Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên

Chương 26 - 19


Bạn đang đọc Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên – Chương 26 – 19


Chương 18
NGƯỜI DA ĐỎ CAO LỚN
Gió bấc la hét gào hú trọn ba ngày trên đồng cỏ rồi dịu xuống. Lúc này nắng ấm hơn và gió chỉ còn hiu hiu nhưng đã gợi lên cảm giác vào thu.
Những người da đỏ thường xuất hiện trên lối mòn chạy sát ngôi nhà. Họ đi tới tựa hồ như không có ngôi nhà ở đó.
Họ đều gầy, da nâu bóng và trần trụi, cưỡi những con ngựa nhỏ không có yên cương. Họ ngồi thẳng lưng trên những con ngựa trần trụi, không hề quay nhìn qua hai bên. Nhưng những con mắt đen của họ lóe sáng.
Laura và Mary đứng tựa vào vách nhà, chăm chú ngắm họ. Các cô thấy nước da nâu đỏ của họ tương phản nổi bật dưới bầu trời xanh và đầu họ quấn một sợi dây sặc sỡ với những cọng lông chim rung rinh. Da mặt những người da đỏ không khác thứ gỗ nâu đỏ mà Bố đã dùng để khắc cho Mẹ một cây thánh giá.
Bố nói:
– Anh cứ nghĩ đây là còn đường cũ họ không còn dùng nữa. Nếu biết nó còn được qua lại thì anh đã không dựng nhà ở sát bên thế này.
Jack rất ghét những người da đỏ và Mẹ bảo Mẹ không thể la cấm nó được. Mẹ nói:
– Người da đỏ kéo tới đây đông đến mức mà không khi nào nhìn lên em không thấy một người.
Vừa nói dứt Mẹ nhìn lên thì đã thấy một người da đỏ đang đứng sững. Ông ta đứng ngay khung cửa, nhìn mọi người và tất cả đều không hề nghe thấy một tiếng động. Mẹ hổn hển:
– Chúa ơi!
Jack đâm bổ tới người da đỏ. Bố chụp trúng ngay chiếc vòng cổ của nó vừa kịp lúc. Người da đỏ không nhúc nhích, đứng im lìm tựa hồ Jack không hề làm gì.
Ông ta nói với Bố:
– Thế nào!
Bố giữ chặt Jack và đáp lại:
– Thế nào!
Bố lôi Jack tới chân giường, cột nó vào đó. Trong lúc Bố làm, người da đỏ bước vào nhà, tới ngồi xổm gần lò bếp.
Rồi Bố tới ngồi xổm xuống cạnh người da đỏ. Họ ngồi đó thân mật nhưng không nói một lời trong lúc Mẹ đang nấu nướng.
Laura và Mary tựa sát nhau nín lặng trên một góc giường. Các cô không thể rời mắt khỏi người da đỏ. Ông ta ngồi im đến mức những cọng lông ó trên đầu không lay động. Chỉ riêng lồng ngực để trần nhẵn thín của ông ta dưới khung xương sườn khẽ lên xuống theo nhịp thở. Những miếng da bọc ống chân ông ta được viền tua còn giầy da của ông ta có đính nhiều hạt chuỗi.
Mẹ đưa cho Bố và ông ta hai dĩa nhôm đựng thức ăn và cả hai lặng lẽ ăn. Rồi Bố đưa cho người da đỏ một ít thuốc để ông ta nhồi vào dọc tẩu. Hai người đều nhồi đầy thuốc vào dọc tẩu rồi mồi thuốc bằng những cục than trong lò bếp và lặng lẽ hút cho tới khi thuốc trong tẩu cháy hết.
Suốt thời gian đó, không ai nói một tiếng nào. Nhưng lúc này người da đỏ nói một điều gì đó với Bố. Bố lắc đầu đáp:
– Không biết nói.
Cả hai lại ngồi lặng thinh thêm một hồi lâu nữa. Rồi người da đỏ đứng lên, bước đi không một tiếng động.
Mẹ kêu lên:
– Nhờ ơn Chúa!
Laura và Mary ùa tới bên cửa sổ. Các cô nhìn thấy chiếc lưng thẳng đứng của người da đỏ đang rời xa dần trên lưng một con ngựa nhỏ. Ông ta đặt một cây súng nằm ngang trên đầu gối thò sang hai bên.
Bố nói người da đỏ đó không thuộc hàng tầm thường. Qua hình thức đầu của ông ta. Bố đoán ông ta là người Osage.
Bố nói:
– Nếu anh đoán không lầm thì ông ta biết nói tiếng Pháp. Anh ước gì mình biết được vài tiếng của cái ngoại ngữ đó.
Mẹ nói:
– Hãy để những người da đỏ cho riêng họ còn mình thì cho riêng mình. Em không thích thấy người da đỏ quẩn ở quanh chân.
Bố nói với Mẹ là đừng sợ. Bố nói:
– Người da đỏ đó hoàn toàn thân thiện. Trại của họ nằm giữa các vách đất khá yên ổn. Nếu mình đối xử tốt với họ và canh chừng Jack kĩ thì sẽ không có gì lộn xộn cả.
Ngay sáng hôm sau, Bố vừa mở cửa bước ra chuồng ngựa thì Laura thấy Jack đang đứng giữa đường mòn của người da đỏ. Nó đứng bất động, lông trên lưng dựng đứng, răng nhe ra. Giữa đường ngay trước nó là người da đỏ cao lớn ngồi trên lưng ngựa.
Người da đỏ và con ngựa đứng không nhúc nhích. Jack rõ ràng cho thấy nó sẽ chồm thẳng tới nếu họ cử động. Chỉ những cọng lông ó dựng thẳng trên đỉnh đầu người da đỏ chập chờn xoay trong gió.
Khi người da đỏ nhìn thấy Bố, ông ta nhấc khẩu súng lên nhắm vào Jack.
Laura vùng chạy ra cửa, nhưng Bố đã nhanh hơn. Bố chen vào giữa Jack và khẩu súng, cúi xuống chộp lấy chiếc vòng cổ của Jack. Bố lôi Jack ra khỏi con đường mòn của người da đỏ và người da đỏ thúc ngựa đi tới, theo con đường mòn.
Bố dang rộng chân, thọc hai bàn tay vào túi đứng nhìn người da đỏ xa dần, xa dần, băng qua đồng cỏ.
Bố nói:
– Đúng là có một hiệu lệnh tụ họp. Được, đó là đường đi của họ. Một đường mòn da đỏ, có đã lâu từ trước khi mình tới.
Bố móc một khoen sắt vào vách nhà và xích Jack vào đó. Từ đó, Jack luôn bị xích. Ban ngày, nó bị xích vào vách nhà còn ban đêm thì bị xích trước cửa chuồng ngựa, vì lúc này đã có những tên trộm xuất hiện trong vùng. Những con ngựa của ông Edwards vừa bị bắt trộm.
Jack càng lúc càng khó chịu hơn vì bị xích. Nó không coi con đường mòn kia là đường mòn của người da đỏ mà nghĩ là con đường thuộc về Bố. Và Laura biết sẽ có một điều khủng khiếp xảy ra nếu Jack đụng tới một người da đỏ.
Lúc này mùa đông đang tới. Đồng cỏ biến màu ảm đạm dưới màu trời u ám. Gió nỉ non than tựa hồ đang tuyệt vọng kiếm tìm một điều gì đã mất. Đám hoang thú đang khoác những bộ da dày cho mùa đông và Bố đi đặt bẫy trong trũng lạch suối. Mỗi ngày Bố đều đi thăm chừng bẫy và đi săn. Lúc này về đêm lạnh cóng nên Bố đi bắn nai để ướp thịt. Bố cũng bắn sói và cáo để lấy da và những chiếc bẫy thì bắt hải ly, chuột xạ hương và báo nước.
Bố căng những tấm da ở phía ngoài nhà và buộc cẩn thận, phơi cho khô. Buổi tối, Bố chà xát những tấm da khô bằng hai bàn tay cho mềm rồi chất thành đống trong một góc nhà. Mỗi ngày đống da một lớn hơn.

Laura thích vuốt ve những tấm da cáo dày màu đỏ, thích những tấm da hải ly mềm mại, màu nâu và cả những tấm da sói bờm xờm. Nhưng hơn hết thảy, cô thích nhất những tấm da báo nước óng bạc. Bố gom tất cả những tấm da này để dành đem đi bán tại Independence vào mùa xuân tới. Laura và Mary đã có những chiếc mũ da thỏ còn Bố thì có chiếc mũ bằng da chuột xạ hương.
Một bữa, hai người da đỏ tới vào lúc Bố đang đi săn. Họ đi thẳng vào nhà vì Jack đã bị xích.
Những người da đỏ này dơ dáy, cau có và tồi tệ. Họ xử sự tựa hồ ngôi nhà này là của riêng họ. Một người lục tủ của Mẹ lấy hết bánh mì. Người kia lấy túi thuốc hút của Bố. Họ ngắm mấy chiếc móc treo súng của Bố, rồi một người ôm trọn đống da thú.
Mẹ ôm bé Carrie trong tay còn Mary và Laura đứng sát cạnh Mẹ. Mấy mẹ con đứng nhìn người da đỏ kia ôm đống da thú của Bố, không thể làm gì để cản lại.
Người đó mang đống da ra khỏi cửa. Rồi người kia nói một điều gì đó. Cả hai phát ra từ trong họng những tiếng kì quặc và người đó liệng hết những tấm da xuống. Cả hai bỏ đi.
Mẹ buông người ngồi xuống. Mẹ ghì chặt Mary cùng Laura và Laura cảm thấy rõ nhịp tim đập mạnh của Mẹ.
Mẹ cười nói:
– Được rồi. Mẹ phải cám ơn họ đã không lấy chiếc cày và những hạt giống.
Laura ngạc nhiên. Cô hỏi:
– Chiếc cày nào đâu?
Mẹ đáp:
– Chiếc cày và tất cả những hạt giống cho năm tới của mình là đống da thú đó.
Khi Bố trở về, mấy mẹ con kể về những người da đỏ này và Bố tỏ ra bình tĩnh. Bố chỉ nói mọi việc đều đã kết thúc tốt đẹp.
Tối đó, khi Mary và Laura vào giường nằm thì Bố lấy cây đàn xuống. Mẹ ôm bé Carrie sát trước ngực, đung đưa chiếc ghế đu và Mẹ bắt đầu hát nho nhỏ theo tiếng đàn:
Cô gái da đỏ hoang dại lang thang
Với cái tên Alfarata rạng rỡ
Trôi về đâu con nước trong xanh đó
Những mũi tên cứng và luôn thẳng tắp
Nằm sẵn sàng trong túi đựng vẽ đầy hoa
Con thuyền nhẹ lướt nhanh như tên bắn
Xuôi dòng sông vùn vụt trôi xa
“Dũng cảm ơi, chiến sĩ của lòng em
Người yêu dấu của Alfarata mãi mãi
Lòng tự hào phủ trùm như nắng mới
Dọc theo dòng Juniata cuộn sóng mênh mang
Dịu ngọt thì thầm chàng nói với em
Rồi hét lớn lời hô quyết chiến
Giọng chàng nổi sấm rền rung chuyển
Và âm vang chân động bốn phương”
Lời ca ngân dài giọng người con gái da đỏ
Với cái tên Alfarata rạng rỡ
Trôi về đâu dòng Juniata thẳm sâu
Ngày tháng qua đi như gió thoảng mau
Giọng Alfarata vẫn u sầu đọng lại
Đọng lại mãi trên con nước trôi mê mải
Dòng Juniata xanh ngát thẳm sâu.
Giọng Mẹ và tiếng đang nhè nhẹ tan đi. Và Laura lên tiếng:
– Giọng Alfarata trôi về đâu, Mẹ?
Mẹ kêu lên:
– Chúa ơi! Con vẫn chưa ngủ sao?
Laura nói:
– Con sắp ngủ rồi. Nhưng Mẹ nói cho con biết giọng Alfarata đi về đâu?
Mẹ đáp:
– Ô, Mẹ nghĩ là cô ấy đi về miền tây. Những người da đỏ đều đi về phía đó.
Laura lại hỏi:
– Sao họ lại làm như vậy, Mẹ? Sao họ lại đi về miền tây?

Mẹ nói:
– Tại họ phải làm như vậy.
– Tại sao họ phải làm như vậy?
Bố chen vào:
– Chính phủ buộc họ phải làm thế, Laura. Thôi, ngủ đi.
Bố chơi đàn thêm một hồi nữa. Rồi Laura hỏi:
– Bố ơi, cho con hỏi thêm một câu nữa nghe?
Mẹ nói:
– Mẹ cho phép đó.
Laura lại lặp lại:
– Bố ơi, cho phép con…
Bố cắt ngang:
– Hỏi cái gì?
Không lịch sự chút nào khi ngắt ngang lời một cô gái nhỏ như thế, nhưng đương nhiên Bố có quyền làm.
– Chính phủ bắt người da đỏ phải đi hết về miền tây sao?
Bố đáp:
– Đúng. Khi người da trắng tới một vùng nào thì người da đỏ ở đó phải dời đi. Chính phủ sắp dời những người da đỏ ở đây đi xa hơn nữa về miền tây, bất kì lúc nào kể từ bây giờ. Đó là lý do mình có mặt ở đây, Laura. Người da trắng đang tới định cư tại vùng này và mình sẽ có phần đất tốt nhất do mình đã tới đây trước tiên và cắm sẵn cọc mốc. Bây giờ con hiểu rõ chưa?
Laura nói:
– Dạ, Bố. Nhưng, Bố này, con nghĩ đây là lãnh thổ của người da đỏ mà. Như thế họ có thể nổi điên lên vì phải…
Bố lên tiếng một cách dứt khoát:
– Không hỏi thêm nữa, Laura. Ngủ đi!
 
Chương 19
ÔNG EDWARDS GẶP ÔNG GIÀ NOEL
Ngày ngắn dần lại, lạnh buốt, gió rít gai người, nhưng không có tuyết. Mưa gió dầm dề. Ngày nối ngày, mưa đổ xuống ào ào trên mái và xối xả trên các mái hiên.
Mary và Laura ngồi sát bên lò sưởi, khâu vá những tấm bọc chăn chằng chịt hoặc cắt những con búp bê bằng giấy từ những bao giấy có hình và lắng nghe tiếng mưa rơi tầm tã. Cái lạnh mỗi đêm khiến các cô luôn mong sáng sớm hôm sau được thấy tuyết rơi, nhưng vào buổi sáng các cô vẫn chỉ nhìn thấy những đám cỏ ướt đẫm ủ rũ.
Các cô dán mũi vào các tấm kính cửa sổ do Bố mới ghép và vui thích vì có thể nhìn thấy bên ngoài. Nhưng các cô vẫn mong được thấy tuyết rơi.
Laura lo lắng vì Giáng Sinh đã tới gần và ông già Noel cùng với con tuần lộc có thể không đi được vì không có tuyết. Mary còn sợ là ngay cả khi có tuyết chưa chắc ông già Noel đã tìm ra các cô vì đang ở quá xa trong lãnh thổ của người da đỏ. Khi các cô hỏi Mẹ về điều này Mẹ bảo là chính Mẹ cũng không rõ.
Các cô lo lắng hỏi Mẹ:
– Hôm nay ngày mấy rồi. Còn mấy ngày nữa sẽ tới Giáng Sinh.
Và các cô đếm từng ngày trên các ngón tay cho tới khi chỉ còn một ngày nữa.
Sáng hôm đó, mưa vẫn rơi. Bầu trời xám xịt không một kẽ nứt. Các cô gần như chắc chắn không có Giáng Sinh. Nhưng các cô vẫn cố hy vọng.
Đúng trước buổi trưa, ánh sáng đổi khác. Những đám mây nứt ra và tan đi, chuyển thành trắng sáng trong bầu trời xanh trong. Nắng chiếu xuống, những con chim cất tiếng hót và hàng ngàn giọt nước lấp lánh trong cỏ. Nhưng khi Mẹ mở cửa để đón làn không khí tươi mát thì các cô nghe rõ tiếng lạch suối đang gào thét.
Các cô đã không nghĩ tới lạch suối. Bây giờ các cô thấy là các cô sẽ không có Giáng Sinh vì ông già Noel không thể nào vượt qua nổi lạch suối đang gào thét kia.
Bố trở về, mang theo một con gà tây lớn mập căng. Bố nói nếu nó nặng dưới hai pound thì Bố sẽ ăn hết cả lông nó. Bố hỏi Laura:
– Bữa ăn Giáng Sinh sẽ như thế nào? Con có nghĩ là con sẽ xoay sở nổi một trong hai cái đùi gà này không?
Cô đáp được, cô có thể. Cô tỏ ra điềm đạm. Rồi Mary hỏi Bố liệu lạch suối có hạ thấp không và Bố nói nước vẫn đang dâng lên.
Mẹ nói điều đó quá tồi tệ. Mẹ không thích nghĩ tới việc ông Edwards phải thui thủi nấu nướng một mình trong ngày Giáng Sinh. Ông Edwards đã được mời tới dùng bữa Giáng Sinh cùng với họ, nhưng Bố lắc đầu bảo ai cố băng qua lạch suối lúc này đều là mạo hiểm như treo cổ lên.
Bố nói:
– Không nổi đâu. Nước chảy mạnh lắm. Mình chỉ nên nghĩ là Edwards không thể tới đây cho tới ngày mai.
Dĩ nhiên như thế cũng có nghĩa là ông già Noel không thể tới được.
Laura và Mary cố không nghĩ nhiều tới việc này. Các cô xem Mẹ vặt lông con gà tây rừng và thấy nó đúng là một con gà tây rất mập. Các cô đã may mắn được sống trong một ngôi nhà ấm áp, được sưởi ấm bên cạnh lò sưởi và có một con gà tây mập như thế để ăn trong bữa ăn Giáng Sinh. Mẹ nói vậy và cũng đúng như vậy. Mẹ bảo thật tệ là năm nay ông già Noel không đến được nhưng ông sẽ không quên những cô gái ngoan như các cô và chắc chắn ông sẽ đến vào năm tới.
Dù vậy, các cô vẫn không thấy vui.

Sau bữa ăn tối, các cô rửa mặt, rửa tay, cài nút những chiếc áo dài ngủ bằng nỉ đỏ, buộc lại dây mũ và đọc lời cầu nguyện một cách bình tĩnh. Các cô nằm xuống giường và kéo chăn đắp. Dường như trọn vẹn ngày Giáng Sinh chỉ có thế.
Bố và Mẹ im lặng ngồi bên lò sưởi. Một lúc sau Mẹ hỏi Bố sao không chơi đàn và Bố đáp:
– Giống như anh không còn lòng dạ nào để chơi đàn.
Một lúc sau nữa Mẹ đột ngột đứng dậy. Mẹ nói:
– Mẹ sẽ đi treo vớ của các con, các con gái. Có thể sẽ có một điều gì xảy ra.
Tim Laura đập mạnh. Nhưng lập tức cô lại nghĩ tới lạch suối và cho rằng không thể xảy ra điều gì cả.
Mẹ lấy một chiếc vớ dài sạch sẽ của Mary, một chiếc của Laura treo lên giá lò, mỗi chiếc một bên lò sưởi. Laura và Mary ngắm Mẹ qua các mép chăn phủ giường.
Mẹ hôn chúc các cô ngủ ngon, nói:
– Bây giờ ngủ đi. Buổi sáng sẽ mau tới nếu các con ngủ ngon.
Mẹ trở lại ngồi bên lò sưởi và Laura gần như đã ngủ. Cô hơi tỉnh dậy khi nghe Bố nói:
– Em chỉ làm một điều không tốt thôi, Caroline.
Và cô tưởng như nghe thấy Mẹ nói:
– Không đâu, Charles. Có đường trắng mà.
Nhưng cũng có lẽ cô đang mơ như thế.
Rồi cô nghe Jack gầm gừ một cách dữ dằn. Tiếng then cửa bị lay mạnh và có ai đó kêu:
– Ingalls! Ingalls!
Bố đang cời lửa lên và khi Bố mở cửa, Laura thấy đã sáng. Ngoài trời xám xịt.
Bố kêu lên:
– Lưỡi câu vĩ đại, Edwards! Vào đi, ông bạn! Chuyện gì xảy ra vậy?
Laura nhìn thấy những chiếc vớ dài đung đưa và cô dụi những con mắt gấp gay vào gối. Cô nghe thấy Bố chất củi vào lò lửa và cô nghe thấy ông Edwards nói ông ấy phải gấp quần áo lên đầu khi bơi qua lạch suối. Răng ông ấy va vào nhau lạch cạch và giọng ông ấy run rẩy. Ông ấy bảo ông ấy sẽ ổn ngay khi được sưởi ấm.
Bố nói:
– Đúng là mạo hiểm quá sức, Edwards. Tụi này rất mừng thấy anh tới đây, nhưng quả là mạo hiểm cho một bữa ăn Giáng Sinh.
Ông Edwards đáp:
– Mấy đứa nhỏ phải có một ngày Giáng Sinh chứ. Không một lạch suối nào có thể cản nổi tôi, sau khi tôi đã có cho chúng những món quà đem về từ Independence.
Laura bật ngồi dậy trên giường. Cô kêu lớn:
– Bác có thấy ông già Noel không?
Ông Edwards nói:
– Chắc chắn có rồi.
Mary và Laura cùng kêu lên:
– Ở đâu? Khi nào? Ông ấy như thế nào? Ông ấy có nói gì không? Có thực ông ấy gửi đồ về cho chúng cháu không?
Ông Edwards cười lớn:
– Chờ, chờ một chút!
Và Mẹ nói Mẹ sẽ bỏ đồ chơi vào những chiếc vớ, đúng như ý của ông già Noel. Mẹ nhắc cô không được phép nhìn.
Ông Edwards tới ngồi trên nền nhà sát bên giường của hai cô bé và trả lời từng câu hỏi của các cô: các cô cố không nhìn Mẹ và các cô hoàn toàn không thấy Mẹ làm gì.
Ông Edwards kể rằng khi thấy nước lạch suối dâng lên, ôn biết ngay là ông già Noel không thể nào băng qua nổi.
Laura nói:
– Nhưng bác qua được.
Ông Edwards đáp:
– Đúng. Nhưng ông già Noel quá già và mập nữa. Ông ấy không thể làm nổi điều mà chỉ những người có cái lưng dao cạo dài và chắc nịch như bác mới làm được.
Và ông Edwards giải thích việc ông già Noel không thể qua nổi lạch suối cũng như ông không thể đi khỏi Independenca bốn mươi dặm đồng cỏ chỉ với một vòng đi. Dĩ nhiên ông ấy không làm thế được.
Cho nên ông Edwards đã đi tới Independence. Mary hỏi:
– Giữa lúc trời mưa?
Ông Edwards nói ông mặc áo mưa nhựa. Tại đó, khi đang dạo phố ở Independence, ông đã gặp ông già Noel. Laura hỏi:
– Ngay giữa ban ngày.
Cô không nghĩ là có ai gặp được ông già Noel vào ban ngày. Ông Edwards nói không phải vào ban ngày mà là ban đêm, nhưng có ánh đèn từ các cửa hàng chiếu sáng đường phố.
Rồi, điều đầu tiên mà ông già Noel nói là:
– Chào anh, Edwards!
Mary hỏi:
– Ông ấy biết bác không?
Laura cũng hỏi:
– Làm sao bác biết chắc đó là ông già Noel?
Ông Edwards bảo ông già Noel biết hết mọi người. Phần ông thì nhận ra ông già Noel tức khắc nhờ bộ râu của ông ấy. Ông già Noel có bộ râu dài nhất, rậm nhất, trắng nhất trên toàn bộ miền tây sông Mississippi.
Vậy là ông già Noel nói:

– Tôi biết lúc này anh đang sống ở cuối sông Verdigris. ở dưới đó, anh có gặp hai đứa con gái nhỏ tên là Mary và Laura không?
Ông Edwards đáp:
– Tôi chắc chắn là có quen với hai cô bé đó.
Ông già Noel nói:
– Đó là một gánh nặng trong đầu tôi. Cả hai đứa đều là những cô gái dịu dàng, xinh đẹp, ngoan ngoãn và tôi biết chúng đang mong tôi. Tôi rất ghét làm những cô bé ngoan ngoãn như chúng phải thất vọng. Nhưng nước dâng lên cao như vậy khiến tôi không thể nào qua lạch suối nổi. Tôi không còn kiếm nổi cách nào để có mặt tại nhà mấy cô bé đó trong năm nay.
Ông ấy nói tiếp:
– Edwards, nhờ anh giúp tôi lần này, đem quà cho mấy cô bé được không?
Ông Edwards nói:
– Làm điều đó thì tôi rất sẵn lòng.
Rồi ông già Noel và ông Edwards bước ngang qua phố tới chỗ buộc con la thồ. Laura hỏi:
– Ông ấy không có tuần lộc hả?
Mary nói:
– Em biết là ông ấy không thể có chứ. Trời không có tuyết mà.
Ông Edwards nói đúng vậy. Ông già Noel đã cưỡi con la thồ đi về phía tây bắc.
Và, ông già Noel đã cởi gói quà, kiếm trong đó lấy ra mấy món quà cho Mary và Laura.
Laura kêu lên:
– Ô, những món gì vậy?
Nhưng Mary hỏi:
– Rồi ông ấy làm gì?
Rồi ông ấy bắt tay ông Edwards và phóng lên con ngựa màu nâu hồng hoàn hảo của ông ấy. Ông già Noel là một người cưỡi ngựa giỏi so với tầm vóc thân hình và sức nặng của ông ấy, và ông ấy sắp xếp lại bộ râu dài, trắng vào trong chiếc khăn choàng sặc sỡ và nói:
– Dài quá, Edwards.
Rồi ông thúc ngựa phóng đi trên con đường tới Fort Dodge dắt theo con la thồ và huýt gió.
Laura và Mary cùng im lặng một hồi lâu, nghĩ về những điều đó.
Rồi Mẹ lên tiếng:
– Bây giờ có thể coi được rồi, các con gái.
Một vật gì lấp lánh trên chiếc vớ dài của Laura. Cô hét lên, lao xuống giường. Mary cũng nhào theo nhưng Laura đã tới lò sưởi trước. Vật sáng lấp lánh kia là một chiếc ly nhôm mới đang loé chiếu.
Mary cũng có một chiếc giống hệt.
Những chiếc ly mới này là những chiếc ly riêng của các cô. Bây giờ mỗi cô đã có một chiếc ly để uống nước. Laura nhảy tưng tưng, la hét và cười nhưng Mary im lặng ngắm chiếc ly riêng của mình bằng đôi mắt sáng rỡ.
Rồi các cô lại thọc sâu tay vào trong những chiếc vớ, lôi ra được hai thỏi kẹo dài, thật dài. Đó là thỏi kẹo bạc hà với những sọc kẻ trắng và đỏ. Các cô ngắm đi, ngắm lại thỏi kẹo xinh xắn và Laura khẽ liếm thỏi kẹo của mình. Mary thì không ăn như thế. Cô không liếm thỏi kẹo dù chỉ một lần.
Những chiếc vớ vẫn chưa rỗng. Mary và Laura lôi thêm ra hai gói nhỏ. Các cô mở gói và thấy trong mỗi gói là một chiếc bánh ngọt nhỏ hình trái tim. Phủ trên màu nâu hấp dẫn của hai chiếc bánh là một lớp đường trắng rải rác. Những hạt đường giống như những bụi tuyết li ti.
Ăn những chiếc bánh xinh đẹp như thế thì thật uổng. Mary và Laura chỉ ngắm hai chiếc bánh. Nhưng cuối cùng Laura lật ngược chiếc bánh của cô lên và cô nhấm một miếng nhỏ ở phía dưới vào chỗ không nhô ra. Và phía trong chiếc bánh lộ ra một màu trắng.
Bánh được làm hoàn toàn bằng bột trắng tinh khiết ngào với đường trắng.
Laura và Mary không nhìn lại thêm vào những chiếc vớ. Những chiếc ly, những chiếc bánh và các cây kẹo hầu như đã là quá nhiều. Các cô sung sướng tới mức không thể nói được. Nhưng Mẹ nhắc là hình như những chiếc vớ chưa rỗng hẳn.
Các cô liền thọc bàn tay sâu vào trong để lục soát.
Và, ở tận cùng mỗi chiếc vớ là một đồng xu mới, chiếu sáng lấp lánh.
Không bao giờ các cô dám nghĩ sẽ có được một đồng xu như thế. Có được một đồng xu trọn vẹn cho riêng mình. Có được một chiếc ly, một chiếc bánh ngọt, rồi một cây kẹo và cả một đồng xu.
Chưa từng có một ngày Giáng Sinh như thế này.
Lúc này, dĩ nhiên Laura và Mary phải lập tức cảm ơn ông Edwards đã mang những quà tặng đáng yêu đó từ mãi Independence về. Nhưng các cô đã quên khuấy mất mọi điều về ông Edwards. Các cô quên ngay cả ông già Noel. Chắn chắn một phút sau các cô sẽ nhớ lại, nhưng trước khi các cô kịp nhớ, Mẹ đã nhắc nhở nhẹ:
– Các con cảm ơn ông Edwards chưa?
– Ô, cảm ơn bác, bác Edwards! Cảm ơn bác!
Hai cô cùng nói và với trọn vẹn chân tình. Bố cũng xiết bàn tay ông Edwards, lắc, rồi lắc nữa. Bố, Mẹ và ông Edwards cử động giống như cả ba đều đang muốn khóc khiến Laura không hiểu sao. Thế là cô lại ngắm những quà tặng xinh đẹp của mình.
Cô ngẩng lên nhìn khi Mẹ thổn thức. Và ông Edwards lấy ra những củ khoai lang từ trong túi. Ông bảo những củ khoai đã giúp ông giữ được thăng bằng từ gói đồ đội trên đầu vào lúc ông bơi qua lạch suối. Ông nghĩ là Bố và Mẹ có thể thích những củ khoai này để nấu cùng với món gà tây Giáng Sinh.
Có tới chín củ khoai lang. Ông Edwards cũng mang chúng mãi tận thành phố về. Thật là quá nhiều. Bố nói thế. Bố nói:
– Nhiều quá, Edwards.
Không bao giờ họ có thể cảm ơn đủ đối với ông.
Mary và Laura cũng rất nôn nao với bữa điểm tâm buổi sáng. Các cô uống sữa với những chiếc ly mới sáng bóng nhưng không thể nuốt nổi món thỏ hầm và xúp bắp.
Mẹ nói:
– Đừng cho các con ăn nữa, Charles. Sắp tới giờ dùng bữa chính rồi.
Bữa ăn Giáng Sinh có món gà tây quay mềm ngọt, béo ngậy. Cũng có món khoai lang nùi tro và cạo sạch kỹ lưỡng tới độ có thể ăn luôn cả vỏ. Còn có thêm một ổ bánh mì mặn được làm bằng số bột trắng cuối cùng.
Sau hết là những trái mâm xôi ủ khô và những chiếc bánh ngọt nhỏ. Nhưng những chiếc bánh ngọt nhỏ được làm bằng đường nâu và không có đường trắng rắc phỉ phía trên.
Rồi Bố, Mẹ và ông Edwards ngồi bên lò sưởi nói về những ngày Giáng Sinh đã qua ở Tennessee và ở Big Woods mãi phía bắc. Mary và Laura thì ngắm những chiếc bánh ngọt của mình, chơi với các đồng xu và uống nước bằng những chiếc ly mới. Và từng chút, từng chút, các cô mút những thỏi kẹo khiến mỗi thỏi kẹo đều có một đầu nhọn hoắt.
Đó là một ngày Giáng Sinh hạnh phúc.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.