Nhật ký A - B

Chương 44: Ngoại truyện 02 phần 2


Bạn đang đọc Nhật ký A – B – Chương 44: Ngoại truyện 02 phần 2

3.
“Ồ?” Cảnh sát Hoàng vẫn khách khí, vẻ mặt rất bình tĩnh lộ ra một tia vui sướng, giống như rốt cục tìm được người có cùng ý tưởng với anh ta.
“Lúc Tư Nguyên nói muốn kết hôn với cô ấy, tôi lập tức đưa ra phản đối. Thậm chí về sau từng có vài lần tranh cãi kịch liệt, hai bên đều nói một số lời khó nghe.”
“Lời khó nghe?”
Anh khổ sở nhíu lông mày: “Chính là đại loại như tuyệt giao, tôi thậm chí nói với anh ấy, kết hôn với cô ấy không có kết cục tốt… Anh ấy rất tức giận.”
“Vậy thì đương nhiên, khi người ta muốn kết hôn anh lại hắt một chậu nước lạnh, ai cũng phải tức giận thôi.”
Anh cười khổ một cái, có lẽ cũng hiểu được hành vi trước kia của mình có điểm không thích hợp: “Đây là lý do tại sao… ba năm nay chúng tôi chưa từng liên lạc.”
“Vậy vì sao khi trở về lại gặp anh ta đầu tiên?”
“Bởi vì…” Anh rủ đôi mắt xuống, nhìn thấy các đốt ngón tay của mình trở nên trắng bệch, “ Một tháng trước anh ấy gọi điện thoại cho tôi.”
“Gọi cho anh? Nói cái gì?”
“Xin lỗi tôi, còn có… lúc trước nên nghe lời khuyên của tôi.”
“A…” Vị cảnh sát kinh ngạc gật đầu, “Anh ta có nói nguyên nhân hay không?”
“… Không có, vì vậy sau khi trở về thì tôi muốn đến gặp anh ấy.”
“Như vậy, tại sao anh khuyên anh họ đừng kết hôn với cô ấy, anh không thích cô ấy sao?”
“… Có thể là vậy.”
“Vì sao? Tôi cảm thấy cô ấy có vẻ rất hoàn mỹ,” vị cảnh sát nói một cách thẳng thắn, “Chiều nay khi tôi ở nhà anh họ của anh lần đầu tiên nhìn thấy vị phu nhân này, tôi đã có một loại cảm giác mãnh liệt. Nhưng loại hoàn mỹ này cũng khiến người ta cảm thấy nghi ngờ…”
Sĩ Văn kéo khoé miệng, không nói gì.
“Tôi biết, tại sao anh không thích cô ấy?”
Anh ngẩng đầu, không đáp mà hỏi lại: “Vậy tại sao anh lại đưa ra nghi ngờ đối với cô ấy?”
Vị cảnh sát như là lần đầu tiên bị người khác vặn hỏi, đầu tiên anh ta ngẩn người, sau đó cười rộ lên: “Là bởi vì trực giác của cảnh sát.”
“Như thế,” Sĩ Văn bất giác cười khổ, “Tôi bởi vì trực giác của nhà văn tiểu thuyết trinh thám.”
Cảnh sát Hoàng gật đầu: “Thế nhưng dựa vào trực giác liền mạnh mẽ phản đối hôn nhân của anh họ, người em trai như anh, có phải quản quá nhiều hay không?”
Anh thu lại nụ cười, rủ đôi mắt xuống, suy nghĩ một chút rồi mới quyết định nói thẳng ra:
“Kỳ thật, Chung Tình đã từng kết hôn một lần.”
“Ừm, tôi đã xem qua hồ sơ hiện tại và sổ hộ khẩu của cô ấy.”
“Chồng cô ấy chính là bạn thời đại học của tôi, quan hệ cũng không tệ lắm, tên là Kỳ Viêm Bân.”
Cảnh sát Hoàng gật đầu, ý bảo anh nói tiếp tục.
“Bọn họ yêu đương lúc ở đại học, được công nhận là kim đồng ngọc nữ, sau khi tốt nghiệp không bao lâu thì kết hôn, chúng tôi vẫn cho rằng bọn họ hẳn là rất hạnh phúc.”
“Nhưng trên thực tế thì sao?”
“… Trên thực tế,” Sĩ Văn ngẩng đầu, “Chung Tình đã rất bất hạnh. Sau khi kết hôn Kỳ Viêm Bân có khuynh hướng bạo lực gia đình, có lẽ bởi vì sự nghiệp thất bại, loại khuynh hướng này ngày càng nghiêm trọng. Nghe nói Chung Tình bị đánh rất nhiều lần, thậm chí có một lần báo án, nhưng vì hậu quả tạo thành không thật sự nghiêm trọng nên cảnh sát cũng không quản được. Cô ấy muốn ly hôn, Kỳ Viêm Bân không đồng ý, cậu ta là một người… nói thế nào nhỉ, có điểm cố chấp, một khi nhận thức một cách chắc chắn thì sẽ không buông tay.”
Cảnh sát Hoàng kinh ngạc nhìn anh: “Như vậy anh nên đồng tình với cô ấy mới đúng chứ, cuộc sống như thế quả thật là địa ngục.”
“Có lẽ vậy…” Anh trầm mặc trong chốc lát rồi mới nói, “Nhưng có một ngày, khi Kỳ Viêm Bân uống say về nhà, không cẩn thận lăn xuống bậc thang, ngã chết.”
“A…”
“Từ đấy Chung Tình được giải thoát,” khi nói lời này, Sĩ Văn dùng một giọng điệu nặng nề, “Nhưng mà, giữa những bạn học của chúng tôi bắt đầu lưu truyền một lời đồn đáng sợ…”

“?”
“Là cô ấy đẩy Kỳ Viêm Bân xuống – bởi vì cô ấy không nghĩ ra cách khác có thể thoát khỏi cậu ta.”
“À… Hai người chồng đều chết oan uổng quá…” Cảnh sát Hoàng dường như có chút đăm chiêu nói, “Nhưng chỉ là lời đồn, cũng không thể tin.”
Nguyễn Sĩ Văn ngẩng đầu, trong ánh mắt có vẻ ưu sầu: “Anh nói đúng. Nhưng khi anh biết những điều đó, nhìn lại cô ấy, chẳng lẽ không có ý nghĩ gì sao? Là cái gì có thể làm ột người phụ nữ đã trải qua những bất hạnh đó còn có thể duy trì một loại biểu cảm… gần như ngây thơ và hồn nhiên?”
Cảnh sát Hoàng trầm mặc, qua một hồi lâu mới nói: “Vì vậy, anh nghi ngờ cô ấy giả vờ?”
Anh gật đầu.
Không khí ở trong phòng ngưng tụ, hai người đàn ông suy nghĩ cùng một vấn đề, nhưng rồi lại không tìm ra đáp án.
“Cảnh quan, vụ Tư Nguyên… là án giết người sao?”
“… Căn cứ vào tình huống hiện nay, đúng vậy.”
Mặc dù sớm đã chuẩn bị tâm lý, nhưng nghe thấy câu trả lời như vậy, Sĩ Văn vẫn không tránh được một trận buồn nôn, anh tựa lưng vào ghế, thấp giọng nói: “Trời ơi…”
“Tôi nghĩ anh đã nghe người khác kể lại, người làm công đến Nguyễn gia dọn dẹp, vốn nghĩ trong nhà không có ai – bởi vì bà ta đã làm rất nhiều năm nên có chìa khoá – nhưng một lát sau bà chủ trở về, hai người lên lầu tìm ông chủ, thì phát hiện người nằm trong phòng sách, cái ót bị đập vỡ.”
“Bị… bị cái gì…” Anh cảm thấy khó thở.
“Hẳn là vật không bén, còn chưa xác nhận hung khí.” Có lẽ bởi vì Sĩ Văn là nhà văn tiểu thuyết trinh thám cho nên cảnh sát Hoàng nói rất trực tiếp, coi anh như là thám tử trong sách.
Cảnh sát Hoàng ngẩng đầu nhìn đồng hồ trên tường, rồi đẩy vài tờ giấy trước mặt anh: “Anh xem thử biên bản có vấn đề không, nếu không sao thì hãy ký tên, sau đó anh về trước đi.”
Sĩ Văn gật đầu, lướt qua loa vài lần, rồi ký xuống.
“Đúng rồi, Nguyễn tiên sinh, anh phải ở lại bao lâu?”
Anh lắc đầu: “Bao lâu đều có thể.”
“Cũng được, đã xảy ra chuyện như vậy…” Cảnh sát Hoàng lấy ra danh thiếp trong túi áo đưa cho anh, “Nếu nhớ tới cái gì, hoặc là có manh mối gì, xin mời anh lập tức gọi điện thoại cho tôi.”
Anh không gật đầu cũng không lắc đầu, nhận lấy danh thiếp, mở cửa phòng rồi đi thẳng ra ngoài.
Tối nay, Nguyễn Sĩ Văn gọi điện thoại cho cha mẹ ở Canada đầu tiên, hai ông bà sợ ngây người, ngay cả mẹ vừa nghe tin tức liền khóc lên, mọi người giống như đều không thể tin. Anh phải cố gắng an ủi cha mẹ, sau đó dặn dò vài câu rồi mới cúp điện thoại.
Một đêm anh không ngủ, trong đầu xuất hiện bóng dáng của Tư Nguyên nhiều lần.
Bọn họ không phải anh em họ theo nghĩa bình thường, khi Tư Nguyên học trung học thì cha mẹ qua đời vì tai nạn giao thông, vì vậy Tư Nguyên sống trong nhà Sĩ Văn rất nhiều năm, mãi cho đến khi anh tốt nghiệp đại học. Cha mẹ của Sĩ Văn cũng coi anh như con mình.
Lúc còn bé, bọn họ luôn thừa dịp người lớn không chú ý mà bò lên trên nóc của nhà ông nội. Nóc nhà kia sắc nhọn, được từng mảnh ngói bao phủ. Bọn họ thích đứng trên nóc nhà giả vờ mình là thủy thủ, anh đứng “đầu thuyền”, Tư Nguyên đứng “cuối thuyền”, bọn họ tự xưng là những đứa nhỏ lang thang, giữa “cuồng phong bão táp” mà tiến về phía trước. Khi lớn lên một chút, Tư Nguyên cảm thấy “trò chơi” này rất ngây thơ, cho nên mỗi lần chỉ ngồi trên ngói nhìn anh, trên mặt mang theo nụ cười của anh cả. Sau khi trưởng thành, chính anh cũng ghét nóc nhà nhất thành bất biến (đã hình thành thì không thay đổi) này, rất ít khi đi lên. Cho đến khi bác cả và bác gái qua đời, mọi người làm sao cũng không tìm thấy Tư Nguyên, là Sĩ Văn nhanh trí hơn, lên nóc nhà tìm được anh.
Anh chưa từng thấy qua Nguyễn Tư Nguyên như vậy, đầu chôn vùi trong hai cánh tay, có vẻ yếu ớt, không hề là người anh cả dũng cảm nhất trong mắt anh. Anh đi qua, giống như người lớn nhỏ bé vỗ vai Tư Nguyên, lặng lẽ ngồi cùng anh cho đến khi nắng chiều hoàn toàn tan biến.
Tôi hôm đó Tư Nguyên nói, từ nay về sau anh là một người lang thang chân chính, người lang thang trên nóc nhà.
Trong đáy lòng, Sĩ Văn vẫn cho rằng trong quá trình trưởng thành của anh Tư Nguyên đóng một vai trò rất quan trọng, thậm chí anh bắt đầu sáng tác cũng bởi vì Tư Nguyên khích lệ.
Người này thật quan trọng với anh như vậy, thế nhưng đã chết… ngay ngày hôm nay.
Anh đứng dậy đi đến trước cửa sổ, châm một điếu thuốc rồi hút, nước mắt liền chảy xuống.
4.
Sáng sớm hôm sau, Sĩ Văn vốn lái xe đến biệt thự của Tư Nguyên, nhưng phát hiện biệt thự bị phong toả để điều tra án, xung quanh vẫn vây quanh rất nhiều người xem náo nhiệt như là ruồi bọ dính vào bánh ngọt.
Biệt thự chiếm diện tích không lớn, tổng cộng ba tầng, bề ngoài rất tân thời, là Tư Nguyên mua trước khi kết hôn. Căn nhà nằm ở vùng ngoại ô thành phố, cả khu vực nhỏ đều là những biệt thự riêng biệt như vậy, Sĩ Văn đoán rằng bình thường nơi này rất yên tĩnh, xảy ra chuyện thế này mới lập tức náo nhiệt lên. Anh ở xung quanh đi vài vòng nhưng không có cách đi vào. Anh đứng bên ngoài nhìn ngôi nhà kia, tưởng tượng bộ dáng ở bên trong của Tư Nguyên, anh không dám nghĩ tới Tư Nguyên làm sao bị giết hại, điều đó làm cho anh cảm thấy rất khó chịu, tựa như có người bóp cổ anh khiến anh không thể hít thở.
Từ rất xa, có người vẫy tay với anh, anh nhìn kỹ, là cảnh sát Hoàng, anh vội vàng nhanh chóng bước qua.
“Cảnh quan.”
“Xin chào.”

Hai người gật đầu, xem như chào hỏi.
“Anh đến làm gì?” Cảnh sát Hoàng hỏi.
“… Tôi đến thăm.”
Cảnh sát Hoàng nhíu lông mày, nói: “Nguyễn tiên sinh, anh không phải muốn tự điều tra chứ?”
Khi anh ta gọi “Nguyễn tiên sinh” vẫn mang theo một sự tôn kính, Sĩ Văn cười khổ một chút, không gật đầu cũng không lắc đầu.
Cảnh sát Hoàng lại nghiêm túc nói: “Tôi đã đọc qua tiểu thuyết trinh thám do anh viết, thật sự viết rất khá, rất đặc sắc, nhưng điều tra phá án của thực tế và tiểu thuyết vẫn khác nhau. Anh đừng đem cái gọi là ‘thám tử tư’ trong sách vào cuộc sống hiện thực, không thể thực hiện được đâu, thậm chí có thể gây trở ngại cho việc điều tra của cảnh sát chúng tôi.”
Sĩ Văn kéo khoé miệng, nghĩ thầm câu cuối cùng trong lời nói kia mới là trọng điểm. Nhưng anh không để “cảnh cáo” của cảnh sát Hoàng đặt ở trong lòng, mà hỏi: “Có tiến triển gì không?”
Cảnh sát Hoàng lắc đầu, không trả lời, chẳng biết là “không có”, hay là không muốn trả lời.
Anh không nản lòng: “Tìm được hung khí rồi chưa?”
“Tạm thời không thể trả lời.”
“Vậy có tình nghi ai không?”
Cảnh sát Hoàng dừng một chút, nói: “Anh cũng biết, tạm thời tôi không thể tiết lộ những điều đó với anh, tất cả chờ điều tra phá án xong rồi nói sau.”
Nói xong, anh ta liền xoay người đi vào cửa lớn của biệt thự.
Sĩ Văn không cam lòng ở bên ngoài vòng vo, cảm thấy thật sự không có cách đi vào nên anh mới rời khỏi.
Giữa trưa, Sĩ Văn dựa vào số điện thoại do họ hàng đưa à gọi Chung Tình, nhưng không ai tiếp điện thoại, anh gọi liên tục trong vài giờ, đều như vậy, anh bắt đầu cảm thấy bất an, vì thế lấy ra danh thiếp của cảnh sát Hoàng, chiếu theo số điện thoại trên danh thiếp mà gọi tới.
Tiếng chuông vang lên 4, 5 lần mới được tiếp máy, cảnh sát Hoàng dùng giọng điệu hoà nhã nói: “Xin hỏi vị nào?”
“Tôi là Nguyễn Sĩ Văn,” anh trả lời, “Tôi muốn báo với anh, tôi đã gọi điện cho Chung Tình mấy giờ đồng hồ nhưng vẫn không có ai nhận máy.”
Anh không nói thêm gì nữa, bởi vì anh đoán đối phương hẳn là hiểu được ý tứ của anh, cho dù nói thế nào, Chung Tình coi như là một trong những người bị tình nghi.
“À…” Đầu dây bên kia dừng lại, “Cô ấy đã bị tạm giữ.”
Anh ngỡ ngàng: “Cô ấy thú nhận?”
“Không có.”
“…”
“Nhưng tại hiện trường có chứng cứ bất lợi đối với cô ấy.”
“Cái gì?”
Giọng điệu của cảnh sát Hoàng rất bình tĩnh nói: “Trước khi chết, người chết dùng máu viết một chữ ‘Tình’ trên tấm thảm.”
Cúp điện thoại, Nguyễn Sĩ Văn đi đến trước cửa sổ, nhìn về phía xa, đó là phương hướng của nhà Tư Nguyên, mặc dù cách nhau ngàn dặm, anh dường như có thể nhìn thấy bóng dáng của căn biệt thự màu trắng kiểu Tây Ban Nha.
Anh không biết lúc ấy Tư Nguyên có tâm tình như thế nào viết xuống chữ “Tình”…
Đêm nay anh không mất ngủ, nhưng cho dù trong mộng, anh vẫn bị vấn đề này quấy nhiễu.
Sáng sớm hôm sau khi anh ở dưới lầu ăn sáng, bỗng nhiên nhận được điện thoại của cảnh sát Hoàng.
“Có tiến triển sao?” Anh vội vã đặt câu hỏi trước tiên.
“Còn chưa?”
“…”

“Tôi gọi cho anh là muốn nói với anh, chúng tôi thả Chung Tình.”
“!” Anh kinh ngạc, “Vì sao?”
“Bởi vì, cô ấy có bằng chứng ngoại phạm hoàn hảo.”
5.
Phòng làm việc của Chung Tình nằm gần toà biệt thự kiểu Tây Ban Nha màu trắng, một chuyến lái xe chỉ cần 20 phút, chỗ này tương tự khu thương mại, cao ốc văn phòng, nhà hàng, rạp chiếu phim, trung tâm giải trí tương đắc ích chương (hợp lại tăng thêm sức mạnh).
Trôi qua một tuần, thi thể của Nguyễn Tư Nguyên đã phân tích xong, nhưng tạm thời vẫn chưa chuyển về, vì vậy khi Sĩ Văn nhận được thông báo của Chung Tình nói muốn tổ chức lễ tưởng niệm, anh không khỏi kinh ngạc. Cái gọi là “lễ tưởng niệm”, là hình thức gần giống lễ truy điệu, chẳng qua thiếu một hủ tro cốt.
Khoảng một giờ chiều anh lái xe đến địa chỉ Chung Tình báo với anh, đó là một toà nhà bốn tầng, ngăn nắp, quả thật giống như một hộp diêm, nhưng bố trí như nhà ở. Sau khi lên bậc thang là một thang máy rộng rãi, có lẽ thường xuyên dùng để vận chuyển hàng hoá, bởi vậy chiều rộng khoảng ba mét. Phòng làm việc của Chung Tình ở lầu ba, cửa thang máy vừa mở ra thì có một cô gái mặc bộ đồ tây màu đen ở cửa nghênh đón khách, sau khi thấy Sĩ Văn cô ấy nhẹ nhàng gật đầu, ra hiệu anh ký tên, sau đó dẫn anh đi vào.
Thiết bị của phòng làm việc rất mới, nhưng trang hoàng thiết kế lại có vẻ cổ xưa, trên tường dán giấy màu be, trên giấy dán tường có thiết kế hoa văn đặc thù, những đoá hoa này màu sắc tươi đẹp, nhìn qua như là hoa hồng, nhưng trên thân cây không có gai, sở dĩ nói nó đặc thù là vì xung quanh đoá hoa được áo lên lớp dầu trong suốt, khi ngọn đèn chiếu rọi xuống, bức tường thấp thoáng phát ra ánh sáng bảy màu. Giấy dán tường này và lễ tưởng niệm không hợp nhau, nhưng Sĩ Văn không khỏi suy nghĩ, chuyện tới nước này cũng không còn cách bận tâm nhiều như vậy.
Chuyện Tư Nguyên đột nhiên bị hại đã hoàn toàn làm xáo trộn cuộc sống yên ổn.
Mời vừa tiến vào phòng khách, anh liền cảm thấy một bầu không khí áp lực, chỗ gần tường đặt ra một cái bàn lớn, trên bàn là một cái khuông hình màu đen thật lớn, khoé miệng của người trong khuông hình mỉm cười, giống như vẫn đang nhìn thế giới này.
Chung Tình đứng ở một góc, toàn thân cũng là bộ đồ màu đen, tóc rủ xuống, vẻ mặt rất mờ ảo – anh thật sự không nghĩ ra từ khác để hình dung – khuôn mặt căng cứng, như là đồ gốm sẽ bị đánh vỡ bất cứ lúc nào.
Anh đứng xa xa nhìn cô, cùng với di ảnh được trưng bày ở bên cạnh cô, thực ra anh muốn chạy qua cúng tế anh trai của mình, bọn họ đã từng cùng nhau trải qua rất nhiều thời gian vui vẻ, cả đời anh khó có thể quên, nhưng anh lại sợ hãi đi qua, bởi vì ở nơi sâu thẳm trong lòng anh, anh đọc được một loại nguy hiểm từ trên người phụ nữ kia, giống như chỉ cần tới gần cô thì sẽ xảy ra tội ác.
“Xin chào…” Cô bỗng nhiên ngẩng đầu nhìn anh, chậm rãi chào hỏi.
“Xin chào,” Sĩ Văn khom lưng, cuối cùng đi qua.
Anh cầm lấy nhang trên bàn, châm lên, nhắm mắt lại chắp hai tay trong lòng mặc niệm, sau đó cắm nhang trên lư hương.
“Còn chưa có… tiến triển gì sao?” Anh cũng không phải thật sự muốn hỏi, mà cảm thấy lúc này cần phải nói gì đó.
“Ừm…” Chung Tình nhẹ nhàng gật đầu.
Có một người đàn ông đi tới, lặp lại động tác vừa rồi của Sĩ Văn, anh nhìn kỹ, hoá ra là người đàn ông trung niên hói đầu đã gặp qua trong phòng khách nhà Tư Nguyên ngày đó.
“Thầy Nguyễn xảy ra chuyện như vậy, thật sự làm cho người ta cảm thấy… khổ sở a…” Nói xong người đàn ông lấy khăn tay lau khoé mắt.
Chung Tình mím môi không nói gì, chỉ là lịch sự nói cảm ơn.
Đợi đến lúc người đàn ông rời khỏi, Sĩ Văn tò mò hỏi: “Ông ta là ai vậy?”
“Là người biên tập của công ty xuất bản.”
“À…” Anh bừng tỉnh hiểu ra.
Người đến liên tục, nhưng hơn phân nửa là có quan hệ đến công việc của Tư Nguyên, hoặc là bạn bè của hai vợ chồng. Thân thích chỉ có một mình Sĩ Văn, anh có chút nghi ngờ vì sao Chung Tình muốn làm lễ tưởng niệm này, nhưng đứng bên cạnh một thời gian dài anh vẫn không hỏi. Đến khi bốn giờ rưỡi, Sĩ Văn cũng quyết định cáo từ, trước khi đi, anh nói mang tính tượng trưng: “Nếu… có điều gì cần giúp, cứ việc nói với tôi.”
Chung Tình nhìn anh một cái, cũng gật đầu mang tính tượng trưng.
6.
Ba ngày sau xảy ra một chuyện khiến Nguyễn Sĩ Văn không thể tưởng tượng được, cảnh sát Hoàng gọi điện cho anh, mời anh đến sở cảnh sát một chuyến, anh đến căn phòng từng được sử dụng làm “phòng thẩm vấn”, sau buổi trưa ánh sáng mặt trời to lớn ở ngoài cửa sổ thủy tinh chiếu rọi vào trong, sáng rực mà ấm áp, anh lập tức cảm thấy mình không giống đang ở sở cảnh sát, mà là trung tâm hoạt động của người cao tuổi nào đó.
“Xin chào, mời ngồi.” Lúc này đây, cảnh sát Hoàng mời anh ngồi trên sô pha bên cạnh.
Anh ngồi xuống, nhìn anh ta, chờ đợi anh ta muốn hỏi vấn đề gì, hoặc là muốn nói gì với anh. Nhưng cảnh sát Hoàng chỉ đặt chiếc đĩa CD trước mặt anh.
“Đây là?”
“Khẩu cung của mọi người.”
Anh kinh ngạc, không biết ý đồ của anh ta.
“Muốn mời anh tới nghe một chút.”
“Tại sao…”
“Anh muốn hỏi tại sao phải làm như vậy?”
“Phải, việc này không phù hợp với phép tắc của các người.”
Cảnh sát Hoàng nở nụ cười, khi cười rộ lên giống như là ông lão đánh cờ trong công viên: “Phép tắc hay không phép tắc, còn không phải do con người quyết định sao?”
“…”
“Nói thẳng vào vấn đề,” cảnh sát Hoàng bỗng nhiên thu hồi khuôn mặt tươi cười, “Vụ án giết người này nhìn qua cũng không phức tạp, nhưng lại khiến người ta cảm thấy thiên đầu vạn tự (hình dung sự việc phức tạp rắc rối) ở trong đó – tôi dùng thành ngữ này đúng không?”

Sĩ Văn không thể không cười khổ gật đầu.
Cảnh sát Hoàng cũng gật đầu theo: “Anh hẳn là biết, mấu chốt của phá án là 72 giờ sau khi gây án, hiện tại cũng đã vượt xa 72 giờ, cho nên tôi muốn nghe ý kiến của anh một chút, dù sao so với chúng tôi anh hiểu người chết hơn nhiều.”
“Vì sao là tôi?” Sĩ Văn nhìn anh ta.
“Thứ nhất, anh là em họ của Nguyễn Tư Nguyên, rất quen thuộc với anh ta. Thứ hai, chúng tôi nhanh chóng loại bỏ sự tình nghi đối với anh. Chẳng qua điều quan trọng nhất là, anh viết tiểu thuyết trinh thám, ít nhiều có chút đầu óc về phương diện này.”
“… Cám ơn.”
“Trước khi nghe ghi âm, tôi muốn nói rõ một chút về tình tiết của vụ án, đương nhiên, bởi vì anh là thân thích của người chết, cho nên cũng có quyền lợi được biết, chẳng qua trước khi còn chưa điều tra vụ án một cách rõ ràng trọn vẹn, chúng tôi không tiện công bố, vì vậy hy vọng anh đừng nói với bất cứ người nào.”
Nguyễn Sĩ Văn mang theo trọng trách nặng nề mà gật đầu, biết được nội dung tiếp theo có thể sẽ làm cho anh khó chịu, anh nói với bản thân, coi như chỉ nghe một câu chuyện trinh thám thôi, không nên suy nghĩ người bị hại là Tư Nguyên là được.
“Quá trình gây án thế này, khoảng ba giờ rưỡi chiều, dì Trần làm công cho Nguyễn gia vào nhà quét dọn, bà ta có một chìa khoá, cho nên tự mình mở cửa đi vào, bởi vì mỗi ngày bà ta đều đến Nguyễn gia quét dọn, thỉnh thoảng người chủ ở nhà, thỉnh thoảng không ở, bởi vậy ngày hôm đó sau khi mở cửa phát hiện trong nhà không có ai cũng không cảm thấy kỳ lạ.”
“Đợi một chút,” Sĩ Văn ngắt lời anh ta, “Nhà Tư Nguyên có ba tầng, làm sao bà ấy có thể kết luận trong nhà không có ai?”
Cảnh sát Hoàng cười cười, ý nói là, anh thật cẩn thận: “Căn cứ vào khẩu cung của bà ta, sau khi bà ta vào Nguyễn gia bình thường sẽ kêu lớn tiếng ‘tôi đến rồi’ hoặc là ‘trong nhà có người không’, cụ thể thì đợi lúc nghe ghi âm sẽ rõ.”
Sĩ Văn gật đầu, ý bảo cảnh sát Hoàng tiếp tục nói.
“Sau khi dì Trần quét dọn ở dưới lầu một hồi, khoảng chừng chưa đến bốn giờ thì Chung Tình trở về. Sau khi nghe nói Nguyễn Tư Nguyên không có ở nhà, cô ta rất kinh ngạc hơn nữa nói một cách khẳng định, Nguyễn Tư Nguyên không thể đi ra ngoài, bởi vì buổi chiều có người khách rất quan trọng muốn tới – tôi đoán, người cô ta nói chính là anh.”
“Nhưng tôi lại… không kịp…” Anh hít sâu một hơi, nhìn thấy cái đĩa phát ra ánh sáng trên bàn.
“Vì thế hai người đã lên lầu, kết quả mở cửa phòng khách thì thấy, khuôn mặt của Nguyễn Tư Nguyên hướng xuống nằm ở trong phòng sách, trên đầu đều là máu. Biên bản báo cáo của cảnh sát cho thấy, khi Chung Tình gọi điện báo cảnh sát vào lúc bốn giờ ba phút, đồng nghiệp của chúng tôi đến hiện trường trong vòng 10 phút. Trải qua thăm dò, khi cảnh sát và nhân viên cứu hộ đến, anh ta đã có dấu hiệu mất mạng, nguyên nhân dẫn đến tử vong là mất máu quá nhiều, hơn nữa sọ có dấu hiệu tổn thương sau khi chịu đòn nghiêm trọng, ngoài vết thương đó ra thì không còn cái khác, hơn nữa báo cáo khám nghiệm tử thi cho thấy, anh ta cũng không có phản ứng bị trúng độc, vì vậy chúng tôi suy đoán, có người cho anh ta một cú trí mạng từ phía sau, thời gian tử vong là hai giờ rưỡi đến ba giờ rưỡi chiều.”
Nghe đến đó, Sĩ Văn cười khổ một cái, anh vẫn không thể đem người bị hại coi như một nhân vật trong tiểu thuyết.
“Còn nhớ những người ngồi trong phòng khách của Nguyễn gia vào chiều ngày hôm đó không?”
Anh gật đầu.
“Anh quen biết không?”
“Ngoài Chung Tình và bà Trần ra, tôi không biết người nào cả.”
Cảnh sát Hoàng gật đầu: “Bọn họ cũng giống như anh, đều lần lượt đến sau khi án mạng xảy ra.”
“Cái gì?!” Nguyễn Sĩ Văn giật mình mở to hai mắt.
“Thật đúng lúc, không phải sao?”
“…”
“Bọn họ nói rằng đã có hẹn với Nguyễn Tư Nguyên.”
Sĩ Văn ngạc nhiên, đồng thời có ba người xuất hiện sau vụ án mạng? Điều này có nghĩa gì?
“Trong bọn họ, một vị là người biên tập của công ty xuất bản, một vị là sinh viên đại học, còn có một vị…”
“…”
“Thân phận có điểm đặc biệt.”
“Có ý gì?”
“Không biết anh có chú ý tới người thanh niên sành điệu cao ráo kia không?”
“Ừm…” Chính là người thanh niên trẻ tuổi ăn mặc rất tinh tế, cậu ta còn cho rằng anh có phong cách bảo thủ.
“Cậu ta là quản lý giao tiếp của quán bar,” cảnh sát Hoàng dừng một chút, “Nói trắng ra, chính là một người dẫn mối.”
“Cái gì?!”
“Anh yên tâm đừng nóng nảy,” cảnh sát Hoàng vỗ nhẹ vào anh, “Nghe qua ghi âm rồi lại phát biểu ý kiến. Tôi chỉ giới thiệu với anh bối cảnh của bọn họ, nhưng tôi hy vọng anh không vì thành kiến mà mù quáng.”
“… Tôi hiểu.”
“Ngoài ra, tôi muốn nói với anh, hung khí đã được chúng tôi nhận định sơ bộ – là một đồ vật trong phòng sách của người chết.”
“Là cái gì?”
“Điểm này sau khi nghe xong ghi âm tôi sẽ nói với anh.”
“…”


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.