Người Bảo Hộ ( Someone to Watch Over Me )

Chương 25 - 26


Bạn đang đọc Người Bảo Hộ ( Someone to Watch Over Me ): Chương 25 – 26

Chương 25
Shrader rước Sam ở căn hộ của cô một tiếng đồng hồ sau khi chiếc xe jeep đã được phát hiện, nhưng bác sĩ pháp y và CSU đã ở tại hiện trường khi anh và Sam đến. Anh dừng xe lại sau vài chiếc xe khác đỗ ở trên đường cái, và với Sam dẫn đầu, họ đi xuống con đường trơn trợt đầy tuyết bị giẫm nát bởi một cuộc diễu hành của những đôi giày boot nặng từ hôm thứ Sáu. 
Ca–bin nằm sát vào một ngọn đồi với những nhóm cây cao lớn ở phía sau, vị trí mang lại một nơi trú ẩn ở phía sau trong khi tạo ra một tầm nhìn ngoạn mục, không bị cản trở của phong cảnh ngọn núi ở mặt trước. Chỗ trú bom/nhà để xe ở gần đó và ở phía sau của cùng ngọn đồi. “Ai sẽ nghĩ có một cái lỗ trong ngọn đồi chết tiệt ở đằng sau nơi này chứ?” Shrader bình luận khi họ lê bước ngang qua ca–bin, theo sau một con đường mới của những dấu chân vòng quanh đồi để ra phía sau. 
McCord đang đứng ngay bên ngoài cánh cửa ga–ra đang mở quan sát Đơn vị Hiện trường tội ác NYPD cẩn thận lùng sục nội thất chật hẹp, thu lượm tang chứng và chụp hình. Hai thành viên nữa của đơn vị đang đứng bên ngoài với anh, chờ để được vào bên trong khi có chỗ. 
“Chúng ta có gì?” Shrader hỏi McCord. 
McCord bắt đầu trả lời, nhưng M.E. (bác sĩ pháp y), một người đàn ông cứng cáp với hai gò má đỏ hoe và cái mũ che tai màu xanh, đi qua ngưỡng cửa ngay lúc đó và cho là câu hỏi đã được hướng đến anh. “Chúng ta có một cái xác chết, Shrader.” Herbert Niles nói một cách vui vẻ. “Một xác chết đẹp, được bảo tồn một cách hoàn hảo, nhờ cái tủ đá ngầm mà ông ta đã và đang ngồi vào. Ông ta bây giờ nhìn không đẹp trai như ông ta nhìn trong giấy phép lái xe của ông ta, nhưng đó chắc chắn là Logan Manning.” 
Trong khi M.E. nói, anh đi vào ga–ra, chồm người vào xe gíp và cẩn thận nâng cổ tay thứ nhất rồi cổ tay kia, lau mỗi tay ở phía mu bàn tay, ngón tay, và lòng bàn tay với những miếng gạc sử dụng để lấy dấu vết ni–trát tìm trong tàn dư của thuốc súng. “Chúng ta cũng đã có những gì có vẻ là một vết thương đạn tự bắn vào thái dương phải…” 
Sam di chuyển qua một bên và có tầm nhìn đầy đủ của cơ thể một người đàn ông rũ xuống giữa vô–lăng và cửa xe, cửa sổ tài xế bên cạnh đầu của anh ta tung tóe máu và não, cửa sổ của hành khách hơi mở và còn nguyên vẹn. 
“Vũ khí thì sao?” Shrader thúc thêm. 
“Có một khẩu ba mươi tám ly đặc biệt – đã bắn gần đây, với hai đầu đạn rỗng trong ổ đạn, nằm gần chân của nạn nhân…” ngừng lại để bỏ miếng nệm dính cuối cùng vào túi bằng chứng và viết xuống bộ phận cơ thể nơi anh mới lấy mẫu. “Một viên đạn bắn xuyên qua sọ của ông ta và đi ra bên trái, xuyên qua phía cửa sổ tài xế và dính vào bức tường trái.” 
“Còn cái thứ nhì thì sao?” Shrader hỏi. 
“Tôi nghĩ là chúng ta có thể kết luận một cách hợp lý là ông ta đã không bắn phát thứ nhì sau khi ông ta bắn nát óc của ông ta ra. Điều đó có thể có nghĩa là ông ta đã bắn trượt phát đầu riêng của ông ta khi ông ta nhắm nó lần đầu, hay – có khả năng hơn – và đây là giả thuyết tôi thích – ông ta đã bắn phát đầu tiên cách đây một năm vào một lon bia rỗng trên hàng rào.” 
Từ khi chuyển đến Đội trọng án, Sam đã làm việc với chỉ hai M.E. khác. Cả hai đều không có tính hài hước như công việc họ đã làm. Herbert Niles phụ trách văn phòng M.E., và mặc dù những lời nhận xét lém lỉnh của anh, anh được báo cáo là thậm chí còn chu đáo hơn là những người M.E. với đầu óc nghiêm trang làm việc dưới tay anh. Cô nhìn lướt qua McCord, nhưng anh đang theo dõi một nhân viên CSU, người đã ngưng không chụp ảnh và đang sử dụng đèn pin kiểm tra những hộp đồ cũ kỹ và vật chứa đựng trên những ngăn kệ thép. Anh ta đang tìm vỏ đạn thứ nhì. 
Niles thụt người ra khỏi xe gíp và cởi găng tay cao su của ông. “Ánh sáng thật là tồi trong cái hang này, và pin của xe jeep đã bị chết, nên chúng ta không thể sử dụng đèn pha của nó. CSU có nhiều đèn hơn với họ, nhưng không có chỗ trống nào cho chúng ở đây cho đến khi chúng ta đem chiếc xe ra ngoài.” Ông nhìn những người đàn ông đang chờ bên ngoài với McCord. “Tôi xong việc rồi. Hãy mang chiếc xe ra, sau đó chúng tôi sẽ bỏ ông Manning vô bao và gắn thẻ tên lên và tôi sẽ đưa ông ta trở về đồn. Sau đó, nơi này hoàn toàn thuộc về các người.” 
Anh nhìn McCord. “Tôi nghĩ là anh muốn biết những gì trên các miếng gạc đó ngay buổi sáng, Mack?” 
Thay vì trả lời, McCord nhướng lông mày của anh. 
Niles nói với một tiếng thở dài. “Được. Tôi sẽ báo cho anh biết trong vòng khoảng bốn tiếng đồng hồ. Điều đó mang lại cho tôi ba tiếng rưỡi để lái xe quay trở lại thành phố và nửa tiếng đồng hồ để nghiên cứu những miếng gạc dưới kính hiển vi. Giả sử cái xác chết của ông ta đã không bị hâm nóng trong đó trong suốt tuần trước, bất cứ tàn dư bột nào trên tay của ông ta sẽ còn ở đó, và những miếng gạc sẽ nhặt được nó. Anh sẽ phải đợi cho đến ngày mai để cho chúng tôi so sánh dấu chỉ tay và bắt đầu phần còn lại của quá trình. Đừng mong nhiều từ tôi cho T.O.D. (giờ tử vong).” anh thêm vào. “Cơ thể của Manning đã được bảo tồn một cách hoàn hảo với không có dấu hiệu rõ ràng nào của sự suy thoái.” 
“Không thành vấn đề,” McCord nói. “Thanh tra Littleton đã tính ra giờ tử vong của Manning.” Đây là lần đầu tiên anh thực sự nhìn Sam khi cô đến. “Phải không?” 

Sam đẩy trượt kính mát xuống sống mũi của cô và quan sát anh một cách quở trách qua vành kính vì đã đưa cho cô một đề thi khác. “Tôi cho là thời gian tử vong của ông ta là vào Chủ nhật vừa qua, giữa ba giờ chiều đến ba giờ sáng ngày hôm sau – có lẽ gần với ba chiều, ngày Chủ nhật.” 
“Sao cô lại nói vậy?” Niles hỏi. 
“Có vài inch tuyết trên xe gíp trong ga–ra, nghĩa là Manning đã mang chiếc xe vào trong đó ít lâu sau hai giờ chiều, khi tuyết thực sự bắt đầu rơi. Lúc ba giờ sáng, hầu như có một feet rưỡi tuyết trên mặt đất, cho nên tuyết đã trôi giạt xuống đây đã chặn cánh cửa hoàn toàn, cản trở ông ta di chuyển chiếc xe vô ra. Cánh cửa vẫn còn chặn lại bởi tuyết sáng nay, có nghĩa là ông ta đã ở trong đó trong suốt thời gian này.” 
“Nghe có vẻ tốt đối với tôi.” Niles nói, ghi nhanh phần lưu ý về thời gian của cô. 
McCord muốn nhìn quanh quất bên trong cabin. “Tôi đã nhìn ảnh CSU chụp vào tuần trước,” anh nói với Littleton, “nhưng tôi muốn cô và Shrader chỉ cho tôi những gì các người đã nhìn thấy và chỉ ra chỗ của mọi thứ.” 
Họ đang đứng trong căn phòng chính vài phút sau, thảo luận những chiếc ly trong bồn rửa chén và sự hiện diện của một cái túi ngủ duy nhất, khi một trong những nhân viên CSU thúc đầu của anh vào bên trong ngưỡng cửa mở. “Chúng tôi đã tìm được vỏ đạn thứ nhì, thưa Trung úy.” 
Tất cả ba người cùng quay lại ngay lập tức. “Nó ở đâu vậy?” McCord hỏi. 
“Kẹt ở những thanh gỗ bên vách phải của gara.” 
Xe gíp đã được đẩy ra bên ngoài và đã được lấy dấu in và được kiểm tra sợi thớ, để trống chỗ bên trong cho những cây đèn điện năng cao chạy bằng pin của CSU. “Chúng tôi sẽ phát hiện ra nó sớm hơn nếu chúng tôi có được ánh sáng sớm hơn.” Anh đi đến bức tường ở bên phải và chỉ một cái lỗ trong cột gỗ cách mặt đất khoảng bốn feet rưỡi. “Có cái gì ở phía trước nó trên kệ không?” Sam hỏi. 
“Không. Không ai cố giấu nó. Chúng tôi chỉ không thể nhìn thấy điều đó cho đến khi chúng tôi thắp sáng nơi này lên.” 
Lặng lẽ, Sam đánh giá chiều cao của cái lỗ vừ mới được khám phá ra và quay lại, so sánh nó với chiều cao của cánh cửa sổ hành khách đã mở của xe gíp. 
“Thú vị, phải không?” Shrader nói, đạt đến cùng kết luận với Sam. 
“Tôi giả định là cánh cửa sổ của hành khách đã được quay xuống khi anh đến đây?” Shrader hỏi anh. 
“Nếu nó được quay xuống ngay bây giờ, nó cũng đã được quay xuống khi chúng tôi đến đây.” 
“Đó có phải là câu trả lời chắc chắn không?” Shrader nói một cách sốt ruột. “Hay đó là ‘tôi nghĩ vậy, nó lẽ ra phải là, có lẽ là…’.” 
“Những cánh cửa sổ điều khiển bằng điện và pin xe đã bị chết, vì vậy nó phải được quay xuống khi họ đến đây.” Sam nhỏ tiếng chỉ ra. 
“Tôi biết là vậy.” Shrader nói cáu kỉnh. “Tôi chỉ là không muốn nghe bất cứ câu trả lời ta đây vào ngày nghỉ của tôi.” 

“Nó chắc chắn là đã được quay xuống khi chúng tôi đến đây, thưa Thanh tra.” câu trả lời tôn trọng hơn. 
“Cảm ơn anh.” Shrader độp lại. 
Một tiếng đồng hồ sau khi Niles rời khỏi với cơ thể của Manning, Sam và Shrader đi lên đường cái theo sau McCord. “Bây giờ là hai giờ ba mươi chiều.” McCord nói. “Đến lúc chúng ta quay lại thành phố, Niles sẽ biết là Manning có cầm khẩu sung ba mươi tám khi nó nhả đạn hay không. Một khi chúng ta biết được điều đó, chúng ta có thể trực tiếp ghé thăm người vợ góa bụa và quan sát cách bà ta đón nhận tin tức này.” 
“Tôi sẽ để cho hai người xử lý việc đó.” Shrader bảo anh. “Tôi đã lỡ bữa tiệc sinh nhật của cháu gái tôi hôm nay, và tôi muốn ghé qua đó và gặp nó trước khi nó đi ngủ. Không thành vấn đề nếu Sam quay trở về với anh chứ?” 
“Không sao cả.” McCord nói. 
Sự thu hút bất ngờ của cô đối với McCord hôm qua đã làm cho Sam bất ngờ và quá lo lắng đến nỗi cô đã hết sức cố gắng, và rất thành công để tống nó ra khỏi tâm trí khi cô đi ngủ. Kết quả là cô có thể sử dụng ba tiếng rưỡi trong xe với anh, nói về những chuyện không gì đặc biệt cả, mà chút cảm xúc vì sự thu hút của anh. Không còn những lời nói đùa giữa họ trên chuyến đi trở lại thành phố, không có những đối đáp kích thích hoặc những lời bình luận cá nhân. 
Chỉ có hai chuyện làm phiền Sam trong đó: một, cô thà là nhớ tất cả những chuyện đó, và hai, cô không nghĩ McCord thậm chí nhận thấy nó đang thiếu vắng. 
Ngay trước sáu giờ chiều, McCord ghé vào tiệm tạp hóa mua bánh xăng–uých, và trong khi Sam đợi trong xe, Herbert Niles gọi điện thoại đến. Anh ta vẫn còn xem xét lại những mẫu tang chứng sau cùng dưới kính hiển vi điện tử, nhưng anh ta muốn đem lại những phát hiện của anh ta đến với Sam ngay khi cô nhấc lên điện thoại di động của McCord từ chỗ ngồi và trả lời nó. “Không có tàn dư nào trên tay phải của Manning,” Niles kể cho cô nghe, “vì vậy ông ta không giơ tay lên trong tư thế phòng thủ khi viên đạn được bắn ra. Tôi có tàn dư trên những ngón tay của bàn tay phải của ông ta, cho nên không có nghi ngờ gì là tay của ông ta đã ở trên vũ khí khi nó được bắn ít nhất là một trong các phát súng đó. Nhưng cô biết tôi còn thấy được tàn dư ở chỗ nào khác nếu anh ta đã bóp cò khẩu súng đó mà không có bất cứ ‘sự giúp đỡ’ nào không?” 
Sam nêu ra một vị trí duy nhất khác mà anh ta đã lấy mẫu: “Ở phía sau mu bàn tay của ông ta.” 
“Đúng. Tôi đang quan sát miếng gạc lấy từ phía sau mu bàn tay phải của ông ta ngay bây giờ, và nó rất sạch sẽ. Cô có một vụ án mạng, không phải là tự sát, cô Thanh tra.” 
Sam cố không nghe như đã bị bất ngờ như cảm giác của cô khi cô chuyển tiếp sự phát hiện của Niles đến cho McCord vài phút sau: “Niles đã gọi đến. Có bàn tay của người khác bọc bên ngoài tay của Manning và cầm khẩu ba mươi tám ly – khi nó bắn ra.” 
“Không có bột tàn dư ở phía sau lưng bàn tay của ông ta ư?” Nụ cười của McCord chậm chạp và thỏa mãn. 
Sam lắc đầu. “Không. Tàn dư duy nhất là ở trên ngón tay bàn tay phải của ông ta.” 
“Tôi biết là vậy.” McCord nói nhỏ nhẹ. “Tôi biết nó sẽ ra là như thế này ngay khi CSU moi vỏ đạn thứ nhì ra khỏi bức tường. Nó luôn làm cho tôi kinh ngạc…” 
“Chuyện gì?” 
“Những sai lầm ngớ ngẩn mà tên giết người đã làm.” Chương 26

Courtney liếc nhìn đồng hồ trong nhà bếp. “Gần sáu giờ rồi, và cháu có nhiều bài vở phải làm cho lớp học ngày mai.” 
“Cháu không muốn tiếp tục nữa à?” O’Hara nói một cách nhẹ nhõm, cộng lại điểm số. “Tại sao dừng lại lúc này, khi tôi vẫn còn một ít tiền trong quỹ hưu bổng của tôi chứ?” 
“Cứ gọi cháu là người có lòng từ tâm đi.” 
“Cháu là một kẻ cờ gian bạc lận. Cháu có lừa luôn tiền bạc của những người mà cháu đang sống chung không?” 
Cô bé cười toe toét khi đút những con bài vô hộp. “Gia đình Donnellys một là ra ngoài, không thì ngủ…” điện thoại reo, và vì Hilda đã đi xem phim, O’Hara đứng dậy để trả lời. Khi anh gác máy một lát sau, anh cau mày lại. 
“Là về ông Manning ư?” Courtney lo lắng hỏi. 
“Không. Là từ Michael Valente. Anh ta đang ở dưới đại sảnh. Bà Manning đang mong đợi anh ta.” 
“Chú ấy như thế nào?” 
“Tôi chỉ biết anh ta là một rắc rối lớn cho bà Manning. Cháu đã nhìn thấy chuyện gì đã xảy ra khi đám phóng viên phát hiện được là bà ta đã ở cùng với anh ta vào ngày thứ Sáu ở trên núi. Cháu sẽ nghĩ là bà ta đang ăn nằm với tên ác quỷ hoặc có chuyện gì đó chỉ bởi vì ngồi vào trực thăng của anh ta. Tôi đã ở chung với hai người họ mỗi giây, và không có chuyện gì xảy ra cả. Không có gì. Bà Manning thậm chí không gọi anh ta bằng tên của anh ta nữa kìa.” 
“Cháu chưa bao giờ nghe về chú ấy cho đến khi cháu nhìn thấy tất cả những tin tức về chú ấy trong tuần nay.” Courtney thừa nhận. “Mặc dù vậy, cháu đoán là chú ấy vô cùng nổi tiếng.” 
“Đúng, cho rất nhiều chuyện tồi tệ. Tôi nợ cháu mười sáu đô–la.” Anh moi tiền ra khỏi túi của anh và đặt nó trên bàn. 
“Chú ấy có vẻ như là một người xấu vào cái ngày chú ở bên cạnh chú ấy không?” 
“Để tôi nói như thế này nhé – tôi sẽ không thích ở gần anh ta khi anh ta nổi nóng. Đám cảnh sát hôm đó đã chọc tức anh ta, nhất là gã cảnh sát Harwell, và Valente không thích vậy. Anh ta trở nên rất, rất im lặng… và mắt của anh ta trở nên thật sự, thật sự lạnh lẽo… hiểu ý tôi không?” 
Trí tò mò của Courtney trỗi dậy. “Chú ấy trông giống như… kẻ giết người ư?” 
“Vâng, cháu có thể nói thế.” 
“Có lẽ cháu nên lưu lại trong lúc chú ấy ở đây, chỉ để đảm bảo là Leigh được ổn.” 
Chuông cửa trước reo vang, và O’Hara gạt bỏ lời đề nghị của cô bé. “Tôi sẽ gần bên trong lúc anh ta ở đây, nhưng tôi nghĩ không có chuyện gì để lo lắng cả. Từ những gì tôi đã đọc được mấy năm qua, anh ta có liên quan đến nhiều vụ làm ăn kinh doanh che đậy, nhưng anh ta đã không làm bất cứ chuyện bạo lực nào trong một thời gian dài.” 
“Thật làm cho người ta yên tâm đấy.” Courtney nói một cách chế nhạo. 
“Vậy thì, có lẽ chuyện này sẽ làm cho cháu yên lòng hơn…” anh nói với cái nháy mắt tâm sự. “Ngày hôm đó ở miền núi, cảnh sát bảo bà Manning đứng đợi ở trên đường chính trong khi họ kiểm tra ca–bin. Khi không có ai quay trở lên để kể cho chúng tôi nghe bất cứ thứ gì, Valente bế Bà Manning lên và mang bà ấy trong cánh tay của anh ta đi băng qua tuyết, xuống ca–bin. Sau đó anh ta bồng bà ta quay trở lại đường chính. Anh ta trở thành Ngài Galahad thực sự khi anh ta ở gần bà ta.” 
“Thật sao?” Courtney thở ra. “Thật là… thú vị.” 

“Tôi sẽ gọi cho cháu khi chúng tôi nghe bất cứ tin gì về ông Manning.” O’Hara hứa trên đường đi về phía phòng khách. 
Thay vì tự mình rời khỏi từ cánh cửa giao hàng trong nhà bếp, Courtney lặng lẽ đi đến ngưỡng cửa vào phòng ăn. Dựa vai vào khung cửa, cô bé quan sát kỹ người đàn ông cao lớn, vai rộng đi xuống những nấc thang trong tiền sảnh dẫn vào phòng khách. Theo những gì cô đã đọc và nghe về anh trong tuần nay, Michael Valente là một người lão luyện trong việc trốn tránh các phóng viên như anh đã trốn tránh những nỗ lực muốn đưa anh vào tù. 
Anh chắc chắn là một người “nổi tiếng”, nhất là hiện giờ. 
Cô đã có một số sự kiện “mới và khác thường” về anh. 
Là chủ đề của cuộc phỏng vấn, anh có thể chứng minh có nhiều sức hấp dẫn hơn Đức giáo hoàng hoặc tổng thống. 
Cô bé quan sát nụ cười trang trọng của anh khi anh đưa cả hai tay ra cho Leigh và nói, “Tôi đã thật lo lắng về cô.” 
Giọng của anh lắc mạnh Courtney. Anh có giọng nói thật tuyệt vời, sâu trầm và đặc biệt. Nếu anh không là một tên tội phạm, anh có thể dùng giọng nói đó để có lợi thế to lớn vào ngành ra–đi–ô hoặc truyền hình. 
Cô bé bước ra ngoài với O’Hara, tia nhìn của cô chuyển sang cái hộp trắng bằng phẳng lớn mà Valente đã trao cho anh khi anh ta bước vào nhà. Nhét dưới cánh tay của O’Hara là một cái túi nâu, vặn lại trên miệng, Courtney cho là nó chứa chai gì đó với hàm lượng cồn. 
“Cháu còn ở đây à?” Joe hỏi cô với vẻ bất ngờ. 
“Cháu đang rời khỏi, nhưng cháu muốn được nhìn thấy Valente tận mắt.” cô bé trả lời, đi theo anh vào nhà bếp. “Cái gì trong hộp thế?” 
“Tôi không biết.” anh nói, đặt nó trên bàn. “Nhưng nếu tôi phải đoán, tôi dám chắc nó là bánh pizza.” 
“Chú ấy đem lại cho cô ấy bánh pizza ư?” Courtney kêu lên với cười gượng ép. “Bánh pizza ư? Chú ấy sở hữu một chiếc máy bay trực thăng và toàn bộ một dãy cao ốc ở Thành phố New York – Cháu sẽ nghĩ là chú ấy sẽ mang đến bữa ăn bảy món từ Le Cirque, với một vòng đeo tay kim cương để làm vòng cột khăn lau miệng chứ.” 
“Thật sao? Tôi nghĩ cháu biết nhiều về anh ta hơn tôi rồi đấy.” 
“Cháu không biết nhiều về chú ấy, nhưng cháu sẽ điều tra.” Cô mở nấp của cái hộp trắng phẳng và lắc mạnh đầu với nỗi khiếp sợ. “Ôi, kinh quá!” 
Đang cố gắng nghĩ ra cách để mở một trong những cái lò nướng, O’Hara nhìn qua vai của anh để xem chuyện gì đã làm cho cô bé la lớn. 
“Là bánh pizza chưa nướng.” cô bé nói, chỉ tay một cách cáo buộc tới món đồ, “Phủ những con tôm khổng lồ.” Cô bé lại lắc mạnh đầu. “Vậy mà là người Ý à?” 
“Tôi không biết. Riêng tôi thì thích xúc xích hơn.” 
“Cháu ghét tôm trong tất cả các món ăn có nó.” Cô bé mở túi giấy nâu, lấy ra một chai rượu vang đỏ từ bên trong, và xem xét kĩ lưỡng nhãn hiệu. “Chú này là một người thực sự lạ lùng. Chú ấy uống một chai rượu vang đỏ ba trăm đô la với bánh pizza tôm.” 
Đầu óc của O’Hara ở trên nhiệm vụ đang làm. “Valente bảo tôi đặt nó vào trong lò. Thông thường, tôi sẽ bảo anh ta đừng xía vào chuyện của người khác, nhưng bà Manning đã không ăn miếng nào mấy ngày nay. Cháu có biết làm sao để bật cái lò này không?” 
“Khó đến mức nào chứ?” Courtney trả lời, đổi chỗ với O’Hara, anh bắt đầu mở nút chai rượu ở cái tủ bàn ở giữa nhà bếp. Trong một khoảnh khắc ngắn, cô bé quan sát một dãy nút và núm vặn trên bốn cái lò nướng thép không gỉ xây vào bức tường gạch, đầu óc nhanh nhẹn của cô bé nhanh chóng tính toán khả năng có thể xảy ra. “Cái này.” cô bé nói một cách chắc chắn. Và thay đổi thời gian trên đồng hồ.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.