà bằng vai. Trên sườn đồi không có nhiều đá lắm nhưng một trong số chúng đã làm xước hông bên phải của anh tám chỗ.

Viên hạ sĩ cảm thấy rõ ràng xương của mình kêu lạo xạo, anh đau mất đến vài giây. Rồi rơi vào dòng nước. Anh lăn ra và nắm chặt lấy dây, thầm thì luôn miệng: không, không, cầu Chúa, không.

Dù không nhận ra bởi vì diễn ra bên trong chân, anh bắt đầu thấy mình bị chảy máu. Một trong số xương trong hệ thống chằng chịt đã gãy lòi ra ngoài động mạch, chảy máu đầm đìa. Ba người khác tìm thấy anh sau đó một phút. Tất cả đã cởi được dù và Bergen. Khi họ nhận ra anh không có ở đó, họ đi tìm. Stephenson lấy chiếc đèn pin nhỏ xíu của mình ra và chĩa vào cái chân.

– Ôi mẹ kiếp. anh thì thầm. họ có các dụng cụ sơ cứu, kể cả băng bó, nhưng không thể làm việc với chỗ bị thương này. Viên hạ sĩ cần có liệu pháp chống đau, huyết thanh, được phẫu thuật – và thật nhanh. Stephenson chạy lại chỗ chiếc Bergen của North, lôi ra dụng cụ sơ cứu, và bắt đầu chuẩn bị một liều moocphin. Không cần thiết nữa. Với máu chảy ra, chỗ đau đã tồi tệ đi nhiều.

North mở mắt, nhìn vào khuôn mặt Mike Martin đang ở phía trên anh, thì thầm: “Tôi xin lỗi, thưa chỉ huy” và lại nhắm mắt. Hai phút sau anh tắt thở.

Vào lúc khác và ở chỗ khác, :Martin có thể đã biểu lộ một số cảm xúc anh cảm thấy khi mất đi một người như North, đang dưới quyền chỉ huy của anh. Nhưng lúc này không có thời gian, và cũng không phải chỗ. Hai người NCO còn lại nhận ra điều đó và làm điều họ phải làm trong sự im lặng sầu thảm. Sự thương tiếc dành cho sau này.

Martin đã từng hy vọng thu dọn dù và đi qua được thung lũng trước khi tìm thấy một cái động đá để chôn đồ đạc còn thừa lại Giờ thì không thể được nữa. Còn phải giải quyết vấn đề cái xác của North.

– Pete, bắt đầu tập hợp tất cả những gì chúng ta phải chôn đi Tìm một cái hố ở đâu đó, hoặc là đào đi. Còn Ben, hãy nhặt đá đi

Martin cúi xuống cái xác, lấy đi các nhãn hiệu và khẩu súng, rồi đến giúp Eastman. Cùng nhau, với dao găm và tay, ba người đào một cái hố dài và để cái xác vào đó. Ở trên còn phải chôn thêm bốn cái dù chính vẫn còn mở, bốn túi đồ ăn, bốn chai dưỡng khí, rồi các thứ đồ khác nữa. Rồi họ bắt đầu chèn đá lên trên, không phải khít vào nhau mà xếp theo kiểu tình cờ, như thể chúng mới rơi từ trên núi xuống. Nước được mang đến từ mách nước để tưới lên đá và cỏ. Lối đá rơi được vạch ra bằng chân, và các mảnh rêu từ bờ nước được gắn lại. Thung lũng được làm sao cho vẫn giống hệt như nó

đã từng như thế một giờ trước khi nửa đêm.

Họ hy vọng có thể đi bộ năm tiếng trước khi trời sáng, nhưng công việc chôn cất đã tốn mất ba tiếng. Một số đồ trong túi Bergen của North vẫn được để lại ở trong và được chôn cùng anh ta: quần áo, đồ ăn, nước uống. Các thứ đồ khác họ phải chia ra để mang, làm cho đồ của mỗi người lại nặng thêm.

Một giờ trước khi trời sáng, họ rời thung lũng và đi vào SOP – quá trình chiến dịch tĩnh. Trung sĩ Stephenson lĩnh trách nhiệm dẫn đường, đi trước hai người còn lại, đến được vùng đất trước và làm các biện pháp để không bị tấn công bất chợt từ bên sườn.

Con đường mỗi lúc một dốc hơn, và anh phải dằn bước chân. Mặc dù là một người nhỏ bé và có phần hơi mảnh, lại hơn Martin đến năm tuổi, nhưng anh vẫn có thể đi bộ rất nhanh và còn gánh theo 80 pound trong khi đi.

Mây bay tới từ các đỉnh núi đúng vào lúc Martin cần chúng, để làm chậm bình minh và cho anh thêm một tiếng đồng hồ nữa. Trong 90 phút đi bộ nặng nhọc họ đi được tám dặm, đi qua nhiều đèo và hai ngọn đồi giữa chúng và cái thung lũng. Cuối cùng một ánh sáng nhợt nhạt cũng hiện ra buộc họ phải tìm một chỗ để trú chân.

Martin chọn một hẻm khuất trong các tảng đá dưới một đoạn nối, có cỏ rậm che phủ và ngay ở trên một wadi khô ráo. Trong bóng tối còn lại họ ăn một vài viên đạm, uống nước, đắp chăn lên người và nằm dài ra ngủ. Có ba phiên thức canh và phiên thứ nhất thuộc về Martin.

Anh đánh thức Stephenson vào lúc 11 giờ sáng và ngủ trong khi viên trung sĩ thức gác. Bốn giờ chiều đến lượt Ben Eastman khều Martin dậy. Khi thiếu tá mở mắt, anh nhìn thấy Eastman đang đưa tay lên môi. Martin lắng nghe. Từ wadi 10 fít phía dưới vọng lên những tiếng nói âm họng bằng tiếng Arập.

Trung sĩ Stephenson cũng tỉnh dậy và nhướng lông mày.Phải làm gì bây giờ? Martin lắng nghe thêm một lúc. Có bốn người ở đó, đang đi gác, đang chán ngán công việc cứ suốt ngày phải đi lên núi, và đã mệt mỏi. Sau 10 phút anh hiểu bọn họ sẽ cắm trại ngủ ở đây cả đêm.

Vậy là anh đã mất thời gian. Anh cần đi vào lúc sáu giờ, khi bóng tối phủ xuống các ngọn đồi, và anh cần từng giờ để có thể vượt qua những dặm dường để đến được các hẻm đá đó trên đồi qua thung lũng từ Pháo Đài. Anh có thể cần nhiều thời gian hơn để tìm ra các hẻm núi đó.

Cuộc trò chuyện từ wadi phía dưới cho thấy toán lính Iraq đang đi tìm củi để đốt lửa trại. Rất có thể chúng sẽ chú ý đến những bụi cây sau đó người của SAS đang nằm. Ngay cả khi chúng không làm vậy, thì cũng phải mất hàng giờ chúng mới ngủ say để đội của Martin có thể rón rén đi qua. Không còn lựa chọn nào khác.

Theo một tín hiệu từ Martin, hai người còn lại nằm dán người xuống, mở dao ra, và ba người trườn thẳng xuống wadi bên dưới.

Khi đã xong việc, Martin nhìn vào những quyển sổ của toán lính Iraq xấu số. Tất cả trong số đó, anh nhận ra, có Al- Ubaidi. Tất cả đều thuộc bộ lạc Ubaidi, những người miền núi. Tất cả đều có dấu của Đội Vệ binh Cộng hoà. Rõ ràng Đội Vệ binh được tuyển từ những người lính miền núi để tạo thành các đội tuần tra công việc là bảo vệ Pháo Đài an toàn khỏi những kẻ đột nhập. Cũng phải mất một giờ đồng hồ để nhét bốn cái xác vào khe núi, cắt lều nguỵ trang của họ, và phủ lên đó các cây bụi, cỏ dại. Nhưng khi họ đã làm xong, họ thấy vẫn rất dễ để nhận ra. Thật may mắn, đội tuần tra Iraq không được trang bị máy bộ đàm, nên không thể kiểm tra từ căn cứ cho đến khi họ quay trở về – bất kỳ lúc nào. Bây giờ, họ không bao giờ có thể trở về được nữa, nhưng với may mắn có thể là hai ngày trước khi họ bị quên đi.

Khi bóng tối đã buông xuống, những người SAS lại đi, định vị bằng cách dựa vào bóng các đỉnh núi trong ảnh, đi theo địa bàn về phía ngọn núi họ đang tìm kiếm. Tấm bản đồ Martin mang theo có độ phân giải rất cao, do một máy tính vẽ dựa trên các tấm ảnh chụp từ trên không do TR-l cung cấp và chỉ ra con đường giữa DZ và vị trí cần đến. Thỉnh thoảng dừng lại để xem máy định vị SATNAV đeo trên tay và nghiên cứu bản đồ bằng đèn pin, Martin có thể kiểm tra hướng đi và tiến triển của mình. Quãng nửa đêm, cả hai đều vẫn tốt. Anh cho rằng còn phải đi thêm mười dặm nữa.

Tại Brecons ở W!ales, Martin và người của mình đã có thể đi bốn dặm một giờ trên kiểu địa hình này, một cuộc đi bộ nặng nhọc trên một mặt đất phẳng mang theo chó chứ không phải 80 pound hành lý thế này. Đi bộ theo tốc độ này là bình thường. Nhưng trên những ngọn đồi thù địch này, với khả năng có các đội tuần tra bao quanh họ, không thể đi nhanh như thế được.

Họ đã va phải quân Iraq một lần, và hai lần sẽ là quá nhiều. Một lợi thế của họ so với quân Iraq là những chiếc máy NVG, những chiếc máy dò đường khi đi đêm khiến họ nhìn rõ hơn ở phía trước. Với mẫu mới mở góc rộng họ có thể nhìn thấy toàn bộ cảnh vật phía trước trong một thứ ánh sáng màu xanh nhạt; nó chạy dựa trên nguyên tắc thu thập mọi tia ánh sáng tự nhiên trong không khí và tập trung nó lại.

Hai giờ trước khi trời sáng, họ nhìn thấy hình dáng của Pháo Đài ở trước mặt và bắt đấu trườn sang bên trái. Ngọn núi họ đã chọn nằm trên rìa của km vuông do Jericho cung cấp, và từ các khe núi gần đỉnh họ có thể nhìn qua xuống mặt phía nam của Pháo Đài – nếu quả thật đó là Pháo Đài – gần như rõ ràng hoàn toàn.

Họ trườn một cách khó nhọc trong một tiếng đồng hồ, hơi thở của họ đã trở nên gấp gáp. Trung sĩ Stephenson đi đầu tắt đường bằng một lối đi của dê dẫn lên phía trên và vòng quanh đỉnh núi. Ngay khi sắp tới đỉnh núi, họ nhìn thấy cái khe mà TR- 1 đã nhìn thấy từ chiếc camera chĩa xuống và vòng quanh của nó. Tốt hơn là Martin có thể hy vọng – một mỏm đá tự nhiên dài tám fít, sâu bốn fít, và cao hai fit. Bên ngoài mỏm là một gờ đá cách hai fit, trên đó Martin có thể nằm lên với nửa người dưới và bên trong các tảng đá.

Mọi người lấy ra chăn của mình bắt đầu làm cho mình một cái tổ không thể nhìn thấy được từ bên ngoài. Đồ ăn và đồ uống được chứa trong các túi nhỏ gài vào dây lưng, trang thiết bị kỹ thuật của Martin đã sẵn sàng, vũ khí được kiểm tra và để ngay gần. Ngay trước khi mặt trời lên, Martin sử dụng một trong số các thiết bị của mình. Đó là một cái máy phát, nhỏ hơn rất nhiều so với cái máy anh đã dùng ở Baghdad, chỉ bằng kích thước hai bao thuốc lá. Nó có gắn một cục pin Cadmium-niken với đủ năng lượng cho phép anh nhiều thời gian để nói hơn anh cần nhiều.

Tần số đã được cố định, và ở đầu bên kia có một đồng hồ nghe chạy 24 giờ một ngày. Để thu hút sự chú ý anh ấn vào nút chuyển tin theo một chuỗi những tiếng bip và dừng, rồi đợi người bên kia trả lời chuỗi tín hiệu hỏi đó.

Bộ phận thứ ba của bộ máy đó là một cái đĩa không gian, một cái có thể gập vào được giống như cái ở Baghdad nhưng nhỏ hơn. Dù bây giờ anh đã ở xa hơn về phía bắc hơn hồi ở thủ đô Iraq, nhưng đồng thời anh cũng ở cao hơn.

Martin dựng cái đĩa lên, hướng về phía nam, nối pin vào máy và máy vào cái đĩa, rồi ấn nút chuyển tin. l-2-3-4-5; dừng 1 2-3; dừng; 1; dừng, 1.

Năm giây sau, chiếc đài trong tay anh rung lên nhè nhẹ, bốn tiếng bip, bốn tiếng bip, rồi hai. Anh bấm nút chuyển, giữ ngón tay, và nói vào ống nói:

– Nineveh đến đây, Tyre đến đây. Tôi nói lại. Nineveh đến đây, Tyre đến đây.

Anh thả nút bấm và đợi. Chiếc máy vang ra những tiếng l-2-3; dừng; l; dừng; 4. Đã nhận và đã nhận ra.

Martin đậy cái máy vào vỏ chống nước của nó, đeo đôi kính của mình, và co người lại. Sau anh trung sĩ Stephenson và , hạ sĩ Eastman đang bọc kín người vào khe núi dưới tảng đá, nhưng khá là thoải mái. Hai người chìa chăn ra trước mặt anh, tạo thành chỗ để anh đưa ống nhòm vào, bằng cách đó anh có thể nhìn rất rõ.

Khi mặt trời đang lên trên những đỉnh núi Hamreen ; vào buổi sáng ngày 22 tháng Hai, thiếu tá Martin bắt đầu 1 nghiên cứu kiệt tác của người bạn cùng trường Osman Badri , công trình Quala mà không một loại máy nào có thể phát hiện. :

Tại Riyadh, Steve Laing và Simon Paxman đang nhìn chằm chằm vào tờ giấy mà người kỹ sư đưa cho họ đã chạy ra từ trong máy radio.

– Mẹ kiếp, Laing nói run lên vì xúc động – anh ta đang ở trong vùng núi đó rồi.

20 phút sau, tin đã đến được Al Kharz từ văn phòng của tướng Glosson.

Đại uý Don Walker đã trở về căn cứ của mình vào lúc sáng sớm ngày 22, ngủ lại giấc đã mất hồi đêm, và làm việc ngay sau khi mặt trời lên, khi các phi công đã bay các phi vụ trong đêm vẫn còn đang đều đều thở trong giấc ngủ chập chờn. Khoảng trưa, anh đã có một bản kế hoạch để trình lên các sĩ quan thượng cấp của mình. Nó được gửi ngay lập tức tới Riyadh và đựợc thông qua. Trong buổi chiều các loại máy bay, phi hành gia, và các dịch vụ phụ trợ đã được ấn định.

Bản kế hoạch gồm cuộc tấn công gồm bốn máy bay vào một căn cứ quân sự Iraq về phía bắc Baghdad tên là Đông Tikrit, không xa nơi sinh của Saddam Hussein là bao. Có thể là một cuộc tấn công ban đêm với những quả bom 2000 pound có laser hướng lối. Don Walker có thể chỉ huy chiến dịch, với người bay cùng quen thuộc và một đội gồm hai máy bay Eagle khác.

Thật kỳ diệu phi vụ đã có mặt ở Lệnh chiến dịch bay từ Riyadh, mặc dù nó mới chỉ mới được báo 12 giờ và chưa đến ba ngày trước đó.


Ba người nữa cần cho đội bay đã được mang đến ngay lập tức cho mỗi lần làm nhiệm vụ và được chỉ định cho chiến dịch Đông Tikrit, được sẵn sàng vào đêm ngày 22 (có thể) hoặc bất kỳ đêm nào khác họ được lệnh. Cho đến lúc đó, họ vẫn thường trực đợi lệnh.

Bốn chiếc Eagle được chuẩn bị vào lúc hoàng hôn ngày 22 buông xuống, và vào 10 giờ đêm phi vụ được huỷ. Không có phi vụ nào thay thế. Tám người bay được lệnh về nghỉ, trong khi người còn lại của đội bay đi đến đánh xe tăng của Đội vệ binh Cộng hoà ở miền bắc Kuwait. Khi họ quay về vào lúc bình minh ngày 23, bốn người bay chưa phải làm gì đến lượt mình.

Với nhân viên lên kế hoạch phi vụ, một lộ trình đã được lập cho Đông Tikrit có thể cần đến bốn chiếc Eagle bay đến hành lang giữa biên giới Baghdad và Iran về phía đông, với một đường vòng qua 45 độ qua hồ As Sadiyah và rồi bay thẳng về tây bắc đến Tikrit.

Khi đã uống xong cà phê buổi sáng ở sảnh, Don Walker được triệu tập ra ngoài bởi người chỉ huy đội của mình. Mục tiêu của anh đã có rồi đấy, anh ta nói. Nghĩ một lát đi Đêm nay sẽ mệt đấy.

Khi mặt trời đang lên, Mike Martin bắt đầu nghiên cứu vùng núi qua cái thung lũng dốc. Anh nhìn rất rõ qua ống nhòm những bụi cây cá nhân; lùi lại, anh có thể nhìn thấy một vùng với kích thước bao nhiêu cũng được tuỳ anh muốn. Trong giờ đầu tiên trông nó chẳng khác gì một quả núi thực thụ. Cỏ mọc khắp nơi. Đầy những bụi cây bụi cỏ, ở phần còn lại. Đây đó một đường mòn trên đá trần, đôi khi một chỗ ngoặt, khá dốc. Cũng giống như mọi ngọn đồi trong tầm nhìn của anh, nó có hình dáng không đều đặn. Có vẻ như chẳng có gì đặc biệt hết cả.Đôi khi anh nhìn thật sát mắt vào để cho mắt nghỉ, dựa đầu vào tay một lúc, và lại bắt đầu tiếp tục.

Khoảng giữa buổi sáng, một phần bắt đầu nổi lên. Tại một số phần của ngọn núi có vẻ mọc lên với một tốc độ khác hẳn với những phần khác. Có những nơi cây cỏ dường như quá ư đều đặn, như được trồng thành hàng lối. Nhưng không hề có cửa, trừ phi ở bên kia, không đường sá, không lối đi với vết lốp xe ôtô, không có ống dẫn không khí cho bên trong, không hề có dấu hiệu gì động đậy hết. Chỉ có mặt trời đang lên mới cung cấp được một đầu mối đầu tiên.

Ngay sau 11 giờ, anh nghĩ mình đã bắt gặp được cái gì đó ánh lên trong đám cỏ. Anh lùi cặp kính lại sau đến con đường đó và chỉnh thật rõ. Mặt trời đang ở sau một đám mây. Khi hiện ra: cái đó lại lấp lánh.

Rồi anh nhìn ra: một mảnh dây thép nằm trên cỏ. Anh nháy mắt và thử lại lần nữa. Vẫn thế, nó có kích thước một cái dây dài chừng một foot nằm trong cỏ. Đó là một phần của một cái dây dài, một cái dây có bọc nhựa màu xanh ở bên ngoài, hoặc là một phần nhỏ đã lộ ra có kim loại ở bên trong.

Cái dây là một trong nhiều cái anh liếc thấy, tất cả đều được chôn trong cỏ, đôi khi nổi lên khi gió thổi các thân cỏ từ bên này sang bên kia. Chéo góc từ góc nhìn đối diện, một đoạn dây kim loại dài đang nằm dưới cỏ.

Lúc giữa trưa, anh có thể nhìn thấy rõ hơn. Một phần sườn núi khi sợi dây màu xanh đã lộ ra trên mặt đất; cỏ và các bụi cây được mọc lên những khoảng cách như viên kim cương giữa nhau, mọc qua các lỗ, phủ lên cái dây nằm bên dưới. Rồi anh nhìn thấy ở dưới. Một phần của sườn núi toàn đá, khá rõ, mỗi cái cách cái ở dưới chừng ba inch. Giữa các mảnh nằm ngang được tạo ra là những dòng suối nhỏ phủ đầy cây bụi. Nơi chúng nổi lên, chúng trở thành những đường nằm ngang. Thoạt tiên nó trông không giống như thế, bởi vì chúng có độ nặng khác, nhưng khi anh nghiên cứu độc nhất các thân cây, rõ ràng là chúng quả thực nằm trong các sợi dây. Thiên nhiên không bao giờ cho cái gì mọc thẳng.

Anh lại thử các phần khác của ngọn núi, nhưng không còn thấy thế nữa, rồi bắt đầu lại xa hơn về bên trái. Mãi đến đầu giờ chiều anh mới thấy được.

Các nhà phân tích của Riyadh đã đúng – với một điểm. Bất kỳ ai có ý định đánh giá toàn bộ trung tâm ngọn đồi, họ sẽ thất bại. Bất kỳ ai thực hiện nó sẽ phải xem xét đến ba ngọn đồi, cắt ra các mặt bên trong, và dựng lên những khoảng cách giữa các đỉnh để tạo ra một miệng núi lửa khổng lồ.

Khi nối lại các khoảng cách, người xây dựng đã theo vùng phụ cận của các ngọn đồi thật sự, đi qua các tảng đá thật nằm lùi lại và lên trên, tạo ra những vùng nhỏ, gồm hàng chục nghìn tấn đất đá từ bên trên đổ xuống.

Lớp sơn phủ hẳn là phải nằm sau: các mảnh kim loại màu xanh đã được chôn dưới mặt đất. Cỏ được gieo khắp nơi trên mặt đất, có rễ và lan xa, với các bụi cây và bụi cỏ nằm sâu hơn bị bỏ quên trong các vùng thật sự. Cỏ từ mùa hè trước đã mọc lên, tạo ra mạng lưới rễ cây riêng của mình, và các bụi cỏ đã lan ra mọc lên trên các sợi dây và cỏ đã mọc xuống trên những ngọn đồi nguyên thuỷ.

Trên cái miệng núi lửa, nóc của pháo đài rõ ràng là có hình vòm, thế nên phải gồm đến hàng nghìn túi cỏ. Thậm chí còn có các cái nhân tạo, được vẽ theo màu sắc của những tảng đá thật sự, với những đỉnh nơi mưa có thể rơi xuống. Martin bắt đầu tập trung vào vùng gần điểm nơi đáy của miệng núi lửa có thể là một khoảng không gian kín có mái vòm.Khoảng 50 fit dưới đỉnh vòm anh tìm thấy cái phải tìm.

Anh đã cho ống nhòm của mình trượt đi trượt lại đến 50 lần và không hề nhìn thấy. Đó là một chóp đá, màu ghi nhạt, nhưng có hai đường màu đen chạy qua từ bên này sang bên kia. Càng xem xét các đường kỹ hơn, anh càng phải tự hỏi tại sao ai đó lại có thể lên cao đến thế để vẽ hai cái đường thẳng đi qua một tảng đá mòn.

Một làn gió từ phía đông bắc thổi đến, thổi đến gần mặt anh. Cũng ngọn gió đó làm một trong những đường thẳng chuyển động. Khi gió đã dừng, các đường thẳng cũng thôi không chuyển động nữa. Rồi Martin nhận ra chúng không được vẽ thành những đường thẳng mà thực chất là những đường dây bằng thép, chạy qua tảng đá và đi vào trong cỏ. Các tảng đá nhỏ hơn nằm quanh chu vi của cái lớn, giống như các trạm gác vòng quanh. Tại sao nó lại tròn thế, tại sao lại có dây thép? Cứ cho là có ai đó, ở phía dưới đã ném lên những sợi dây đó – vậy thì tại sao tảng đá lại có thể chuyễn động?

Đến ba giờ rưỡi thì anh nhận ra đó không phải là một tảng đá. Đó là một tấm vải nhựa màu ghi, được những tảng đá chặn xuống: được gắn kết vào một bên sườn khi các sợi dây kim loại bị ném xuống phía dưới vào trong cái hang ngầm bên dưới.

Dưới tấm vải anh dần nhận ra một hình dáng, đều đặn, chu vi 5 fít. Anh nhìn chằm chằm vào một tấm vải, bên dưới đó, mà anh không thể thấy, ba fít cuối của khẩu súng Babylon, từ đó nòng súng dài 200 yard nằm bên trong miệng núi lửa đang chìa lên trời cao. Nó chỉ xuống đông nam về phía Dhahran, cách 750 km.

– Têlêmét, anh thì thầm với các đồng đội đang ở phía dưới.

Anh đưa cái ống nhòm lại và cầm lấy một cái ống khác. Nó giống như một kính thiên văn. Khi đặt nó vào trong mắt, như người ta đã dạy tại Riyadh, anh nhìn thấy ngọn núi và tấm bạt đang giấu khẩu súng, nhưng không hề rõ ràng.

Trên thấu kính là các dấu hiệu hình chữ V, các điểm đều được hướng vào bên trong. Chầm chậm anh quay cái núm trên đỉnh cho đến khi 4 điểm chụm lại thành một. Cái hình chữ thập nằm lại trên tấm bạt.

Bỏ cái hình cầu ra khỏi mắt, anh nhìn vào các số trên dải băng quay. 1080 yard.

– Compa, anh nói. Anh đưa cái têlêmét ra sau và cầm lấy cái la bàn điện tử. Đó không phải là một thiết bị phụ thuộc vào một cái đĩa xoay trong một cái bát cồn, cũng không phải là một cái chỉ cân đối trên một khớp cadăng. Anh để nó lên mắt, nhìn vào tấm bạt qua thung lũng, và ấn nút. Cái la bàn làm việc còn lại, cho anh một toạ độ từ điểm anh đứng đến tấm bạt là 348 độ, 10 phút, và 18 giây.

Máy định vị SARNAV cho anh nhìn thấy điều cuối cùng anh cần – địa điểm chính xác của anh lúc này trên bề mặt trái đất, với diện tích gần nhất 15 yard vuông.

Thật là một công việc tỉ mỉ để cố dựng lên cái đĩa vệ tinh trong một không gian hẹp – mất đến 10 phút. Khi anh gọi Riyadh, câu trả lời đến ngay lập tức. Chầm chậm Martin đọc cho những người nghe ở thủ đô nước Arập Xêut ba loại số liệu: vị trí chính xác của anh, hướng của la bàn từ chỗ anh đến mục tiêu, và tầm bắn. Riyadh có thể tính toán phần còn lại và cung cấp cho phi công các dữ liệu.

Martin quay trở lại mỏm đá, đã được Stephenson thay thế, người có thể canh chừng các toán kiểm tra của quân Iraq, và cố ngủ.

Vào lúc tám giờ rưỡi, trong bóng đêm hoàn toàn, Martin kiểm tra bằng máy phát tia hồng ngoại. Vẻ ngoài nó giống một ngọn đèn lớn với một nút bấm hoạt động theo nguyên tắc pitxtông, nhưng có lỗ nhỏ ở đằng sau để nhìn. Anh lắp pin, hướng về phía Pháo Đài, và nhìn. Toàn bộ ngọn núi đã rõ ràng như thể được tắm trong ánh trăng xanh ngắt. Anh nâng lên đến tấm bạt được nguỵ trang cái nòng của khẩu Babylon và siết chặt nút bấm.

Một làn ánh sáng đơn độc, không thể nhìn thấy đang lướt qua thung lũng, và anh nhìn thấy một đốm đỏ rất nhỏ xuất hiện ở sườn núi. Chuyển sang nhìn ban đêm, anh chĩa đốm đỏ lên tấm bạt và giữ ở đó chừng nửa phút. Hài lòng, anh tắt nó đi và chui lại vào trong chăn.

Bốn chiếc Eagle cất cánh từ Al Kharz vào lúc 10 giờ 45 phút tối và nhanh chóng đạt độ cao 20000 fít. Với ba trong số bốn đội bay, họ chỉ biết đó vẫn chỉ là một phi vụ đánh một căn cứ không quân Iraq thông thường. Mỗi chiếc Eagle đều mang theo những quả bom 2000 pound có laser hướng lối, thêm vào những quả hoả tiễn không đối không để tự vệ.

Tiếp nhiên liệu từ chiếc KC-10 ngay ở nam biên giới lraq là bình thường chẳng có gì to tát. Khi họ đã lên cao, họ bay theo đội hình mở rộng, và chuyến bay, với mật danh Bluejay, đi chủ yếu về hướng nam, đi qua thành phố As-Samawah của Iraq vào lúc 11h14.

Họ bay mà không hề trò chuyện với nhau và cũng không bật đèn, mỗi wizzo đều có thể nhìn thấy rất rõ ràng ba cái còn lại trên ra đa của mình. Đêm trong, và chiếc AWACS trên vùng Vịnh đã cung cấp cho họ như chỉ dẫn “ảnh rõ”, có nghĩa là không có máy bay chiến đấu nào của Iraq đang bay trên trời. 11h39, người wizzo của Don Walker thì thầm:

– Điểm rẽ trong năm phút nữa.

Tất cả đều nghe thấy và hiểu họ có thể sẽ quay trở lại trên hồ As Sadiyah trong năm phút nữa.

Ngay khi họ vừa thực hiện đường lượn 45 độ ra cảng để hướng về đông Tikrit, ba đội còn lại nghe thấy Don Walker nói rất rõ:

– Bluejay Dẫn đầu đội bay… trục trặc động cơ. Tôi sẽ đến RTB. Bluejay, nghe chưa.

Blueiay là Bull Baker đêm đó, dẫn đầu trong số hai máy bay thành phần. Từ đó trở đi, mọi việc bắt đầu diễn ra theo chiều hướng xấu, theo một cung cách thật lệch lạc.

Người bay cùng Walker, Randy “R-2” Roberts ở ngay cạnh máy bay dẫn đầu nhưng có thể thấy không có vấn đề rắc rối nào bề ngoài từ động cơ của Walker, như thể chỉ huy Bluejay hết nhiên liệu và độ cao. Nếu anh ta đi RTB – quay về căn cứ – thì cũng là bình thường khi người bay cùng về theo anh ta, trừ khi vấn đề chỉ nhỏ nhặt thôi. Trục trặc động cơ trên lãnh thổ kẻ thù thì không thể là nhỏ nhặt được.

– Roger này, Baker nhận ra. Rồi họ nghe thấy Walker nói:- Bluejay 2, quay lại đi cùng với Bluejay 3. Tôi nhắc lại, quay lại đi, lệnh đấy. Tiếp tục đến đông Tikrit đi.

Người cùng bay, giật mình, làm theo lệnh và lao lên để gặp lại đội Bluejay. Chỉ huy của họ vẫn tiếp tục hạ thấp độ cao xuống hồ; họ có thể thấy anh trong rađa của mình.

Cùng lúc đó họ nhận ra anh đã làm điều không thể nghĩ được Vì một lý do nào đó – có thể là rối trí vì bị hỏng động cơ – anh không hề nói bằng điện đàm Have-quick có mã hoá, mà “nói thẳng”. Đáng ngạc hiên hơn, anh còn nói rõ hẳn đích đến của họ.

Bên ngoài Vịnh, một trung sĩ USAF trẻ tuổi đang bắt được tín hiệu trên màn hình trên chiếc AWACS triệu tập người chỉ huy phi vụ.

– Chúng ta có vấn đề rồi, thưa ngài. Chỉ huy Bluejay gặp rắc rối về động cơ. Anh ta muốn RTB.

– Rồi, đã ghi, người chỉ huy phi vụ nói. Trong hầu hết các máy bay phi công là chỉ huy và chịu hoàn toàn trách nhiệm.

Trong một chiếc AWACS phi công có trách nhiệm đảm bảo an toàn cho máy bay, nhưng người chỉ huy phi vụ vẫn nghe thấy giọng nói.

– Nhưng thưa ngài, viên trung sĩ phản đối, chỉ huy Bluejay nói thẳng không dùng mật mã. Nói cả mục tiêu rồi. Tôi cho họ RTB hết nhé.

– Không, phi vụ vẫn tiếp tục, người kiểm soát nói. Làm đi.

Viên trung sĩ quay trở lại với màn hình của mình, chẳng hiểu mô tê gì nữa cả. Thật là điên rồ: nếu người Iraq mà nghe thấy đoạn nói chuyện đó, thì các đơn vị phòng không ở đông Tikrit sẽ được báo động khẩn cấp ngay lập tức.

Rồi anh ta lại nghe thấy tiếng Walker.

– Chỉ huy Bluejay, Mayday, Mayday. Cả hai động cơ đều hỏng rồi. Xuống đây.

Anh vẫn nói thẳng không dùng mật mã. Người Iraq, nếu họ nghe thấy, có thể hiểu ngay vấn đề.

Trên thực tế, viên trung sĩ đã đúng – các thông điệp đã được nghe thấy. Tại Đông Tikrit các tay súng đã giương các tấm bạt lên khỏi trận địa chữ A, và các hoả tiễn dò mục tiêu đã đợi sẵn tiếng động cơ đang đến gần. Các đơn vị khác cũng đã được báo động để đến khu vực hồ ngay lập tức để bắt hai giặc lái sắp rơi xuống.

– Thưa ngài, chỉ huy Blueiay rơi rồi. Chúng ta phải RTB tất cả họ thôi.


– Ghi rồi, phản đối, chỉ huy phi vụ nói. Anh ta liếc nhìn vào đồng hồ. Anh ta đã có lệnh. Anh không biết tại sao, nhưng phải tuân theo.

Đội Bluejay còn cách mục tiêu khoảng chín phút, đang tiến đến một trận địa đã được chuẩn bị sẵn. Ba phi công đang lái những chiếc Eagle của mình trong một sự im lặng nghẹt thở.

Trong chiếc AWACS viên trung sĩ vẫn có thể nhìn thấy nhấp nháy của chỉ huy Bluejay, đang lao xuống mặt hồ. Rõ ràng chiếc Eagle đã bị bỏ rơi và có thể nổ tung bất cứ lúc nào.

Bốn phút sau, chỉ huy phi vụ có vẻ như đã đổi ý.

– Đội Bluejay, AWACS gọi Bluejay, RTB. Tôi nhắc lại,

Ba chiếc Eagle, chán nản vì các sự kiện đêm đó, dừng lại không đi nữa và quay đầu trở về căn cứ. Các tay súng Iraq ở Đông Tikrit chờ đợi trong vô vọng suất một giờ đồng hồ.

Tại vùng rìa phía nam của Jebal al Hamreen một trạm nghe khác của Iraq cũng nghe thấy đoạn trao đổi đó. Viên đại tá chỉ huy tại đó đã không chậm trễ báo về cho Đông Tikrit hoặc bất kỳ căn cứ không quân nào khác để tiếp cận máy bay địch. Công việc duy nhất của ông ta là đảm bảo không gì vào được Jebal. vì đội Bluejay quay qua hồ, ông ta bèn báo động; đoạn đường từ hồ đến căn cứ không quân có thể khiến chiếc Eagle dọc theo rìa phía nam của dãy núi. Khi một trong chúng nổ, ông ta vui mừng; khi ba chiếc còn lại bay về phía nam, ông ta thở phào và tắt báo động đi.

Don Walker đã lao xoáy xuống mặt hồ cho đến khi chỉ còn cách 100 fít và gọi Mayday. Khi anh lao xuống nước của As Sadiyah, anh nhìn vào các dữ liệu mới và quay sang phía bắc về Jebal. Cùng lúc anh đến LANTIRN, với sự giúp đỡ của cái này anh có thể nhìn xuyên qua và nhìn thấy cảnh vật trước mặt mình rõ ràng bởi làn hơi đang bay lên phía dưới cánh máy bay.

Các cột thông tin của màn hình trước mặt anh giờ đây cho anh biết về hành trình và tốc độ, độ cao, và thời gian đến lúc Phóng.

Anh nhẽ ra có thể chuyển sang chế độ lái tự động, cho phép máy tính điều khiển chiếc Eagle, đi qua các vách đá và sườn đồi, trong khi phi công chẳng phải làm gì. Nhưng anh thích tự mình điều khiển hơn. Với sự giúp đỡ của những bức ảnh mới do Hố Đen cung cấp anh đã thực hiện cú bay vòng vượt dãy núi mà chưa từng bao giờ anh thực hiện trên bầu trời. Anh vẫn ở thấp, lướt trên đáy thung lũng, vượt từ hố này sang hố khác, một chặng đường hình zig zag cho phép anh đi được về phía dãy núi có Pháo Đài.

Khi Walker gọi Mayday, điện đàm của Mike Martin loé lên thành những tiếp bíp. Martin chồm người ra trước nhìn xuống phía thung lũng: chỉ hướng về mục tiêu ở tấm bạt cách đó 1000 dặm, ấn nút đỏ chỉ thẳng vào trung tâm mục tiêu, và giữ nguyên nó ở đó.

Những tiếng bíp trong điện đàm có nghĩa là “Bảy phút để ném bom”, và kể từ đó Martin không hề di chuyển đốm đỏ lấy một inch.

– Đến giờ rồi đấy, Eastman thì thầm. Tôi cóng hết cả lên rồi đây.

– Không lâu đâu. Stephenson nói, nhét nốt những thứ còn lại vào túi Bergen của mình. Rồi anh sẽ được làm gì anh muốn, Benny ạ.

Chỉ còn điện đàm chưa được gói vào, đã sẵn sàng cho lần chuyển tin tới.

Ngồi ở băng sau của chiếc Eagle, Tim, wizzo có thể xem được cùng những thông tin như phi công của anh. Còn bốn phút nữa để bắn, ba phút rưỡi, ba… những số trên HUD đang đếm ngược khi chiết Eagle lao qua các ngọn núi để đến mục tiêu của mình. Nó lao nhanh đến chỗ Martin và người của anh đã định vị, và mất vài giây để đến được nơi xuyên qua đó họ đang làm việc với các gói.

– 90 giây nữa…

Người của SAS nghe thấy âm thanh động cơ đang đến từ phía nam khi chiếc Eagle ló dạng.

Chiếc máy bay chiến đấu – thả bom đã đến chỗ cuối cùng cách đó ba dặm về phía nam của mục tiêu, ngay khi sự đếm ngược đạt đến số không. Trong bóng tối hai quả bom hình torpedo rời khỏi bệ phóng phía dưới cánh và lao xuống trong vòng vài giây, lao theo quán tính với tốc độ khủng khiếp.

Trong ba ngôi làng nguỵ tạo các Vệ binh Cộng hoà choàng tỉnh khi nghe tiếng động cơ máy bay lao đến không biết từ đâu ngay trên đầu mình, vội vã nhảy vào công sự, và chạy đi lấy vũ khí. Chỉ trong vòng vài giây mái nhà các chuồng gia súc đã được thổi bay để lộ hàng đống hoả tiễn ở bên dưới. Hai quả bom rời khỏi máy bay theo trọng lực bắt đầu rơi xuống. Trước mũi họ, những người chứng kiến run rẩy với đường hướng lối theo những tia không nhìn thấy đến từ đốm đỏ trên mục tiêu của chúng, sự rơi xuống mà, một khi đã vào được, họ không thể đi được nữa.

Mike Martin chùng xuống, chờ đợi, ù tai vì tiếng động cơ nổ thì nghe tiếng cả quả núi rung lên, và theo đúng chấm đỏ rơi thẳng vào khẩu Babylon.

Anh không hề nhìn thấy những quả bom. Một giây anh cố nhìn vào ngọn núi màu xanh nhạt của máy khuếch đại hình ảnh; tiếp đó, anh phải rời mắt đi và che nó bởi vì đêm đã biến thành ngày rực màu đỏ máu.

Hai quả bom lần lượt rơi xuống, ba giây trước khi viên đại tá của đội Vệ binh ở mãi dưới ngọn núi rỗng đến được chỗ bấm nút Phóng. Ông ta không bao giờ có thể làm được việc đó. Nhìn xuyên qua thung lũng mà không mang kính, Martin nhìn thấy toàn bộ Pháo Đài gục xuống trong lửa. Bằng dụng cụ của mình, anh thu lấy hình ảnh một nòng súng dài khủng khiếp, rung lên như một con quái vật, quay tròn và tung lên, vỡ ra, và rơi lả tả xuống thành những mảnh vỡ của cái vòm cho đến miệng núi lửa bên dưới.

– Bắn chuẩn ghê người, trung sĩ Stephenson thì thầm ở dưới tay anh. Đó không phải là một lời tán dương sai. Ngọn lửa màu da cam bắt đầu tàn xuống trong miệng núi lửa vào lúc cú nổ đầu tiên đã xong và một ánh sáng mờ mờ quay trở lại với ngọn núi. Martin bắt đầu gõ những tín hiệu khẩn cấp cho Riyadh.

Don Walker cho chiếc Eagle của mình vụt lên sau khi thả xong bom, lao theo góc 135 độ chếch, nhằm xuống dưới và theo một đường rút thẳng về phía nam. Nhưng vì anh không ở trên vùng đất bằng phẳng và dãy núi dựng lên xung quanh anh, anh phải lấy độ cao nhiều hơn bình thường và có nguy cơ chạm phải các đỉnh.

Chính ngôi làng ở xa Pháo Đài nhất bắn được phát đạn chính xác nhất. Chỉ trong một khoảnh khắc anh đã ở trên họ, trên một cái đầu cánh, quay sang phía nam, khi hai quả hoả tiễn được bắn ra. Những quả tên lửa này không phải là SAM của Nga mà là những quả tốt nhất mà Iraq có được – quả Roland của Đức-Pháp sản xuất.

Quả đầu tiên chậm chạp, chạy theo chiếc Eagle khi nó lao ra khỏi tầm nhìn của dãy núi. Quả Roland thất bại trong việc rạch ra. Quả thứ hai luồn theo những tảng đá của đỉnh núi và đuổi kịp chiếc máy bay chiến đấu ở thung lũng kế tiếp. Walker cảm thấy một cú sốc thật mạnh khi quả hoả tiễn chạm vào thân máy bay của anh, phá hủy gần như toàn bộ động cơ bên sườn.

Chiếc Eagle lao vụt qua bầu trời, các hệ thống tinh vi của nó trong đó, nhiên liệu cháy thành một cái đuôi sao chổi ở phía sau. Walker thử lại các điều khiển, một món pút đinh sũng nước. Thế là xong, máy bay của anh đang chết ở dưới anh, mọi thứ đèn báo động lửa đều bật hết lên, và 30 tấn kim loại cháy rừng rực sắp rơi xuống đất từ trên trời.

– Nhảy, nhảy…

Chiếc dù tự động buông ra trong một khoảnh khắc trước khi những chỗ ngồi nhảy dù đến, bắn tung vào màn đêm, lấy lại cân bằng. Các cảm ứng của họ ngay lập tức cho biết họ đã quá chậm và bị thổi tung khỏi những sợi dây da có chứa phi công vào trong chỗ ngồi của mình, rõ ràng là thất bại trong việc nhảy dù.

Walker trước đây chưa từng thế này bao giờ. Cảm giác sốc bao trùm lấy anh trong một lúc, làm anh mất khả năng quyết định. Thật may mắn những người sản xuất máy bay đã nghĩ đến điều này. Khi cái ghế kim loại nặng nề rơi xuống, dù liền tự bung ra và tung ra. Mê man, Walker thấy mình đã ở trong màn đêm, đang chao đảo trên một thung lũng mà anh không thể nhìn thấy.

Anh rơi không lâu – anh đã bay ở quá thấp. Trong vài giây mặt đất đã hiện ra và anh chạm xuống, và anh nảy lên, lăn tròn, lăn, tay cào vào dù. Rồi cái dù bay mất, vào trong thung lũng. và anh nằm thẳng cẳng trên mặt đất. Anh bò dậy.

– Tim, anh gọi, Tim, cậu có sao không?

Anh bắt đầu chạy trên thung lũng, tìm một cái dù khác, chắc chắn cả hai đều rơi vào cùng một địa điểm.

Điều này thì anh đúng. Cả hai người đã rơi vào hai thung lung nằm ở phía nam mục tiêu của họ. Trên bầu trời về phía bắc anh có thể nhìn thấy một màu đỏ nhờ nhờ hiện ra. Sau ba phút anh rơi vào cái gì đó và khuỵu gối xuống. Anh nghĩ đó là một tảng đá, nhưng trong ánh sáng mờ tỏ anh nhìn thấy đó là một trong những cái ghế phóng ra. Có thể là anh ta đó chăng, phải Tim không? Anh chạy đến để nhìn.

Walker tìm thấy người wizzo của mình. Chàng trai trẻ đã được phóng ra một cách hoàn hảo, nhưng quả hoả tiễn đã nổ làm gẫy chỗ nối làm anh bắn tung đi. Anh đã hạ xuống đất trên sườn núi dính chặt vào ghế, dù anh ta trùm lên mặt đất ở bên cạnh.

Chấn động của vụ rơi cuối cùng đã làm anh thoát được cái ghế, nhưng không ai có thể sống sót sau một cú sốc mạnh đến thế.

Tim Nathanson năm ngửa trên thung lũng, một phần cơ thể bị gẫy nát, khuôn mặt vẫn nằm trong cái mũ bảo hiểm của mình. Walker gỡ mặt nạ ra, quay cái mác, và chạy về phía núi, bắt đầu chạy, nước mắt chảy tràn trên mặt. Anh chạy cho đến lúc không thể chạy được nữa, tìm thấy một hẻm núi và lăn vào đó để nghỉ.

Hai phút sau các vụ nổ ở Pháo Đài, Martin đã có liên lạc được với Riyadh. Anh gửi loạt bíp của mình và rồi bức thông điệp nó có nghĩa:

– Barrabas đây, tôi nói lại, Barrabas đây.

Ba người SAS đứng gần sát máy điện đàm, gói nó lại, đeo những túi Bergen lên vai, và bắt đầu ra khỏi dãy núi – thật nhanh. Có thế có các đội tuần tra ở chỗ trước đây không hề có, và cũng không phải tìm họ – chưa phải lúc người Iraq có thể nghĩ tại sao cuộc ném bom vừa rồi lại chính xác được đến vậy – mà là tìm phi công Mỹ rơi xuống đất.

Trung sĩ Stephenson nhìn theo một mảnh máy bay bốc cháy khi nó bay qua đầu họ, và hướng rơi của nó. Cho rằng có thể có một lúc sau khi rơi, các phi công, liệu họ còn sống sót. thì vẫn phải ở đâu đó trước mặt họ. Những người lính SAS di chuyền nhanh, ngay trước những người thuộc bộ lạc Ubaidi của đội Vệ binh, những người đang toả ra từ những ngôi làng để lao lên dãy núi.

20 phút sau, Mike Martin và hai người lính SAS còn lại đã tìm thấy xác chết của người sĩ quan quản lý hệ thống vũ khí. Họ không thể làm gì được nữa, nên bỏ đi.

10 phút sau nữa, họ nghe thấy phía sau những loạt đạn súng cá nhân. Nó tiếp tục thêm một lúc. Al-Ubaidi cũng đã tìm thấy cái xác và trong cơn điên giận họ đã xả súng vào nó. Hành động cũng được dành cho hướng đi của họ. Những người SAS lại càng vội vã hơn.

Don Walker gần như không cảm thấy lưỡi dao của trung sĩ Stephenson gí vào cổ họng mình. Nó rất nhẹ như một dải lụa. Nhưng anh nhìn lên và thấy khuôn mặt một người đàn ông đang đứng phía trên mình. Trời tối và lạnh; có một khẩu súng ở bên tay phải anh đang chĩa thẳng vào ngực Walker; và người đàn ông mặt quân phục một đại uý trong đội Vệ binh Cộng hoà, phiên hiệu Núi. Rồi người đàn ông nói:

– Chọn không đúng lúc để xuống uống trà rồi. Liệu chúng ta còn có thể thoát khỏi đây không?

Đêm đó tướng Norman Schwarzkopf đang ngồi một mình trong dãy nhà của mình ở tầng bốn toà nhà Bộ Quốc phòng Arập Xêut.

Đó không phải là nơi ông thường xuyên trôi qua thời gian của mình trong bảy tháng qua; phần lớn thời gian đó ông đi thăm các đơn vị chiến đấu khi có thể, hoặc xuống căn cứ ngầm với nhân viên và những người lập kế hoạch của mình. Nhưng cái văn phòng rộng rãi và tiện nghi là nơi ông đến khi muốn được ở một mình.

Đêm đó ông ngồi ở bàn của mình, bên cạnh là cái điện thoại màu đỏ nối ông trực tiếp đến Washington một cách tuyệt đối an toàn, và chờ đợi. 10 phút trước khi trời sáng ngày 24 tháng Hai, chiếc điện thoại khác réo chuông.

– Tướng Schwarzkopf phải không? âm sắc Anh.

– Phải, tôi đây. – Tôi có tin cho ngài đây.

– Nói đi.

– Đó là: Barrabas đây, thưa ngài. Barrabas đây.

– Cám ơn, vị tổng tư lệnh nói, và đặt máy xuống. Vào lúc bốn giờ sáng hôm đó, cuộc tấn công trên bộ đã mở màn.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.