Đọc truyện Nhà Khổ Hạnh và Gã Lang Thang – Chương 17(Phần 2)
Thấy chàng giận dữ như thế, gã cười to và rộng lượng bảo: “Ô hay, tội gì phải nổi nóng vì chuyện nhỏ nhặt như thế, tớ chỉ nói sơ qua, cậu đã để lỡ cơ hội cho hai đứa mình, vậy là cậu chưa điệu lắm, bạn bè gì thế. Cậu không muốn thực, cậu là một nhà quý phái mà, để mai kia cậu sẽ cưỡi ngựa về để cưới cô gái ấy, lấy nàng ta làm vợ. Chú bé ơi, chú cao thượng đến điên rồ, thôi được, tớ muốn chúng mình tiếp tục lên đường ngón chân đã cóng cứng rồi đây.”
Đan Thanh buồn bực giữ im lặng cho đến tối. Nhưng vì suốt hôm đó họ chẳng gặp một dấu hiệu nào là có người ở, ngay đến một chỗ trú chân cũng thế, chàng phải thầm cám ơn gã Viên đã kiếm được một nơi thuận tiện để ngủ đêm, gã bắt chéo hai thân cây để bảo vệ sau lưng và làm cho cả hai một chiếc giường nhỏ bằng cách xếp những cành thông thật dày. Cả hai cùng ăn bánh và phó mát, lôi từ trong chiếc áo đầy ắp của gã. Đan Thanh xấu hổ vì cơn giận vừa qua, chàng cố ngoan ngoãn và ân cần với gã, chàng nhường chiếc áo cộc len để mặc đêm và cả hai đồng ý là sẽ thay phiên nhau thức để canh thú dữ. Đan Thanh gặp phiên canh đầu tiên và gã nằm duỗi dài trên cành lá. Chàng ngồi dựa vào gốc thông và giữ im lặng cho bạn ngủ một hồi lâu chàng phải đứng dậy đi lui đi tới vì trời thật giá lạnh. Chàng dần đi xa hơn, ngắm nhìn ngọn thông nhọn hoắt vạch trên nền trời màu nhạt. Giữa cái lặng lẽ mênh mang ấy lòng chàng ẩn một chút lo âu. Đêm đông uy nghi, trang trọng đã thấm vào chàng, chàng nghe thấy con tim nóng hổi đập mạnh trong khoảng không im lìm, lạnh giá. Chàng bước nhẹ đến nơi bạn ngủ, lắng nghe những hơi thở của gã. Chưa bao giờ chàng hiểu thấm thía như bây giờ tâm sự của một kẻ giang hồ không nhà không cửa, kẻ không có lấy một bức tường, đền đài hay tu viện để ngăn cách mình với những mối lo sợ mênh mông, kẻ chạy trần, đơn côi băng ngang thế giới thù nghịch, khó hiểu, hoàn toàn cô độc dưới ngôi sao lạnh trên trời mỉa mai, giữa những dã thú rình chờ, giữa những đám cây im lìm chịu đựng.
Không, chàng tự nhủ không bao giờ mình lại trở thành như gã dù mình lang bạt suốt đời đi nữa. Con người tráo trở và dạn dày này có lẽ có lý, có lẽ chàng không khi nào sánh kịp, không khi nào trở nên một tay giang hồ thực thụ mà một ngày nào đó chàng sẽ ở yên dưới một mái nhà. Nhưng chàng vẫn là kẻ lang thang, đi không mục đích, chàng sẽ không bao giờ thấy mình được yên ổn, một thế giới đẹp đẽ và gai góc một cách bí hiểm luôn luôn vây hãm chàng, luôn luôn chàng phải lắng nghe, giữa vùng mênh mông đó trái tim thật mỏng và ưu tư vô cùng. Chỉ thấy vài ngôi sao lấp lánh, gió lặng im trong khoảng không sâu thẳm, mây trời như đang rung động.
Một lúc lâu, Viên tỉnh dậy. Chàng vẫn định đánh thức bạn nhưng gã đã nói:
Này, cậu phải ngủ đi, nếu không mai sẽ chẳng ra cái quái gì cả.
Đan Thanh ngoan ngoãn nằm xuống, nhắm mắt, chàng khá mệt nhưng vẫn không ngủ được, các ý nghĩ cứ lũ lượt kéo tới, ngoài ra còn một cảm tưởng mà chàng vẫn chưa chịu chấp nhận, một ý tưởng lo ngại, ngờ vực người bạn đồng hành. Chàng thấy mình thật vô lý, nói làm gì chuyện Liên Đài với anh chàng thô lậu, một tên ăn xin trơ trẽn như thế, giận hắn rồi tự giận mình, chàng thừ người nghĩ đến cơ hội thuận tiện nhất để tách rời gã.
Hình như chàng thiếp đi, và giật mình vì cảm thấy hai bàn tay của Viên đang ở trên người chàng, cẩn thận nắn từng chiếc áo. Trong hai túi, một bên chàng để con dao, bên kia đồng tiền vàng. Chàng làm như ngái ngủ, lăn trở qua trở lại, tay chân duỗi ra. Viên rút lui ngay. Chàng thấy gã thật đáng giận và định sáng mai sẽ rời gã. Nhưng độ nửa giờ sau Viên lại làm lần nữa, nghiêng người trên chàng và bắt đầu lục lọi. Đan Thanh lạnh lùng và giận dữ, chàng nằm im mở to mắt, khinh bỉ nói:
Đi đi, chẳng có gì ở đây để lấy trộm.
Sợ hãi, gã liền đưa tay giữ lấy cổ chàng và siết chặt. Vì chàng cự lại và muốn nhỏm dậy, gã siết chặt hơn và đưa đầu gối lên chặn ngực chàng. Đan Thanh nghẹt thở, chàng cố hết sức giãy giụa và gỡ ra nhưng không được. Thình lình cái chết đã làm cho chàng khôn lanh và sáng suốt. Khi gã vẫn tiếp tục siết cổ, chàng thọc tay vào túi rút lấy con dao săn ra và bất ngờ cắm sâu nhiều lát vào thân gã vô lại đang quỳ gối trên chàng. Một lát sau bàn tay của gã mới chịu buông ra, chàng thở hít mạnh luồng không khí. Chàng khoan khoái thở một cuộc đời vừa được cứu sống rồi chàng thử ngồi dậy, cái xác to lớn của người bạn đồng hành ngã gục trước chàng, mềm nhũn, rên khừ khừ ghê rợn, máu đổ cả lên mặt chàng. Bấy giờ chàng mới đứng dậy được. Trong bóng đêm lờ mờ cái xác to lớn trải dài nằm đấy, khi chàng sờ đến chàng chỉ thấy toàn là máu. Chàng nâng đầu gã dậy, đầu gã gật xuống nặng nề. Từ ngực đến cổ, máu nhỏ từng giọt, ở trong miệng thoát ra những tiếng ú ở nhỏ dần, sự sống đã tắt.
“Vậy là ta đã giết một người,” Đan Thanh lẩm bẩm, nhắc đi nhắc lại hoài câu nói ấy, chàng quỳ trên đầu kẻ xấu số và nhìn màu tái nhạt đang trải dần trên khuôn mặt. “Trời ơi, vậy ta đã giết người!” Chàng nghe thấy mình lẩm bẩm, Đan Thanh không thể nào ở lại đây nữa, chàng nhặt con dao, chùi nó trên chiếc áo len của người chết, chiếc áo mà Liên Đài đã tự tay đan cho người tình. Chàng đút con dao vào vỏ, nhét vào túi, đứng ngay dậy và chạy trốn bằng sức lực của đôi chân.
Cái chết của gã giang hồ vui vẻ ấy đã đè nặng lên tâm hồn chàng. Khi trời sáng chàng kinh tởm lấy tuyết rửa sạch máu trên người rồi tiếp tục lang thang hết ngày đến đêm, đi không mục đích, đầy lòng lo âu. Sau cùng, cơn nhọc mệt cùng cực của thể xác đã làm chàng hồi tỉnh, cả tiêu tán phiền não.
Mất hút giữa khoảng không gian ngập tuyết trắng xóa, không chỗ trú chân, bụng đói, không biết đi về đâu, chàng lâm vào tình trạng thật là bi đát, cứ đi mãi, hầu như là không ngủ. Cơn đói cào ruột kêu réo như con thú dữ. Đã có lần chàng kiệt lực, nằm ngay giữa đồng mắt nhắm lại coi như đã chết, không ước mong gì hơn là được ngủ vùi luôn trong đám tuyết.
Nhưng luôn luôn có một sức mạnh nâng chàng dậy. Trong cơn tuyệt vọng, trong ước mong mãnh liệt được giải thoát chàng bước đi để cứu lấy mạng sống, và giữa cơn thất vọng chua cay cùng tột, sự chống chỏi với cái chết như cuồng như dại cùng bản năng sinh tồn mãnh liệt nơi chàng đã nâng cao tinh thần và chàng đã ngất ngây say đắm. Trong một bụi đổ tùng phủ tuyết, chàng dùng đôi tay cóng giá nhợt nhạt lượm những hạt trái cây nho nhỏ khô héo và nhai cái vật chan chát không ngon lành gì lại thêm lẫn những gai thông ấy. Với món ăn cay chát và gợi đói đó chàng nuốt thêm vài nắm tuyết để dịu cơn khát. Chàng ngồi xuống trên một ngọn đồi, tạm dừng chân và thở hổn hển, chàng thổi ấm đôi bàn tay chết cóng và liếc nhìn quanh với tia mắt long lanh háu đói chẳng có gì ngoài truông hoang và rừng rậm, không một dấu vết của loài người. Vài con quạ bay ngang trên đầu, chàng nhìn theo bực tức. Không, chàng không là miếng mồi của chúng khi đôi chân còn sức, máu còn nóng. Chàng đứng lên, thu hết tàn lực cố chạy để chống đỡ với tử thần. Chạy, chạy mãi trong cơn sốt của sự cố gắng đã kiệt, ý tưởng kỳ lạ cực độ nổi lên. Chàng tự nói với mình khi to tiếng khi thầm thì, những lời thật điên dại: này bồ, ông bạn tinh ranh của tôi, mạnh giỏi chứ? Có phải ánh trăng đang chiếu ngang chùm ruột của bạn không? Bầy chồn đang kéo tay bồ hả? Bồ nói đã giết được một chú sói, bồ đã cắn vào cổ nó hay giật đứt được đuôi nó, hả? Bạn muốn cuỗm đồng tiền vàng của tôi phải không tên vô lại già, nhưng thằng nhóc Đan Thanh, nó đã dành riêng cho bạn một bất ngờ, có đúng thế không? Nó đá cù vào hông bạn nhưng chuyện đó không ngăn bạn có đầy những túi nào bánh, nào xúc xích, nào phó mát, rồi thịt heo, rồi cả một đống hổ lốn trong xắc. Những câu nhảm nhí như thế được chàng tuôn ra trong một tràng sủa như chó cùng với cơn ho rũ rượi. Chàng mắng chửi người bạn xấu số, nhạo gã sao lại để bị giết đi, đồ ngu dần, đồ khoác lác.
Rồi sau đó, những ý nghĩ, những lời nhảm độc thoại của chàng lại không dính líu gì đến thằng cha khốn Viên nữa. Bây giờ chàng thấy Liên Kiều trước, cô bé xinh đẹp, đẹp như khi cô bé bỏ đi trong cái đêm tuyệt diệu đó. Chàng cố gắng quyến rũ nàng đến gần.
Rồi lảo đảo, chàng đứng lên đôi chân cứng ngắt, gắng phóng qua bên kia bụi thạch thảo khô queo phủ đầy tuyết, đau đớn đến mê man, ý chí sinh tồn bừng lên mãnh liệt. Chàng lại bắt đầu thầm thì một mình, bây giờ chàng nói với Huyền Minh, kể cho bạn nghe những ý tưởng mới, sự khôn ngoan, những lời giễu cợt.
– Anh sợ không Huyền Minh? Anh có nổi da gà không, anh chả thấy gì cả sao? Vâng, này bạn khả kính của tôi, thế gian này đầy chết chóc, anh nghe chứ, trên mỗi nhà là một bộ xương người ngự trị, chúng nấp sau mỗi thân cây và như thế, anh xây tường, làm phòng ngủ, nhà thờ đều chẳng ích gì cả, nó cứ thò đầu ngó mắt vào cửa sổ và cười ta đó. Nó biết rõ từng đứa một trong chúng ta, nửa đêm anh có thấy nó cười khảy và gọi tên anh ngay dưới cánh cửa sổ không? Anh vẫn có thể hát những bài thánh ca, vẫn có thể dùng đôi tay dễ thương thắp nến trên bàn thờ, tụng những bài kinh chiều và sáng, hái cỏ, đem vào phòng thí nghiệm và thu thập những sách cũ. Anh có còn nhịn đói qua những đêm không ngủ chăng, như thế có ích gì? Cái chết chính hắn đục khoét đến tận xương anh đó: đi mau đi, hỡi người bạn thiết, thần chết đang băng qua cánh đồng kia kìa, bạn chạy nhanh đi, và đếm những đốt xương của bạn, chúng đang muốn đi, muốn rời chúng ta mà bay theo gió, chúng không muốn ở với ta. A! Những khúc xương, cái cổ họng, cái dạ dày, từng mẩu óc, tất cả những thứ khốn nạn này đều muốn bỏ ta, rời ta để đi theo lũ quỷ, những con quạ trên cây kia, bay thật là những tên cố đạo nham hiểm!
Đã một thời gian chàng như điên dại, không biết mình chạy đi đâu, hiện ở nơi nào, đang nói cái gì, mình đang nằm hay đứng. Chàng ngã chúi vào những bụi bờ, đâm đầu vào thân cây, lọt trong đám tuyết, bàn tay nắm đầy những gai. Nhưng bản năng sinh tồn trong chàng vẫn còn mạnh mẽ luôn luôn đẩy chàng bước tới, kéo chàng lên đường trong một cuộc trốn chạy mù lòa. Đúng vào lần cuối cùng chàng ngã gục nằm ngay trên đất, thì nơi đó chính là ngôi làng chàng đã gặp, nơi chàng đã cầm những mảnh vỏ bào đốt cháy soi cho người đàn bà sinh nở. Chàng nằm dưới đất và mọi người chạy lại vây quanh bàn tán, chàng không còn nghe gì nữa. Người đàn bà đã trao tình cùng chàng đêm nọ đã nhận ra chàng, thương cảm, nàng chớp nhanh đôi mắt, kéo người đàn ông sắp chết ấy vào trong chuồng bò, mặc cho anh chồng chửi rủa.
Không lâu, Đan Thanh đã đứng được và có thể ra đi. Trong chuồng bò êm ấm, người đàn bà đã để chàng ngủ, cho chàng uống sữa dê. Đan Thanh đã tỉnh táo và lấy lại sức, song những biến cố vừa qua đã trở thành mù mờ dường như đã qua đi từ lâu. Cuộc hành trình cùng Viên, đêm đông băng giá ghê rợn dưới những cành thông, cuộc vật lộn kinh khủng, rồi đến cái chết của người bạn đồng hành, những ngày, những đêm tê cóng, đói khát lạc đường, chàng hầu như đã quên, và tất cả lắng chìm hẳn, đó chỉ là một thử thách mà chàng đã vượt qua, chàng vẫn còn một cái gì, một cái gì thật khó hiểu khó giải nghĩa, một cái gì ghê rợn nhưng cũng rất quý báu đã được vùi sâu trong đáy lòng nhưng rất khó quên, một kinh nghiệm, một vị chua cay trên chót lưỡi, một vòng tròn bao phủ trái tim. Hai năm qua chàng đã uống cạn những lạc thú cùng đau đớn của kẻ giang hồ: cô đơn, tự do, nỗi nghe ngóng lo ngại dã thú rừng hoang, những tình yêu phù phiếm không bền, cơn từ sầu trong nỗi đắng cay của nó. Nhiều ngày chàng đã là người khách trong vùng đồng bằng nóng cháy, nhiều ngày chàng ở trong rừng, nhiều ngày chàng ở trong tuyết giá, nhiều ngày chàng ở trong nỗi kinh hoàng khắc khoải, gần kề cái chết. Trong tất cả, ý thức mạnh mẽ hết, kỳ lạ nhất vẫn là sức chống chỏi với tử thần, biết mình nhỏ bé, khốn nạn, đã bị hăm he, song trong cuộc chiến vô vọng với tử thần, chàng vẫn thấy được sức dai bền của sự sống. Điều ấy tiếp tục ngân vang trong chàng, ghi dấu vết trong lòng chàng, hệt như dáng điệu cùng khuôn mặt người đàn bà trong cơn dục lạc, không khác mấy với khuôn mặt người đàn bà sinh nở và những người đang hấp hối. Hôm trước người đàn bà đẻ kêu la, mặt mày nhăn nhúm. Hôm sau Viên ngã xuống, máu lặng lẽ tuôn tràn. Ngay chính chàng, trong những ngày đói khát, chàng đã cảm thấy cái chết rình rập chung quanh, đã chịu cơn đói hành hạ và đã từng cóng lạnh cứng đờ. Trong cuộc chiến đấu ấy, chàng đã chạm mặt tử thần, biết bao lo lắng cùng lạc thú đắng cay trong cuộc chống cự ấy! Sau đó chàng có cảm tưởng rằng đời không còn gì đáng cho mình học hỏi nữa. có lẽ ý nghĩ này chỉ có thể nói cùng Huyền Minh, không ngoài ai khác.
Khi Đan Thanh đã tỉnh táo hẳn trong chiếc ổ rơm, chàng không còn thấy đồng tiền vàng trong túi. Có lẽ trong cơn chạy hầu như vô thức, chàng đã đánh rơi đi, hay chàng đã đánh mất trong hôn mê ngày cuối cùng đói khát? Chàng nghĩ mãi về chuyện đó. Đồng tiền vàng đối với chàng thật thân thiết, chàng không hề muốn để nó mất đi, tiền bạc, đúng ra đối với chàng ít có giá trị, chàng chưa hiểu giá trị của chúng. Nhưng đồng vàng này có hai lý lẽ, một là vì đó là tặng vật độc nhất của Liên Đài chàng còn giữ lại, chiếc áo len đã nằm trên người Viên trong rừng vấy đầy máu.
Kế đến vì đó là vật mà vì nó chàng đã giết người trong cơn tuyệt vọng. Giờ đây nếu đồng tiền vàng đó mất đi, mọi cuộc phiêu lưu trong đêm ghê rợn đó sẽ mất hết phần nào ý nghĩa và giá trị của nó. Suy nghĩ một hồi lâu, chàng thổ lộ tâm tình cho người đàn bà biết, chàng thì thầm:
– Em ạ, tôi có một đồng vàng trong túi và giờ đây không còn nữa.
– Này bây giờ anh mới biết sao?
Nàng toét miệng cười, âu yếm pha lẫn tính quái, khiến Đan Thanh khoái chí đến nỗi dù đang yếu chàng cũng vòng tay quấn lấy người đàn bà.
– Anh thật như con nít, rất lanh và rất tinh mà cũng thật là dại khờ! Anh định chạy khắp thế giới với đồng tiền vàng trong chiếc túi mở rộng như thế chăng? Chàng điên nhỏ bé của tôi ơi! Tôi đã tìm ra đồng tiền vàng của anh, ngay khi đặt anh nằm xuống ổ.
– Em ơi! Em có nó đấy à, đâu?
– Anh hãy kiếm đi, nàng cười vang và để cho Đan Thanh kiếm một hồi mới chỉ cho chàng trong góc áo mà nàng đã khâu lại, thật chắc. Người đàn bà thêm một lô những lời dặn dò như mẹ dặn con, mà chàng vội quên ngay, nhưng sự giúp đỡ dịu dàng cùng nụ cười láu lỉnh của người đàn bà, chàng không khi nào quên được. Chàng gắng làm tất cả những gì có thể được để tỏ lòng biết ơn, rồi sau đó vài hôm chàng bình phục hẳn để có thể đi và chàng muốn lên đường ngay. Người đàn bà giữ chàng lại, trời này mặt trăng đã đổi tuần và chắc chắn thời tiết sẽ khá hơn. Và quả thế, khi chàng lên đường, tuyết đã đổi màu và giảm sút, không khí nặng và ấm, trên cao gió gầm gừ thổi tan băng giá.