Bạn đang đọc Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên – Chương 55 – 27 – 28
26. TRỨNG CHÂU CHẤU
Một bữa, Laura cùng Jack lang thang xuống dưới suối. Mary thích ngồi đọc sách và làm toán trên những tấm bảng, nhưng Laura thấy nản với những thứ đó. Nhưng ngoài trời cảnh sắc cũng tội nghiệp tới mức cô không muốn chơi.
Suối Plum gần như cạn khô. Chỉ cò một dòng nước nhỏ rỉ qua đám sỏi cát. Lúc này hàng liễu không còn rũ bóng trên cây cầu nhỏ. Dưới bụi mận không còn lá, nước nổi váng. Con cua già đã đi mất.
Dất khô nẻ nóng hực, nắng như lửa thiêu và bầu trời nhuộm màu đồng thau. Những con châu chấu vỗ cánh giống như quạt lửa. Không có một thứ gì có mùi vị dễ chịu.
Rồi Laura nhìn thấy một điều kì lạ. Khắp đồi, những con châu chấu đứng bất động với những cái đuôi kéo lê trên đất. Chúng không cục cựa ngay cả khi Laura cời thọc chúng.
Cô gạt một con ra xa khỏi chiếc lỗ mà nó đang ngồi ở trên và với chiếc que, cô moi ra khỏi lỗ một vật màu xám. Nó giống một con trùn mập nhưng lại không phải là một vật sống. Cô không biết nó là thứ gì. Jack hửi nó và cũng ngơ ngác.
Laura đi thẳng ra đồng lúa tìm bố để hỏi. Nhưng bố không cày đất. Sam và David đứng im với cây cày còn bố đi quanh chỗ đất chưa cày nhìn ngó. Rồi Laura thấy bố đi tới chỗ cây cày nhấc ra khỏi luống. Bố đưa Sam và David về chuồng với cây cày.
Laura biết là phải có một điều gì khủng khiếp lắm mới khiến bố bỏ ngang công việc giữa buổi sáng. Cô cực nhanh về phía chuồng ngựa. Sam và David đã ở trong các gióng chuồng và bố đang treo những chiếc yên bóng mồ hôi của chúng lên. Bố bước ra không mỉm cười với Laura. Cô chậm chậm theo sát phía sau bố bước vào nhà.
Mẹ nhìn lên hỏi:
– Charles, có vấn đề gì vậy?
Bố nói:
– Châu chấu đang đẻ trứng. Đất bị chúng đục như tổ ong hết. Chỉ cần nhìn ra ngoài sân là em sẽ thấy những lỗ vùi trứng sâu khoảng vài inch đầy khắp. Trên đồng lúa mì cũng thế. Đầy khắp mọi nơi. Chúng dầy đến mức không có một lỗ hở để cắm vừa ngón tay. Em coi đây này!
Bố lấy ra một vật màu xám từ trong túi và cầm trong lòng bàn tay.
– Đây là một cái, một bọc trứng châu chấu. Anh đã mở ra và thấy mỗi bọc có từ ba mươi lăm đến bốn mươi trứng. Mỗi lỗ có một bọc và một bộ vuông có khoảng tám tới mười bọc. Trên khắp vùng này sẽ có bao nhiêu!
Mẹ rớt khỏi ghế và buông xuôi cả hai tay.
Bố tiếp:
– Mình không còn cơ may nào gieo trồng mùa tiếp để mà xoay sở. Khi những trứng này nở ra thì không còn một vật màu xanh nào tồn tại nổi trên khắp vùng đất này.
Mẹ nói:
– Ôi, Charles! Mình sẽ làm gì?
Bố buông người xuống ghế dài, nói:
– Anh không biết nữa.
Những bím tóc của Mary đu đưa bên mép lỗ cầu thang và cô ló mặt nhìn xuống Laura lo ngại trong lúc Laura nhìn lên cô. Rồi Mary bước xuống cầu thang không gây một tiếng động. Cô đứng sát bên Mary dựa lưng vào vách.
Bố đứng thẳng lên. Cặp mắt lờ đờ của bố lóe lên một tia sáng dữ dội khác hẳn tia sáng mà Laura vẫn thường thấy lóe lên trong ánh mắt bố.
Bố nói:
– Nhưng anh biết điều này, Caroline! Không một đám châu chấu gây rối hỗn loạn nào có thể thắng được mình! Mình sẽ làm một điều gì đó! Rồi em sẽ thấy! Mình sẽ xoay sở được bằng một cách nào đó.
Mẹ nói:
– Phải đó, Charles!
Bố tiếp:
– Sao lại không nhỉ? Mình đều khỏe mạnh, mình đã có một mái nhà ở trên đầu, mình khá hơn rất nhiều so với nhiều nông dân khác. Em lo bữa ăn trưa sớm đi, Caroline. Anh sẽ ra thị trấn. Anh sẽ tìm ra một điều gì đó để làm. Em đừng lo!
Trong lúc bố ra thị trấn, mẹ cùng Mary sắp xếp làm cho bố một bữa ăn tối thật ngon. Mẹ đun nóng xoong sữa chua và làm những miếng phomai trắng mềm khá đẹp. Mary và Laura xắt mỏng những củ khoai tây luộc để nguội và mẹ làm nước sốt. Ngoài ra còn có bánh mì, bơ và sữa.
Rồi tất cả tắm rửa, chải tóc. Các cô đều mặc những bộ quần áo đẹp nhất và buộc băng buộc tóc. Bè Carrie mặc chiếc áo trắng, tóc chải mượt và đeo quanh cổ sợi xâu chuỗi bằng những hạt đeo của người da đỏ. Tất cả đều chờ đón khi bố xuất hiện trên ngọn đồi còn đầy châu chấu.
Đó là một bữa ăn tối vui vẻ. Khi mọi món ăn đã hết, bố đẩy chiếc đĩa ra và nói:
– Rồi, Caroline!
Mẹ hỏi:
– Sao, Charles?
Bố nói:
– Đây là lối thoát: Anh sẽ đi về miền đông vào sáng mai.
Mẹ kêu lớn:
– Ôi, Charles! Đừng!
Bố nói:
– Ổn hết rồi, Laura!
Câu nói của bố có nghĩa là “đừng khóc!” và Laura không khóc. Bố nói với tất cả:
– Mùa vụ phải lui lại. Châu chấu chỉ có khoảng một trăm dặm từ đây về phía đông. Vượt qua khỏi mức đó mùa vụ đang tiếp tục. Đó là cơ hội để có việc làm và tất cả đàn ông ở miền tây đều đổ xô về đó để kiếm việc. Anh phải tới đó thật mau.
Mẹ nói:
– Nếu anh nghĩ đó là cách duy nhất thì các con và em có thể xoay sở được. Nhưng mà, Charles, đi bộ như thế thì quá cực cho anh!
Bố nói:
– Chậc! Đi về hai trăm dặm là cái quái gi?
Nhưng bố liếc nhanh đôi ủng vá. Laura biết là bố đang tự hỏi coi chúng sẽ chịu đựng được bao nhiêu đoạn đường. Bố nói:
– Đi về hai trăm dặm không có gì đáng kể!
Rồi bố lấy cây đàn ra khỏi hộp. Bố chơi đàn một hồi lâu to ánh hoàng hôn. Laura và Mary ngồi sát cạnh bố còn mẹ đu đưa bé Carrie ở gần bên.
Bố chơi bài “Đất miền Nam”, bài “Góp mặt dưới cò”, bài “Mũ xanh đã tới” rồi bố hát:
Hởi Susanna vô vàn yêu dấu
Đừng khóc than khi anh bước chân đi
Đất Cali nồng nàn vẫy gọi
Dù hành trang anh chẳng có thứ gì!
Bố chơi tiếp bài: “Hoan hô! Hoan hô! Campbell đang tới”. Rồi bố chơi bài “Cuộc đời yêu dấu” và xếp đàn cất đi. Bố phải ngủ sớm để dậy sớm vào sáng mai.
Bố dặn mẹ:
– Giữ kĩ cây đàn cũ đó nghe, Caroline! Nó nuôi sống con tim một người đó.
Sau bữa điểm tâm, bố ôm hôn tất cả rồi ra đi. Chiếc sơ-mi thượng hạng của bố cùng đôi vớ ngắn được cuốn trong chiếc áo va-rơi đeo lủng lẳng dưới vai bố. Trước khi băng qua suối Plum, bố ngoái nhìn lại và vẫy tay. Rồi bố tiếp tục đi, xa khỏi tầm nhìn và không ngoái đầu lại. Jack đứng áp sát vào Laura.
Tất cả đều đứng im thật lâu sau khi bố đi khuất một lúc. Rồi mẹ lên tiếng vui vẻ:
– Bây giờ phải lo mọi thứ thôi, các con gái. Mary, Laura! Hãy mau đưa bò ra nhập bầy đi.
Mẹ hối hả bước vào trong nhà với bé Carrie trong lúc Laura và Mary chạy tới đưa Spot ra khỏi chuồng, dẫn nó đi về phía dòng suối. Không còn cỏ trên đồng nên bầy bò đói chỉ có thể quanh quẩn dọc theo các bờ suối ăn những chồi liễu, chồi mận và số cỏ khô héo từ mùa hè vừa qua.
27. MƯA
Mọi thứ đều tẻ nhạt và buồn chán khi bố vắng mặt, Laura và Mary không còn tính nổi ngày tháng cho tới khi bố trở về. Các cô chỉ nghĩ tới việc bố cứ phải đi xa mãi với những chiếc ủng vá chằng chịt.
Lúc này, Jack trở nên điềm tĩnh với chiếc mũi đã ngả màu xám. Nó thường ngó về phía con đường vắng hoe mà bố đã theo đó ra đi rồi thở ra một hơi dài và nằm xuống ngóng nhìn. Nhưng nó thực sự không hy vọng thấy bố trở về.
Cánh đồng trụi cỏ nằm chết dí dưới nắng gắt. Những lùm bụi điên loạn cuốn lên quay cuồng cùng khắp. Mé bờ xa xa của đồng cỏ giống hệt như một con rắn đang trườn. Mẹ bảo đó là hình ảnh gây ra do làn hơi nóng đang xao động như sóng gợn.
Chỉ riêng bên trong nhà là có bóng mát. Những bụi mận, những cây liễu đều không có lá. Dòng suối Plum gần khô nước. Trong các trũng sâu chỉ còn lại một ít nước đọng. Giếng cũng đã cạn và lạch nguồn bên cạnh căn nhà hầm chỉ còn chảy nhỏ giọt. Mẹ đặt một chiếc xô nước vào nhà và đặt thay vào đó một chiếc xô khác hứng tiếp trọn ngày.
Khi làm xong công việc buổi sáng, mẹ cùng Mary, Laura và bé Carrie ngồi trong nhà. Những cơn gió nóng rít lên và lũ bò đói cỏ không ngừng la rống.
Spot sút hẳn đi. Những khớp xương hông của nó vêu nhọn và tất cả xương sườn phô ra cùng với những hõm sâu quanh nắng. Suốt ngày nó đi bên những con bò khác la rống tìm kiếm một thứ để ăn. Chúng đã ăn trụi những bụi cây dọc bên dòng suối và ngắt những chiếc lá liễu ở trên cao mà chúng không với tới nổi. Sữa của Spot có pha vị đắng và mỗi ngày một ít hơn.
Sam và David đứng trong chuồng. Chúng không thể ăn cỏ khô tùy thích vì những đống cỏ khô còn phải để dành cho tới mùa xuân sau. Khi Laura dắt chúng xuống lòng suối cạn tới trũng nước sâu ngày nào, chúng nhăn mũi lại trên lớp nước đầy váng nóng hầm hập. Nhưng chúng phải uống lớp nước đó. Bò và ngựa phải đều chịu chung những điều như thế.
Thứ bảy, Laura tới nhà ông Nelson để coi xem có thư của bố gửi về không. Dãy nhà chuồng thấp dài của ông ta có một mái che dầy bằng cỏ khô. Nhà và chuồng ở đây đều khác hẳn căn nhà và khu chuồng của bố. Chúng dựa áp sát vào đất phía dưới một khoảng dốc của đồng cỏ và có vẻ như cố bộc lộ tính chất Nauy.
Phía trong nhà sáng trưng. Chiếc giường lớn chồng cao nệm nhồi lông chim với những chiếc gối căng phồng. Trên vách là bức chân dung rất đẹp của một thiếu phụ mặc áo màu xanh lơ. Khung hình thép vàng dày và một lớp lưới muỗi màu hồng phủ kín cả hình lẫn khung để giữ không cho ruồi bay tới.
Không có thư của bố. Bà Nelson bảo rằng thứ bảy sau ông Nelson sẽ lại tới hỏi bưu điện.
Laura nói:
– Cảm ơn bà!
Và cô vội vã bước nhanh dọc lối đi. Rồi cô đi chậm lại qua cây cầu nhỏ và chậm hơn nữa lên đồi.
Mẹ nhắc:
– Đừng nghĩ ngợi gì, các con. Thứ bảy tới sẽ có thư.
Nhưng thứ bảy tới vẫn không có thư.
Các cô không còn tới dự buổi học ngày chủ nhật. Carrie chưa thể tự mình đi xa như thế và lại quá nặng khiến mẹ không bồng nổi. Laura và Mary cũng phải để dành các đôi giày. Các cô không thể đi chân trần tới buổi học còn nếu mang giày thì sẽ không có giày vào mùa đông tới.
Vì vậy vào ngày chủ nhật, các cô mặc những bộ đồ đẹp nhất nhưng không mang giày, không cột dải buộc tóc. Mary và Laura nói về những đoạn Kinh thánh và mẹ đọc cho các cô nghe những đoạn ấy.
Một ngày chủ nhật, mẹ đọc cho các cô nghe đoạn nói về dịch do loài châu chấu đem tới thuở xa xưa. Mẹ đọc:
– Và giống châu chấu đi khắp vùng lãnh thổ Ai Cập, ngừng chân trên tất cả bờ biển Ai Cập, chúng chính là nỗi hận thù đau đớn.
Bởi chúng phủ đầy kín mặt đất khiến đất thành đen tối và chúng ăn sạch từng cọng cỏ trên đất, ăn sạch hoa quả trên cây, trên đồng cỏ trên khắp vùng đất Ai Cập.
Laura đã biết sự thật như thế nào. Khi nhắc lại những câu thơ trong đoạn Kinh thánh này cô nghĩ “trên khắp vùng đất Minnesota”.
Rồi mẹ đọc tới sự hứa hẹn của Chúa với những người tốt lành “sẽ mang những người đó ra khỏi vùng đất tai ương kia để tới một vùng đất an lành, một nơi bao la, một nơi mà sữa và mật tuôn trào như suối chảy”.
Mary hỏi:
– Ô, đó là đâu?
Và Laura cũng hỏi:
– Đất có thể phun ra sữa và mật như thế nào?
Cô muốn đạp chân lên sữa và chất mật dính láp nháp.
Mẹ đặt cuốn Kinh thánh lên đầu gối và suy nghĩ. Rồi mẹ nói:
– Này, bố các cô đã nghĩ rằng vùng đất đó ở ngay đây trong vùng Minnesota.
Laura hỏi:
– Làm sao có thể như thế được?
Mẹ nói:
– Có thể lắm chứ, nếu chúng ta biến nó thành như thế. Này nhé, Laura, nếu những con bò cái cho sữa ăn no cỏ trên khắp vùng đất này, chúng sẽ cho một lượng sữa rất lớn như thế chính là đất đã tuôn ra sữa. Những con ong đi hút mật trên tất cả những bông hoa dại mọc lên ở khắp vùng đất này và cho mật thì có khác gì đất đã tuôn ra mật.
Laura nói:
– Ôi! Con mừng là mình sẽ không đạp chân lên sữa và mật.
Bé Carrie đập những cánh tay nhỏ xíu lên cuốn Kinh thánh và hét:
– Em nóng! Em đau!
Mẹ nhấc bé lên nhưng bé đẩy mẹ ra và khóc:
– Mẹ nóng!
Da của bé Carrie tội nghiệp nổi sẩy nóng đỏ. Laura và Mary cũng cảm thấy nực nội trong đủ thứ quần áo, nào áo chẽn, áo lót, váy lót, áo cổ cao, ống tay áo và những băng nịt eo quấn giữa người. Sau gáy các cô, những bím tóc cũng gây cảm giác ngộp thở.
Carrie đòi uống nhưng lại đẩy chiếc ly ra và nhăn mặt nói:
– Dơ quá!
Mary nói với bé:
– Uống đỡ đi bé. Chị cũng muốn uống nước lạnh nhưng không có.
Laura lên tiếng:
– Em mong là em được uống một hớp nước giếng.
Mary nói:
– Chị mong có một nhũ băng.
Laura bỗng nói:
– Em ước gì mình là người da đỏ để khỏi phải mặc quần áo.
Mẹ nói:
– Laura! Đang là chủ nhật, nghe!
Laura nghĩ:
– Đúng, con biết chứ!
Mùi gỗ trong căn nhà cũng nóng hầm hập. Trên tất cả các sọc nâu ở những tấm ván, nhựa cây nhỏ xuống khô lại thành những hạt cứng màu vàng. Gió nóng không ngừng rú và bầy bò không ngừng than vãn.
– Bòò-òò, bòò-òò!
Jack trở Mary, trút ra một hơi thở dài.
Mẹ cũng thở ra và nói:
– Mẹ giống như sẵn sàng đổi mọi thứ lấy một chút không khí.
Đúng lúc đó, một làn không khí lan vào trong căn nhà. Bé Carrie ngưng khóc. Jack ngển đầu lên. Mẹ nói:
– Các cô, có thấy…
Liền đó, một hơi mát khác lan tới.
Mẹ đi qua gian chái tới phần cuối bóng mát của căn nhà. Laura vội vã chạy theo mẹ và Mary tới dắt bé Carrie. Ngoài trời giống như một lò hấp. Không khí nóng hắt thẳng vào mặt Laura.
Mãi góc trời phía bắc có một đám mây. Đám mây nhỏ xíu trong bầu trời chói chang mênh mông. Nhưng nó vẫn là một đám mây và in một vệt bóng mát lên đồng cỏ. Bóng mát dường như chuyển động nhưng có lẽ chỉ là hình ảnh do những gợn sóng hơi nóng. Không, nó thực sự đang tiến tới gần hơn.
– Ôi, lạy trời, lạy trời, lạy trời!
Laura thầm khấn một cách lặng lẽ. Tất cả đều đưa tay che mắt ngắm đám mây và bóng che của nó.
Đám mây tiếp tục tới gần hơn. Nó trở nên lớn hơn, là một vệt đen dầy trong khoảng không trên đồng cỏ. Các cạnh đám mây uốn lại và căng phồng lên thành những khoảng phùng lớn. Lúc này, những đợt không khí lạnh bùng lên hòa với những đợt hơi nóng dữ dội hơn.
Trên khắp đồng cỏ, những cột bụi quái đãng bốc lên hỗn loạn dữ dằn với những chiếc vòi đan xoay tít. Mặt trời đang đỏ lửa trên căn nhà, trên chuồng ngựa và trên mặt đất khô nẻ. Bóng của đám mây đã trôi đi.
Đột nhiên, một tia lửa trắng vạch loằng ngoằng và một tấm màn xám từ đám mây ụp xuống treo lơ lửng tại đó, che kín hẳn vùng trời phía bên kia. Trời mưa. Rồi tiếng sấm rền lan tới.
Mẹ nói:
– Mưa ở xa quá, các con. Mẹ sợ là mưa không tới đây được. Nhưng bề gì thì cũng mát hơn.
Hương vị mát mẻ của trận mưa thành những đợt hơi lạnh tràn tới xuyên qua làn gió nóng.
Laura nói:
– Ô, mưa có thể tới đây, mẹ ơi! Có thể mưa tới!
Tất cả đều thầm cầu nguyện ở trong đầu:
– Lạy trời! Lạy trời! Lạy trời!
Gió thổi lạnh hơn. Bóng mây lan rộng mãi một cách từ từ, từ từ. Rồi gần như đám mây tỏa lớn trên bầu trời. Đột nhiên, một bóng mát chòm qua mặt đất khô khốc kéo lên đồi và cấp kì. Sau đó là mưa kéo tới. Mưa xối xuống đồi như có hàng triệu bàn chân nhỏ xíu đang đạp xuống rồi rơi xối xả trên người mẹ, trên người Mary, trên người Laura và bé Carrie.
Mẹ kêu lại:
– Vào nhà, mau!
Tiếng mưa đổ ào ạt trên mái gian chái. Hơi lạnh lùa qua đó ùa vào căn nhà hầm hập. Mẹ mở toang cửa trước, buộc màn treo lên và mở tất cả cửa sổ.
Hơi đất ngùn ngụt bốc lên nhưng mưa dập xuống rửa sạch ngay. Mưa như gõ trống trên mái nhà, chảy ròng ròng qua các mái hiên. Mưa gột sạch không khí và một làn hơi mát dịu tràn ngập căn nhà. Laura không còn thấy đầu óc bị đè nặng và cảm thấy da dẻ hết sức dễ chịu.
Những dòng nước ngầu bùn chảy dài trên mặt đất khô cứng. Nước tràn qua các vết nứt dìm ngập tất cả. Nước mưa dâng xoáy những lỗ hổng chứa trứng châu chấu và biến những chỗ đó thành bùn lỏng. Trên trời chớp sáng lóe lên và tiếng sấm vang động rền rĩ.
Carrie vỗ tay hét lớn. Mary và Laura nhảy nhót cười sảng khoái, Jack vặn người chạy nhốn nháo như một con chó con, nhìn qua từng ô cửa sổ ra ngoài mưa và tiếng sấm nổ lớn kéo dài nó khẽ gừ lên, tựa hồ muốn nói:
– Ai mà thèm sợ!
Mẹ nói:
– Mưa này có thể kéo dài tới tối!
Đúng trước khi mặt trời lặn, mưa dứt. Mưa chuyển xuôi theo suối Plum băng qua đồng cỏ về phía đông chỉ còn lưu lại một ít hạt thưa thớt rơi xuống lấp lánh trong ánh nắng chiều. Rồi đám mây chuyển thành màu tím đỏ với những đường viền vàng rực cuốn lên sát bầu trời quang đãng. Mặt trời đã lặn xuống và những ngôi sao hiện ra. Không khí mát lạnh và đất ẩm ướt thoải mái.
Chỉ còn một điều duy nhất mà Laura mong ước là bố có mặt ở đó.
Hôm sau, mặt trời vươn lên nóng cháy. Bầu trời lại nhuộm màu đồng và gió như thiêu đốt. Trước lúc trời sập tối, những chồi cỏ như những mũi giáo li ti đâm lên từ mặt đất.
Chì vài ngày, một sọc màu xanh lục đã kéo ngang mặt đất màu nâu. Cỏ mọc lên ở những nơi mưa xối xuống và bầy bò đang đói mải miết gặm. Mỗi buổi sáng, Laura đưa Sam và David ra buộc vào dây cột để chúng cũng được ăn những ngọn cỏ non.
Bầy bò không còn la rống nữa. Những khớp xương của Spot bớt nhô ra. Nó cho sữa nhiều hơn và sữa cũng ngọt hơn. Ngọn đồi phủ màu xanh trở lại và những cây liễu, những cây mận đang trổ lá non.
28. LÁ THƯ
Suốt ngày, Laura luôn nhớ bố và về đêm cô cảm thấy trống rỗng, đau nhức khi nghe tiếng gió thổi đơn độc qua vùng đất tối đen.
Lúc đầu, cô hay nói về bố. Cô hỏi lúc này bố đang ở cách xa nhà khoảng bao nhiêu, rồi cô mong là những đôi ủng của bố còn chịu đựng được và cô hỏi tối nay bố đựng trại ở đâu.
Về sau cô không nhắc tới bố với mẹ nữa. Mẹ đang nghĩ không ngừng về bố nhưng mẹ không thích nhắc đến điều này. Mẹ không thích ngay cả việc tính ngày cho đến ngày thứ bảy.
Mẹ nói:
– Thời gian trôi nhanh hơn khi người ta không nghĩ về nó.
Suốt ngày thứ bảy, tất cả đều hy vọng ông Nelson nhận được một lá thư của bố gửi qua bưu điện trong thị trấn. Laura và Jack ra tận con đường lớn trên đồng cỏ để ngóng cỗ xe của ông Nelson. Lũ châu chấu đã ăn hết mọi thứ và lúc này đang bay đi xa không thành một đám mây lớn như khi chúng tới mà là nhiều đám mây nhỏ bay từng đoạn ngắn. Dù vậy, vẫn còn hàng triệu con châu chấu ở lại.
Lại không có thư của bố.
Mẹ nói:
– Đừng nghĩ ngợi gì. Rồi thư sẽ tới.
Mỗi lần Laura chậm chậm bước ngược lên ngọn đồi mà không có một lá thư, cô đều nghĩ:
– Có khi nào không bao giờ có thư không?
Cô cố xua đuổi ý nghĩ đó nhưng không làm nổi. Một hôm, cô nhìn Mary và biết rằng Mary cũng đang có cùng ý nghĩ.
Đêm đó Laura không thể chịu đựng thêm nổi nữa. Cô hỏi mẹ:
– Bố sẽ quay về nhà, phải không mẹ?
Mẹ kêu lên:
– Dĩ nhiên bố sẽ trở về chứ!
Lúc đó, Laura và Mary đều biết mẹ đang sợ có một điều gì đã xảy ra với bố.
Có lẽ đôi ủng của bố đã rã ra từng mảnh và bố đang lê khập khễnh những bàn chân trần. Có thể bầy bò đã khiến bố bị đau. Có thể một toa xe lửa đã đụng phải bố. Có thể bố đã gặp nạn với bầy sói vì bố không có súng. Cũng có thể trong rừng đêm tăm tối, một con báo từ ngọn cây đã phóng lên người bố.
Chiều thứ bảy kế tiếp, khi Laura dắt Jack ra ngóng ông Nelson, cô thấy ông băng qua cây cầu nhỏ đi tới. Trong tay ông có một cái gì màu trắng. Laura bay thẳng xuống đồi. Vật màu trắng là một lá thư.
Laura nói:
– Ôi, cảm ơn ông! Cảm ơn ông!
Cô chạy không kịp thở vào trong nhà. Mẹ đang lau mặt cho bé Carrie. Mẹ cầm lá thư bằng bàn tay ướt đẫm lóng ngóng và ngồi xuống.
Mẹ nói:
– Thư của bố.
Tay mẹ run đến mức mẹ không lấy nổi chiếc kẹp ra khỏi mái tóc. Mẹ mở bao bì và lôi lá thư ra. Mẹ mở thư và trong đó có một tờ giấy bạc.
Mẹ nói:
– Bố ổn rồi.
Mẹ chụp chiếc tạp dề lên mặt và khóc.
Nhưng khuôn mặt đẫm nước của mẹ hiện ra sau chiếc tạp dề sáng rỡ niềm vui. Mẹ lau nước mắt trong lúc đọc thư cho Mary và Laura nghe.
Bố phải đi bộ ba trăm dặm trước khi kiếm được một việc làm. Lúc này bố đang làm việc trong đồng lúa mì với số tiền công một đôla một ngày. Bố gửi về cho mẹ năm đôla và giữ lại ba đôla để mua đôi ủng mới. Mùa lúa ở đó rất tốt và nếu mẹ cùng các cô bé xoay sở được ổn thỏa thì bố sẽ ở lại đó làm việc lâu hơn.
Cả nhà đều nhớ bố và mong bố trở về. Nhưng bố bình an và đã có đôi ủng mới. Tất cả đều sung sướng trong ngày hôm đó.