Đọc truyện Nhân Tổ – Chương 1: Nhân tộc số phận
Đây là Đại Thế Giới được thống trị bởi tam tộc.
Phía bắc được chiếm lĩnh bởi Ma tộc, nơi đây khí hậu âm u, có một tầng ám vân che kín cả phương bắc, ánh mặt trời không thể chiếu xuyên qua được.
Phía tây là lãnh thổ của Thần tộc, chủng tộc này cao ngạo, tự cho là chúa tể thế giới này, là quang minh chi tử, cực kỳ coi thường các chủng tộc khác.
Phía nam thuộc về Yêu tộc, nơi đây rừng rậm sâm lâm, dãy núi bất tận, sông hồ đan xen, yêu thú sinh sống vô số.
Phía đông là đại dương mênh mông bị hải thú chiếm dữ, hải thú cũng thuộc yêu tộc nhưng không thường lưu tới, muốn tự thành một tộc.
Tại đan xen giữa bốn đại thế lực là khu vực bình nguyên, tại đây có một toà thành tên Bình Nguyên thành. Bình Nguyên thành rộng vạn dặm, xung quanh là vô số làng mạc vừa và nhỏ. Đây là nơi hợp lưu của ba con sông lớn từ phương bắc, phương tây, phương nam đổ vào đại hải phương đông.
Bình Nguyên thành có vị trí trung tâm vô cùng quan trọng là nơi tranh chấp thường xuyên của tam tộc. Bất kì tộc nào muốn độc chiếm Đại Thế Giới cũng phải có được Bình Nguyên thành, nơi đây trở thành chiến trường đẫm máu nhất trên Đại Thế Giới cho đến vạn năm trước, một cuộc chiến quy mô khổng lồ xảy ra, kết quả tam tộc tổn thương thảm trọng nhưng không tộc nào giành được ưa thế. Cuối cùng một hiệp ước giữa tam tộc được kí kết. Bình Nguyên thành được dựng nên do cả ba tộc quản lí, trở thành vùng tạm chiến, trở thành nơi tiếp xúc gặp gỡ của tam tộc.
Mặc dù kí kết hiệp ước nhưng trong lòng của tam đại tộc bọn họ lúc nào cũng có thế xé rách hiệp ước tấn công Bình Nguyên thành.
Trong vòng một vạn năm hoà bình có một chủng tộc sinh sống phồn diễn nơi bình nguyên này, chình là Nhân tộc. Nhân tộc xuất hiện lúc nào không ai biết, nhưng có thể khẳng định Nhân tộc có lịch sử xa xưa, cùng tồn tại với tam tộc.
Trong mắt Thần tộc, Nhân tộc được Thần tộc tạo ra để làm những công việc thấp kém tay chân, Nhân tộc chỉ là nô lệ. Nhân tộc khai thác khoáng sản tài nguyên, chăn nuôi trồng trọt cung cấp cho Thần tộc, xây dựng đền đài, tạc tượng Thần tộc ngày đêm cung phụng, làm đồ chơi thú cưỡi, thậm chí cả đồ vật hiến tế…
Trong mắt Yêu tộc, Nhân tộc chỉ là yêu thú có huyết mạch thấp kém ti tiện, Nhân tộc chỉ là thức ăn cho các đại yêu, là thú mồi để ấu thú tập săn giết, là tiệc đãi khách mỗi khi các đại yêu gặp nhau.
Trong mắt Ma tộc, Nhân tộc chỉ là đồ thí nghiệm cho họ được Ma Tổ tạo ra, dùng Nhân tộc thử dược, thử độc, thử linh, Ma tộc thích rút ra hồn phách Nhân tộc dùng làm hồn nô.
Từ trước tới nay, Nhân tộc là thứ tài sản riêng được nuôi nhốt trong lãnh địa các tộc. Nhưng từ vạn năm trước, sau khi hiệp ước được kí kết, Nhân tộc được thả vào bình nguyên sinh sống với mục đích nô lệ sống ở đâu thì nơi đó thành tài sản của chủ nhân. Vậy là Nhân tộc có một khe hở để có cuộc sống tốt hơn nhưng đó chỉ tốt hơn trước một chút.
Vì các tộc rất nhanh nhận ra tiểu xảo của mình không được chấp nhận vậy nên nơi đây trở thành bãi săn các tộc, tuỳ ý săn giết, tuỳ ý bắt giữ chiếm đoạt. Tất nhiên là trong hạn mức, ai cũng không muốn Nhân tộc tuyệt diệt.
Đây là thời đại Nhân tộc u u mê mê. Họ không biết họ thực sự là ai, từ đâu mà có.
Cả Yêu tộc, Thần tộc, Ma tộc đều nhận Nhân tộc bắt nguồn từ tộc họ, những lời nói dối trá thường xuyên được rót vào đầu Nhân tộc làm cho Nhân tộc si si ngốc ngốc làm nô cho Thần tộc, làm thức ăn cho Yêu tộc, làm đồ chơi cho Ma tộc.
Họ làm một cách tự nhiên không phản kháng, không dám phản kháng, không nghĩ phản kháng, họ làm nô một cách bản năng như thiên mệnh nói họ phải làm như vậy.
Nhân tộc ngu ngốc đần độn, không có chữ viết, không có văn hoá, không có tập tục, không có tự tôn. Đi bằng đầu gối như là lẽ phải, tuyệt đối tuân lệnh đã thành bản năng, chỉ cần chủ nhân muốn ăn thịt bọn họ sẽ đường hoàng nằm lên bàn, chủ nhân muốn thịt non bọn họ sẽ tự động dắt đứa con của họ đến, chủ nhân muốn ăn thịt nướng bọn họ sẽ không nghĩ ngợi mà nhảy vào đống lửa…
Nhân tộc không thờ tổ tiên cha mẹ, họ thờ Thần tộc. Yêu tộc, Ma tộc không hứng thú với việc thờ cúng của Nhân tộc. Nhưng Thần tộc lại đặc biệt thích điều này, họ bắt Nhân tộc xây thật nhiều đền đài, mỗi ngôi làng đều phải có một bức tượng thần tại khu vực trung tâm, mỗi ba ngày tổ chức lễ nhỏ, mười ngày tổ chức lễ lớn. Tại buổi lễ tất cả dân làng tập trung ca tụng, nhảy múa, ca ngợi công đức của vị thần làng. Mỗi lần đều có tế lễ, có thể là gia súc cho lễ nhỏ, là con người cho lễ lớn. Mỗi lần đi săn đánh bắt đều phải đến trước tượng thần cầu xin và khi săn về họ phải dâng lên lễ phẩm tốt nhất, nếu như hôm đó không săn được nhiều thì họ phải dâng lên tất cả. Mỗi khi hạn hán, lũ lụt, sâu bệnh, thiên tai họ đều phải cầu khẩn thần, và chẳng biết thần có thực sự ra tay hay không nhưng chỉ cần hết thiên tai họ phải dâng lễ, ca ngợi công đức vô lượng của thần. Nếu thiên tai không hết họ sẽ phải bỏ làng tha hương cầu thực và vẫn phải mang theo tượng thần cầu khẩn không cùng.
Nếu như họ bị bệnh thì do họ đã bị thần trừng phạt, muốn khỏi thì phải dâng lễ cầu khẩn, nếu khỏi thì tạ ơn thần nếu chết thì do tội lỗi quá nặng thần không tha thứ.
Thần tộc thích phô trương khoe mẽ nên đặc biệt thích Nhân tộc thờ phụng, ngược lại không thích ăn thịt Nhân tộc, cũng không thích giết Nhân tộc hay ít nhất là tự tay giết Nhân tộc. Thần tộc tự coi mình có bản chất thần thánh thiêng liêng nên ăn thịt Nhân tộc thấp hèn làm họ vấy bẩn tính thần thánh của họ. Họ đôi khi cũng đáp ứng lời thỉnh cầu của Nhân tộc cho ít mưa ít gió chữa bệnh nhưng đổi lại là họ muốn vạn lời ca tụng. Đôi khi họ cảm thấy Nhân tộc cung phụng chưa đủ hay chỉ đơn giản rảnh rỗi họ hàng thiên tai tiêu diệt vài ngôi làng để các ngôi làng khác kính sợ hơn, cung phụng nhiều hơn.
Vậy nên Nhân tộc thuộc Thần tộc sống “tốt nhất”, Nhân tộc được phép có tiếng nói mặc dù không có chữ viết, được phép dùng dụng cụ từ gỗ, dây, răng, xương… không được phép dùng kim loại, được phép dùng lửa nhưng phải cầu xin thần ban cho, ai tự tiện dùng hay tàng trữ lửa sẽ bị giết chết. Thần tộc dạy cho Nhân tộc một số thứ để Nhân tộc dễ dàng làm việc cho Thần tộc hơn khai thác, săn bắt, trồng trọt, tế tự… Đặc biệt Thần tộc chú ý đến tế tự đều có trình tự, nghi lễ rõ ràng, từng lời khấn, từng tiếng hát đều phải tuyệt đối tuân theo không được phép có chút sai lầm.
Đối với Yêu tộc, dùng Nhân tộc đơn giản hơn nhiều. Mỗi đại yêu đều có riêng địa bàn, trong địa bàn của mình nuôi nhốt Nhân tộc. Nhân tộc sống như tiểu thú chạy nhảy tới lui trong một khu vực, họ ăn bất cứ thứ gì trước mặt có thể ăn được: vỏ cây, lá hoa cỏ, rễ cây, sâu bọ, xác chết, xương, lông mà đại yêu vất ra…
Nhân tộc tại Yêu tộc sống thực sự như thú, chỉ biết ú ú ớ ớ gầm gầm gừ gừ với nhau. Gặp đại yêu thì chạy toán loạn như gặp thiên địch, đại yêu sau khi bắt vài tên Nhân tộc ăn thịt trở về động thì Nhân tộc lại ngơ ngơ ngác ngác trở lại chỗ cũ, đại yêu đôi khi vất lại xương da tóc, Nhân tộc lại nhào vào ăn, ăn chính xương máu đồng loại lại không chút cảm giác.
Đại yêu đôi khi để ấu thú của mình tập săn mồi liền lấy Nhân tộc làm đồ chơi để ấu thú vờn mồi, vờn tới vờn lui tới khi chán thì cắn cổ nhai đầu. Mỗi một yêu thú dường như lúc nhỏ đều lấy Nhân tộc làm bài tập săn mồi. Không biết vì lí do gì mà ấu thú ăn thịt Nhân tộc càng nhiều thì càng sớm trở thành Yêu thú, ngược lại khi đã thành Yêu thú thì thịt Nhân tộc không có nhiều tác dụng nữa, nhưng dù vậy Yêu thú vẫn thích ăn thịt Nhân tộc như đã thành thói quen sở thích. Vậy nên muốn biết chủng Yêu tộc nào có hùng mạnh hay không có thể xem số lượng Nhân tộc, Nhân tộc càng nhiều bồi dưỡng được Yêu thú càng nhiều, Yêu thú càng nhiều chủng tộc đó càng mạnh.
Ma tộc thì nuôi nhốt Nhân tộc trong lồng giam hay thả rông trong các trang trại. Nhân tộc tại đây sống ngơ ngơ ngác ngác đi tới đi lui tới giờ thì được cho ăn, đến giờ được thả ra ngoài đi lại, đến giờ lại được xua vào chuồng. Nhân tộc sống như những hành thi tẩu nhục, không cảm xúc, không dục vọng, thậm chí cả suy nghĩ cũng không có. Nhân tộc thường có dạng như những que củi da bọc xương, da nhăn nheo, hốc mắt hõm sâu trắng dã như mù loà, môi khô rách.
Tại các trang trại thường nuôi Nhân tộc trưởng thành, càng lớn tuổi càng tốt, lại tuyệt nhiên không có Nhân tộc sơ sinh. Tất cả bởi vì Ma tộc thích Nhân tộc lớn tuổi, vì sao? Hạ hồi phân giải. Trước đây, Ma tộc cũng nuôi Nhân tộc sơ sinh nhưng tại Ma giới quá khắc nghiệt đối với Nhân tộc sơ sinh nên chết rất nhiều rất ít có thể sống tới trưởng thành. Vì thiếu Nhân tộc trưởng thành nên Ma tộc thường xuyên tấn công lãnh địa hai tộc kia cướp Nhân tộc. Qua thời gian mâu thuẫn càng ngày càng lớn, trở thành một trong những nguyên nhân gây nên đại chiến tam tộc.
Nhưng vào vạn năm trước khi hiệp ước được kí, Ma tộc thả Nhân tộc vào khu vực Bình Nguyên thành, Nhân tộc có thể sinh sống phồn diễn trở thành nguồn Nhân tộc trưởng thành dồi dào. Ma tộc cũng đôi khi đi cướp Nhân tộc của hai tộc kia, nhưng chỉ trong khu vực bình nguyên không tấn công vào lãnh địa hai tộc kia, chính vì vậy không xảy ra mâu thuẫn quá lớn.
Đại thế giới đã trải qua vạn năm hoà bình hay ít nhất tam tộc nghĩ như vậy vì bọn họ trong vạn năm nay không xảy ra chiến sự, tộc mệnh không có hao tổn.
Nhưng với Nhân tộc thì khác, Nhân tộc không sống ngờ ngờ nghệch nghệch thì cũng như bộ xương di động, không thì cũng cuồng tín ngu ngốc.
Đây chính là số phận của Nhân tộc hay thiên mệnh sắp sẵn không thể thay đổi.