Nhật Ký Quan Sát Võ Tướng

Chương 20: Kinh phàm khoái hàng - quần hùng cát cư viễn tẩu giang đông…


Đọc truyện Nhật Ký Quan Sát Võ Tướng – Chương 20: Kinh phàm khoái hàng – quần hùng cát cư viễn tẩu giang đông…

(Giải thích tựa chương: Quần hùng chia cắt, đến Giang Đông xa xôi…)

Lũng Tây, nơi đóng quân tạm thời của quân Tịnh Châu.

Tào Tháo đã bắt Hiến đế về Hứa Xương, Viên Thiệu giam giữ bá quan trong triều, chia nhau chút cơ nghiệp còn sót lại của triều đình nhà Hán.

Về phần Lã Bố, ai cũng không thèm để ý, vất vơ vất vưởng, ai muốn trốn mặc cho hắn trốn, cho nên quân Tịnh Châu vứt bỏ khí giới, lặn lội đường xa, vòng qua Vị Thủy, mới dám dừng lại lấy hơi, hạ trại tại chỗ, ai ở yên đó chờ chủ tướng hạ lệnh.

Rốt cuộc chủ tướng cũng tỉnh.

Lã Bố mở mắt, đầu đau muốn nứt: “Giờ nào rồi?”

Cao Thuận quỳ trước trướng: “Giờ Dậu.”

Lã Bố còn mơ mơ màng màng, bả vai nhức buốt, nhớ lại lúc lâm trận giao chiến, bản thân muốn làm gương nên lao vào trận địa, đánh tứ phía, thuộc cấp phía sau theo không kịp, Lã Bố bị hất ngã ngựa.

Té ngựa giữa đám kỵ binh xung phong rất nguy hiểm, vô số vó ngựa dẫm đạp, sơ ý một chút coi như gãy xương đứt gân, Lã Bố lăn mình vài vòng vẫn không gọi được Xích Thố, binh sĩ hai bên vừa gặp liền liều mạng xung phong chém giết, chiến mã nhẹ lắm cũng hai trăm cân thay phiên nhau dẫm, cuối cùng hắn ngất xỉu.

Một phút bốc đồng của Lã Bố có kết quả như sau: Gãy hai xương sườn, vai bị thương nặng, cũng nhờ Cao Thuận đưa về được.

Lã Bố hỏi: “Kỳ Lân đâu? Gọi Kỳ Lân đến đây, đêm qua ta nóng nảy quá.”

Cao Thuận đáp: “Hồi bẩm chủ công, hôm nay đã là chạng vạng của ngày thứ ba rồi.”

Lã Bố: “…”

Lã Bố hơi nhúc nhích một chút cả người đều đau đớn không chịu nổi, Điêu Thiền xốc cửa lều bưng thuốc đi vào, Lã Bố giơ tay muốn lấy, Điêu Thiền không cho, nói: “Thiếp đút Hầu gia.”

Lã Bố gật đầu dặn dò: “Sau này trước khi xuất chinh không được uống rượu, gọi Trần Cung với Kỳ Lân vào lều nghị sự…” Cuối cùng hắn mới thấy lạ, ngạc nhiên hỏi: “Đây là đâu?”

Điêu Thiền thổi thuốc, nhỏ nhẹ nói: “Trường An bị Viên Thiệu chiếm làm của riêng rồi. Trong lúc loạn lạc, Cao tướng quân đưa tiện thiếp ra, còn mang theo thuộc cấp của chàng chạy trốn đến Lũng Tây…”

Lã Bố không tập trung, khó tin hỏi lại: “Ai cho các ngươi rút quân?! Ai hạ lệnh!”

Trần Cung chờ ở ngoài lều cũng đã lâu nhưng không vào, không hề sợ hãi, lớn tiếng nói: “Sau khi Công Đài thương lượng với Cao tướng quân thì hạ lệnh.”

Lã Bố nói: “Đây là cái thói gì! Vào đây nói! Ai cho phép ngươi ra lệnh?!”

Trần Cung vén mành đi vào, lạnh lùng nói: “Chủ công có biết tình hình lúc đó hung hiểm thế nào không?

“Viên Thiệu được sĩ phu của thành Trường An làm nội ứng, sau khi chủ công té ngựa sĩ khí quân ta tan rã, quân Viên Thiệu khí thế bừng bừng, công hãm cửa Nam Trường An. Tào Mạnh Đức chờ đợi thời cơ đã lâu, tiếp viện từ cửa Tây, đánh mạnh vào nội thành, đưa Hoàng thượng đi. Quân Tịnh Châu thiếu chủ tướng, chủ công, ngài dạy ta nên chờ chi viện hay tiếp tục chống đỡ đây?!

“Chờ chi viện chắc chắn cửa Nam sẽ rơi vào tay giặc, Viên Thiệu tiến quân thần tốc, mất Trường An, tiếp tục chống đỡ thì bị Tào Tháo thừa cơ đánh lén, cách nào cũng rơi vào thế hai mặt bị địch giáp công. Nếu không thoát ra thì bốn vạn tướng sĩ của Tịnh Châu đều bị chôn vùi trong thành Trường An, e rằng giờ phút này chủ công đã thành tù nhân rồi!”

Trần Cung không hề nể mặt, khí thế hùng hồn nói: “Chủ công hỏi ai cho phép ta ra lệnh, Công Đài cũng muốn hỏi chủ công: Ai cho phép ngài say rượu trước khi xuất chiến, bắt đầu một cuộc chiến không có chuẩn bị?! Kỳ Lân trung thành là thế, ai cho phép ngài vô lý nhốt vào đại lao?”

“Ai cho phép ngài tin lời gièm pha! Trúng kế ly gián của Tào Mạnh Đức!!!”

Lã Bố giận tím mặt quát: “Láo xược! Đem tên tặc tử này ra chém!”


Cao Thuận thấy tình hình căng thẳng hô to: “Chủ công bớt giận! Là mạt tướng hạ lệnh!”

Lã Bố hất bay bàn dài trong lều, làm Điêu Thiền thét chói tai ngã theo, nước thuốc đổ ụp hết lên người.

Trần Cung vẫn đứng thẳng tắp, cất giọng nói hùng hồn mạnh mẽ: “Chủ công xưa nay muốn làm gì nào có nghĩ đến những người gần gũi, chém Công Đài thì thế nào? Kỳ Lân đã rơi vào tay giặc, biết chắc không thể sống, không uổng công làm chủ tớ với ngài, nhưng còn ngài thì sao! Vẫn cố chấp như vậy, lấy tính mạng của người khác thay mình tế cờ bại trận, thật nực cười!”

Lã Bố nộ khí công tâm, nôn ra máu.

——————–

“Ngươi là người của Tào Tháo?” Dùng thái độ thù địch, Tôn Sách quan sát Kỳ Lân hồi lâu.

Kỳ Lân đáp: “Không, từng là mưu sĩ của Lã Bố, hiện giờ… chắc là không phải nữa rồi.”

Tôn Sách quát: “Bắt hắn lại!”

Thân binh nhào lên, khống chế Kỳ Lân, Kỳ Lân cũng không phản kháng, để mặc chúng tóm bả vai, thình lình hỏi một câu: “Tôn Sách, cha ngươi chết rồi sao?”

Tôn Sách để tang, quân sĩ chính thống tay cột sợi gai, đầu quấn vải thô, trong trường hợp này chỉ có khả năng duy nhất là tướng lãnh chết trận. Liên hệ thời gian, mười tám lộ chư hầu mạnh ai nấy đánh, khi quân Giang Đông rút khỏi trận Lạc Dương, Viên Thuật lệnh cho Tôn Kiên tấn công Lưu Biểu.

Tôn Kiên phát binh theo hướng Lỗ Dương, lúc xuất chiến bị một tiễn của Hoàng Tổ bắn chết, Tôn Sách mang quân rút về bên bờ Hán Thủy, mượn tình cảm đau thương của binh sĩ nhiều lần công kích Tương Dương đều không thành công, đành phải rút về Thọ Xuân.

Tôn Sách thở sâu, hai mắt đỏ bừng, lộ rõ mỏi mệt: “Kim châu trên cổ ngươi là do Ôn Hầu tặng sao?”

Kỳ Lân gật đầu, nhìn xung quanh: “Nửa tháng trước ta mới ra khỏi Lạc Dương, đây là Hán Thủy à?”

Bất tri bất giác, Kỳ Lân ra khỏi Lạc Dương, đi xa ngàn dặm.

Tôn Sách ra lệnh: “Hiện tại không rảnh tra xét ngươi, người đâu, nhốt hắn lại trước.”

Cuối Thu đầu Đông là thời điểm đất Kinh Sở mưa dầm liên miên, Kỳ Lân miễn cưỡng bị nhốt trong lồng sắt kiểu như xe chở tù, tay bị cột bằng dây gân trâu.

Tóc hắn đã dài ra rất nhiều so với lúc mới tới thời đại này, bị mưa rả rích thấm ướt rũ xuống.

Quân Giang Đông ai cũng để tang, vẻ mặt bi thương, Tôn Kiên thảo phạt Lưu Biểu bỏ mình, hiện quân lính đang đưa di thể của Thái thú Giang Đông về Ngô Quận hạ táng.

Sau khi phân phó bắt giữ Kỳ Lân xong, Tôn Sách cũng mặc kệ hắn, nhưng một ngày ba bữa, đồ ăn thức uống đầy đủ, trông coi vô cùng lễ phép, ngoài không đánh mắng, lúc dừng chân hạ trại Kỳ Lân còn được thả ra cho giãn gân giãn cốt, cách đối xử tựa hồ không giống tù binh.

Trên đường, cứ đi rồi dừng, dừng rồi lại đi, binh lính tướng sĩ không ai nói chuyện, nửa câu tin tức Kỳ Lân cũng không nghe được.

Chạng vạng của một ngày nào đó, khi đến được phụ cận Trường Sa, trên đồi cây cối điêu linh, lá vàng bay khắp núi, chim tước rời khỏi rừng cây, bay về thiên không.

Kỳ Lân ngửa đầu nhìn thoáng qua, huýt sáo một tiếng.

Một con ưng xám ở trên cao bay vài vòng, rồi xoay người bổ nhào về phía Đông.

Toàn bộ binh sĩ dừng lại.

Kỳ Lân nói với lính canh: “Phía trước có mai phục, đi báo cho chủ công nhà ngươi biết đi.”


“Sao ngươi biết?” Vài tên lính thường ngày trông coi Kỳ Lân từng trao đổi đôi câu, theo cách nói chuyện, thiếu niên này không phải nhân vật tầm thường, vừa mở miệng là bí mật quân cơ, cũng không dám chần chờ.

Nên một trong số đó chạy đi bẩm báo với Tôn Sách, lát sau quay lại hỏi: “Thiếu chủ hỏi ngươi vì sao lại nói như thế, có thể nói rõ hơn không?”

Kỳ Lân nghĩ nghĩ, đáp: “Chạng vạng là thời điểm chim muôn về tổ, nhưng chim trong rừng lại sợ hãi bay xa trên diện rộng, chắc chắn có một toán quân lính đã tiến vào mai phục ở rừng cây phía trước, vừa rồi ta còn thấy chim ưng dò đường nữa.”

Sắc mặt người kia chăm chú, lại chạy đi hồi báo, không lâu sao quay lại nói: “Thiếu chủ nói đã biết, làm phiền tiểu tiên sinh.”

Đoàn xe ngừng một chốc, lại đi tiếp, Kỳ Lân cố nhìn lên đội ngũ phía trước, cũng không thấy Tôn Sách an bài binh lực, cứ như thường.

Kỳ Lân hơi nhíu mày, cảm thấy có chút hứng thú.

Tà dương sắp tắt, sương chiều bao phủ, mưa lại rả rích, quân Giang Đông đốt đuốc lên, đi xuyên qua rừng rậm quanh co, một tiếng huýt chói tai vang lên, ngay sau đó, xa xa có tiếng kêu đè nén của binh sĩ.

“Có đánh lén!”

“Coi chừng!”

Tiếng rít của tên sáo(*) xác định điểm rơi cho vũ tiễn, ngựa hoảng sợ tán loạn, quân đội phía trước truyền lệnh xuống:

“Thiếu chủ có lệnh, toàn bộ mọi người, nhanh chóng hành quân vượt qua!”

Không ngờ Tôn Sách lại hạ lệnh chạy trốn, không bao lâu sau trong rừng đã bắt đầu hỗn chiến, đối thủ là ai còn chưa biết mà bên ta đã bị loạn tên bắn hạ gần trăm người, khi ngựa tăng tốc, có một người giục ngựa đến, chém một kiếm vào khóa sắc trên lồng giam: “Đi!”

Thì ra là Tôn Sách, Kỳ Lân càng nghi hoặc hơn, hắn định làm gì vậy?

Loạn tên rơi như mưa, đã không còn phân biệt được nơi nào địch ta nữa, trận hỗn chiến đã vô cùng rối loạn, Kỳ Lân phóng người lên chiến mã, nói: “Các tướng sĩ phía sau phải làm thế nào?”

Tôn Sách quát: “Đừng hỏi! Đi mau!” Dứt lời xoay trường kiếm trên tay, chém đứt dây gân trâu trói tay Kỳ Lân, hai tay được tự do, Kỳ Lân nói: “Đưa ta một cây cung.”

Tôn Sách dẫn Kỳ Lân giục ngựa chạy như điên, quân Giang Đông ở hai bên vội vàng tập hợp, theo sau hai người, Kỳ Lân phóng ngựa theo sát, lặp lại lần nữa: “Đưa cung tiễn cho ta! Đuổi sát lắm rồi!”

Tôn Sách cúi đầu tránh tên bay, nói lại: “Nếu ngươi không đi theo…” Lời còn chưa dứt, miếng hộ tâm sau lưng bị một mũi tên bắn nát!

Chúng tướng kinh hoảng hô to: “Bảo hộ thiếu chủ!”

Kỳ Lân quát lên: “Ngươi chớ xía vào!”

Tôn Sách theo lời cởi trường cung trên lưng xuống, cưỡi ngựa chậm lại đi song song trao cho Kỳ Lân, Kỳ Lân nhận lấy xong lại nói: “Cho ta thêm một hỏa tiễn!” Buông dây cương, tì cung lên eo, nhận hỏa tiễn đặt lên cung, mượn lực eo kéo căng dây.

“Hay lắm–!” Xa xa vang lên tiếng lão binh khen ngợi cổ vũ.

Tên đã lên dây, Kỳ Lân cũng không bắn ngay, tiếp tục cưỡi ngựa như bay, lại một mũi tên sáo rít gào bay tới giữa không trung, tích tắc đó, trong đêm mờ tối hắn nắm chắc vị trí của kẻ bắn tên, lập tức buông tay.

Hỏa tiễn cháy rừng rực chói mắt, hóa thành một ngôi sao băng trong đêm mưa mịt mù.

“Nỏ thủ nghe lệnh, điều chỉnh vị trí, bắn!” Tôn Sách ăn ý phối hợp, giơ kiếm hạ lệnh.


Trăm ngàn lợi nõ rời cung bay đi, dưới sự dẫn dắt của hỏa tiễn, bay về phía sâu trong rừng rậm. Lấy tên chế tên, cung thủ trong rừng lập tức không phản ứng kịp, trở nên hỗn loạn, có tiếng la hét đau đớn, tất nhiên là do trúng tên.

Tôn Sách thở ra, lệnh: “Đi!”

Quân Giang Đông chạy ra khỏi rừng cây, coi như vượt hiểm thành công, tướng sĩ nhanh chóng tập kết trên bãi sông, không còn chút rối loạn nào.

Một lão tướng quân cười vang, dẫn hơn trăm người đến tiếp ứng, từ xa đã hô hào: “Mới rồi ai bắn tên đấy?”

Tôn Sách lớn tiếng đáp lại: “Người bắn tên không biết, nhưng tên phục kích thì có biết, chính là Cam Ninh.”

Vị lão tướng kia cũng không tiếp tục truy hỏi, chỉ nói: “Chỗ này ở lâu không được đâu, sợ là sẽ sinh nhiều rắc rối đấy, mời thiếu chủ đi theo Công Phúc.”

Bên bờ Trường Giang, thuyền đã chuẩn bị sẵn sàng, binh lính bắt đầu lên thuyền, trải qua một đêm chạy tới chạy lui, cả người Kỳ Lân bùn sình văng đầy, lẳng lặng đi theo quân Giang Đông không hỏi gì nhiều, đến khi sắp xếp đâu vào đấy, mười chiếc thuyền chiến giương buồm xuất phát trong đêm, lúc này mới có thể thở ra một hơi.

Vừa rồi lên tiếng cỗ vũ trong rừng và tiếp ứng trên bờ chính là Hoàng Cái, lúc này cũng đã lên thuyền, đến gặp Tôn Sách tâm sự hồi lâu, một phen nước mắt như mưa. Kỳ Lân không tiện ở lại nên ra mép thuyền đứng hóng gió đêm, sau có thân binh dưới trướng Tôn Sách đến mời:

“Chủ công mời tiên sinh đi thay quần áo sạch, rồi vào trong nói chuyện.”

Kỳ Lân vui vẻ theo thân binh đi vào một khoang thuyền, nước ấm, quần áo khô đều chuẩn bị sẵn. Kỳ Lân tắm xong, tinh thần sảng khoái. Tôn Sách lại phái người mời hắn đến khoang chính.

Hoàng Cái đã cáo lui, Tôn Sách cho thân binh nghỉ ngơi, khôi giáp cũng cởi xuống, dưới ngọn đèn có thể thấy được áo đơn ẩm ướt.

Kỳ Lân chắp tay hỏi: “Hiện giờ phải về Thọ Xuân sao?”

Tôn Sách gật gù đáp: “Vài ngày trước đã đắc tội không ít, tiểu tiên sinh có phải là thuộc hạ của Ôn Hầu không? Hầu gia thế nào?”

Gương mặt thanh tú của Kỳ Lân dưới ánh đèn lộ ra hồng hào, kim châu trên cổ lấp lánh xinh đẹp, hắn chăm chú nhìn Tôn Sách, nhận ra Tôn Sách còn chưa kịp thay quần áo.

Kỳ Lân đang mặc áo đơn khô mát, có phần rộng rãi hơn so với binh lính bình thường, chắc là nước ấm hắn tắm và quần áo này chuẩn bị cho Tôn Sách nhưng dột nhiên Hoàng Cái đến.

Kỳ Lân âm thầm biết ơn, nói ra tên họ, rồi trả lời: “Ôn Hầu giao chiến với Viên Thiệu, thua rồi, nửa tháng trước đã rút quân ra khỏi Trường An.”

Tôn Sách gật đầu: “Kẻ gian làm loạn triều chính, Lã Phụng Tiên cam chịu ẩn nhẫn chờ thời cơ, chịu miệng đời bêu xấu, có thể nhịn chuyện nhỏ là người đại dũng, xưa nay ta luôn kính nể nam nhân vĩ đại ấy.”

Kỳ Lân đến bên cạnh giúp hắn dọn một chỗ ngồi: “Đáng tiếc, cuối cùng vẫn thua trong tay Viên Thiệu, Tào Tháo. Tên lỗ mãng đó không biết thế nào rồi, chắc là cũng đang làm ba cái chuyện tào lao chạy bậy chạy bạ.”

Tôn Sách cười: “Binh gia thắng bại là chuyện thường tình, từ xưa ác không thắng thiện, Ôn Hầu chắc chắn sẽ có ngày khởi sắc. Mấy hôm trước nhìn thấy kim châu trên cổ ngươi, ta đã biết ngươi là người của Phấn Vũ tướng quân. Chỉ là trong quân ta có mật thám của Viên thị…”

Kỳ Lân chợt hiểu: “Có gian tế lẻn vào quân Giang Đông?”

Tôn Sách gật đầu, đi đến trước mặt Kỳ Lân cúi người vái, Kỳ Lân vội vàng đứng dậy đỡ lên.

Tôn Sách quay lại chỗ ngồi nói tiếp: “Vốn nghĩ giữa Ôn Hầu và Viên Thiệu có hiềm, binh lực trong tay Bá Phù ít ỏi, không thể cử người đưa ngươi về Bắc. Nếu ngươi muốn đi nhanh, hai châu Kinh Dương ở phía Bắc cho đến Ký Châu đều thuộc quyền của huynh đệ Viên gia, trên đường chỉ sợ lành ít dữ nhiều, nên mới giả vờ làm khó để ngươi ngồi xe tù.”

Kỳ Lân hiểu ra, cười nói: “Không sao cả, ta nên đa tạ ngươi mới đúng.”

Tôm Sách mỉm cười: “Vừa rồi đột nhiên giao chiến, ngươi cũng là thân tín của Hầu gia, chuyện lớn hơn chắc cũng gặp qua rồi, nên không đến nỗi bị hoảng sợ.”

Kỳ Lân lại hỏi: “Gian tế của Viên Thiệu, Viên Thuật trong quân của ngươi đã diệt chưa?”

Tôn Sách vui vẻ đáp: “Tối nay đã diệt sạch sẽ.”

Kỳ Lân nói: “Mượn đao giết người, xếp gian tế của Viên Thuật hành quân ở phía cuối, thừa dịp rối loạn để cho người của Lưu Biểu giết, ý kiến hay.”

Tôn Sách ngầm hiểu cười cười, trông có vẻ ranh mãnh, chốc sau lại nói: “Chỉ là âm mưu quỷ kế, thật ngại quá. Ngày mai cập bờ Trường Sa, ta chuẩn bị ngựa cho ngươi, đưa ngươi lên đường về phía Bắc tìm kiếm tung tích của quân Tịnh Châu.”

Kỳ Lân từ chối: “Không, ta chưa muốn quay lại tìm Lã Phụng Tiên, lúc trước… ừm, thật ra ta bị hắn đuổi đi, mà thôi đừng nói mấy chuyện này, về sau có cơ hội rồi hẳn nói.”


Tôn Sách cũng không hỏi nhiều, chỉ trả lời: “Vậy cũng được, nếu không chê, ngươi theo ta về Thọ Xuân chơi mấy ngày đi?”

Kỳ Lân nghĩ nghĩ: “Cũng được, trong thời gian này, để ta làm khách khanh của ngươi đi, gợi ý cho ngươi vài ba chuyện gì đó, chuyện lớn thì tất nhiên là ngươi phải tự mình quyết định. Còn nếu không tiện thì cho ta một con ngựa thường thường cũng được, ta đi ngao du đây đó, sau này có dịp sẽ trả ơn.”

Tôn Sách cười to: “Nuôi nhiều người như vậy còn được, huống chi ngươi chỉ ở mấy ngày.”

Kỳ Lân nói chuyện hồi lâu với Tôn Sách, về khoang thuyền của mình mà lòng cảm khái. Thời đại này vẫn có người tình nguyện tin tưởng và làm bạn với một người, Tôn Sách đủ ưu tú, đủ khí chất để trở thành một người đứng đầu, vừa niềm nỡ, vừa không gây phản cảm, thân thiết khôi hài, như người bạn lâu năm vốn dĩ là thân thiết như vậy.

Lã Bố thì ngược lại, nếu đem so sánh, quả thật khác nhau một trời một vực, đã hẹp hòi lại ngạo mạn, nhớ ngày trước Trần Cung đến làm khách còn có lòng nhờ cậy, Lã Bố không coi hắn ra gì.

Nếu là người cùng thời như Tào Tháo hay Lưu Bị, đối xử với mưu sĩ có khi chạy ra đón không kịp xỏ giày. Không so thì không biết, so rồi mới thấy không biết tốt hơn.

Nói đi thì cũng phải nói lại, làm mưu thần dưới quyền những người ưu tú chắc hẳn rất vất vả, Kỳ Lân tự thấy mình cũng không có danh tiếng gì, vậy cũng tốt, bắn chim thì bắn con đầu đàn, cây to đón gió lớn, cứ nghỉ ngơi một thời gian rồi tính tiếp.

Nếu Lã Bố là người bồng bột bừa bãi, mình có quay về thì hơn phân nửa là lại bị đuổi đi, cứ chờ xem sao, đến khi chiến cuộc ở huyện Phi nổ ra rồi hẳn về dòm một chút.

Sáng sớm ba ngày sau, Kỳ Lân vừa mới thức dậy, thấy có một tờ giấy nhẹ nhàng bay bay, đáp xuống mặt hắn.

Đồng chí Tiểu Hắc:

Khó khăn, thất bại của con, chúng ta đều biết, thư này là do Hạo Nhiên sư thúc chấp bút, ta thay mặt tổ chức sâu sắc an ủi con.

Thái sư phụ của con hay tin con bị vứt bỏ, bị ruồng rẫy, biết được con gặp phải những hoàn cảnh gian khổ, đau lòng đến nỗi cơm cũng ăn ít đi mấy chén, đang hối hận không biết có nên bắt con về hay không.

Hắn giận đến nỗi ‘Đồ gia dụng đường hầm thời không đa dạng đa góc độ địa điểm xác định truyền tống trận’, gọi tắc là ‘Ngăn bàn thời gian Doreamon’ cũng phải tạm dừng nghiên cứu, thay vào đó dốc toàn lực phát triển ‘Máy bắn tinh thần lực tìm người chịu nguyền rủa thay vượt thời không’ – gọi tắc là ‘Hình nhân thế mạng’. 

Nhưng hiện tại chưa có ảnh chụp của Lã Bố, hắn hy vọng trong thư sau con sẽ miêu tả tướng mạo của Lã Bố một chút, sẵn tiện có cái dán lên mặt hình nộm.

Khẩu vị của con không đúng ý sư phụ con gì cả, đại sư huynh mặt than của ta sau khi biết chuyện, ngoài miệng thì nói con vô dụng, chứ thật ra trong lòng cũng buồn lắm, bình thường ăn cả bốn chén cơm, giờ chỉ còn hai, giảm hẳn hai chén to.

Kỳ Lân: “…”

Tiểu Hắc thân ái, ta cảm thấy chuyện đó cũng không sao cả.

Ta đoán, có lẽ hắn cũng có nỗi khổ riêng chăng? Hoặc là tình hình chiến trận thực tế ở Trường An vượt ra ngoài dự liệu của hắn, nên mới không đến đón con được.

Dù sao hỏi cho ra lẽ vẫn tốt hơn.

Lại nói, có câu ‘lãng tử quay đầu quý hơn vàng’ hoặc là ‘tiểu biệt thắng tân hôn’, e hèm… hình như mấy câu này chưa đúng lắm thì phải.

Mà dù con có lựa chọn ai, chúng ta đều chắn chắn ủng hộ con, cỗ máy thời gian nghiên cứu cũng tàm tạm rồi, không bao lâu nữa tập thể chúng ta sẽ xuyên đến chỗ con, ra chiến trường chơi một thời gian.

Chiến trường là nơi năng lượng tinh thần của con người được phóng ra trên diện rộng, cũng là nơi sinh mệnh dần dần rời bỏ thân thể, nếu mở một cánh cửa không gian ở đó tính ra khá an toàn, ít xuất hiện vấn đề phiền phức.

Vốn dĩ đã lên kế hoạch đến chiến trường Xích Bích ngắm cảnh, nhưng với tình hình hiện giờ chắc phải đến sớm một chút. Con nhớ chăm sóc bản thân, đi xa có nhiều việc rất gian nan.

——Hạo Nhiên.

Mười ngày sau, Tôn Sách về đến Thọ Xuân, đến gặp Viên Thuật tính toán việc giao nhận binh sĩ, vậy mà Viên Thuật thẳng tay cắt lấy gần hai ngàn thuộc hạ cũ của Tôn Kiên.

Tôn Sách suýt chút đã trở mặt với Viên Thuật ngay tại chỗ, nhưng Kỳ Lân nháy mắt liên tục, ý bảo đừng nóng vội nhất thời. Tôn Sách không thể làm gì, chỉ đành nhượng bộ, giao ra ngọc tỷ hồi trước Tôn Kiên tìm được trong thành Lạc Dương, cuối cùng suất lĩnh hơn trăm thân binh rời khỏi Thọ Xuân.

——————————-

Chú thích:

Tên sáo: mũi tên có gắn còi, khi bắn đi với tốc độ cao sẽ tạo ra âm thanh, thường được dùng làm tên lệnh. Tên lệnh là mũi tên bắn đầu tiên, làm mục tiêu chung cho những cung thủ còn lại bắn theo. Trong truyện tôi sẽ dùng tên lệnh và tên sáo như nhau nhé.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.