Bạn đang đọc Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên – Chương 22 – 13
Chương 12
NƯỚC NGỌT ĐỂ UỐNG
Bố đã đóng xong giường.
Bố chuốt bóng những tấm ván sồi cho tới khi không còn một lằn gợn. Rồi chốt chúng vào nhau cứng ngắc. Bốn tấm ván sồi hợp thành một cái khuôn để giữ tấm đệm rơm. Ngang phía dưới đáy, Bố đan chéo một sợi dây từ cạnh nọ tới cạnh kia và kéo căng.
Một góc khuôn giường được Bố chốt chặt vào vách ở một góc nhà. Chỉ có một góc khuôn giường không tựa vào vách. ở góc này, Bố dựng một tấm ván cao. Bố chốt tấm ván vào khuôn giường. Trên chót cùng tầm với của mình, Bố chốt hai thanh gỗ sồi vào các bờ vách và tấm ván cao. Rồi Bố leo lên đó chốt chặt đầu tấm ván cao vào một cây dùi. Bên trên những thanh gỗ sồi, Bố đặt một giá đồ ngay phía trên giường. Bố lên tiếng:
– Chờ đó, Caroline.
Mẹ nói:
– Em không thể chờ coi được đâu. Hãy giúp em mang tấm nệm rơm vào đi.
Mẹ đã nhồi xong tấm đệm vào buổi sáng.
Ở đây không có rơm nên Mẹ thay bằng cỏ héo, chuốt sạch, phơi khô. Tấm đệm còn đượm hơi nắng ấm và nồng mùi cỏ thơm ngọt. Bố giúp Mẹ mang đệm vào nhà, đặt lên khuôn giường. Mẹ phủ khăn lên và trải chùm tấm chăn khâu đẹp nhất của Mẹ. Trên đầu giường, Mẹ đặt những chiếc gối lông ngỗng và dựng sát phía trên những chiếc gối tựa. Trên mỗi chiếc gối tựa trắng tinh nổi bật hình hai con chim nhỏ bằng chỉ thêu màu đỏ.
Bố Mẹ cùng Laura và Mary đứng ngắm chiếc giường. Đúng là một chiếc giường hết sức xinh xắn. Khi nằm lên, sợi dây đan chéo phía dưới sẽ mềm mại hơn khác hẳn mặt nền nhà. Tấm đệm căng phồng cỏ thơm ngọt dịu, tấm chăn trải mượt mà và những chiếc gối dựa dựng đứng nổi bật. Chiếc giá đồ thật tiện để bày cất các thứ. Với chiếc giường như thế, không khí khắp ngôi nhà trở nên hoàn hảo.
Buổi tối hôm đó, Mẹ tới bên chiếc giường, ngồi vào tấm đệm cỏ khô giòn và nói với Bố:
– Phải nói rằng em đã đầy đủ tới mức đáng xấu hổ.
Mary và Laura còn ngủ trên nền nhà nhưng Bố sẽ làm cho các cô một chiếc giường nhỏ ngay khi có thể làm. Bố đã đóng xong chiếc giường lớn và đóng cả một chiếc tủ có khóa móc để nếu những người da đỏ trở lại, họ không có thể vét hết bột bắp. Lúc này, Bố chỉ còn lo đào xong một chiếc giếng và sau đó sẽ thực hiện một chuyến đi về thành phố. Bố phải đào giếng trước để Mẹ có nước xài trong lúc Bố vắng nhà.
Sáng ngày kế sau, Bố đánh dấu một vòng tròn lớn trên bãi cỏ gần góc nhà. Với chiếc xuổng, Bố xắn mặt đất ở phía trong vòng tròn và cậy lên từng tảng lớn. Rồi Bố bắt đầu xúc đất ra ngoài, đào sâu thêm và sâu thêm nữa.
Mary và Laura không được tới gần giếng trong lúc Bố đang đào. Cho tới khi các cô không còn nhìn thấy đầu Bố, những xẻng đất đầy vẫn bay lên. Cuối cùng là chiếc xuổng bay lên và rơi trên cỏ. Rồi Bố nhảy lên. Hai bàn tay Bố bấu vào mặt đất rồi tới một khuỷu tay tì lên, tiếp theo là một khuỷu tay và với một cố gắng nhấc mình lên, Bố lăn ra ngoài. Bố nói:
– Không còn liệng nổi đất ra từ một độ sâu hơn thế này.
Đã tới lúc, Bố cần có sự giúp đỡ. Thế là Bố nhắc cây súng phóng lên lưng Patty. Khi trở về, Bố mang theo một con thỏ mập mạp và Bố đã sắp đặt xong công việc với ông Scott. Ông Scott sẽ giúp đỡ Bố đào giếng rồi sau đó Bố sẽ giúp đào giếng cho ông ấy.
Mẹ, Laura và Mary chưa từng gặp ông bà Scott. Nhà của họ nằm khuất trong một thung lũng nhỏ trên đồng cỏ. Laura đã nhìn thấy từ phía đó có khói bốc lên và đó là tất cả.
Sáng sớm hôm sau, ông Scott đến. Ông lùn và chắc nịch. Tóc ông khô nắng và da ông sần sùi, đỏ cháy. Ông không rám nắng mà như tróc vỏ, ông nói:
– Đây là do cái nắng và gió khô khốc ở đây. Xin bà tha lỗi, thưa bà, nhưng đó cũng đủ tạo ra một lời rủa thông thường lạnh mạnh. Tôi có thể giống như một con rắn với cách lột da mình ở xứ này.
Laura thấy thích ông ta. Mỗi buổi sáng, ngay sau khi rửa sạch chén dĩa, và dọn xong giường là cô bé chạy ra xem ông Scott và Bố đào giếng. Nắng hừng hực đến nỗi các đợt gió cũng hấp nóng và cỏ trên đồng thành vàng úa. Mary thích ngồi trong nhà để khâu tấm chăn của mình. Nhưng Laura lại rất thích cái ánh sáng dữ dằn cùng với nắng, gió nên cô không thể rời khỏi chỗ đào giếng. Tuy vậy, cô không được phép đi tới gần bờ giếng.
Bố và ông Scott đóng một trục quay chắc chắn. Nó đứng trên giếng với hai chiếc thùng treo ở hai đầu một sợi dây. Khi quay trục, một chiếc thùng hạ xuống giếng và chiếc thùng kia được được lên. Buổi sáng, ông Scott trượt xuống theo sợi dây và đào. Ông xúc đầy đất vào thùng để Bố guồng kéo lên, đổ. Buổi chiều, Bố trượt theo sợi dây xuống giếng và ông Scott guồng kéo các thùng đất lên.
Mỗi buổi sáng, trước khi để ông Scott trượt xuống theo sợi dây, Bố luôn đặt một cây nến vào chiếc thùng; thắp sáng rồi hạ xuống đáy giếng. Có lần Laura đã lên tới bên cạnh và nhìn cây nến đang cháy sáng được đưa xuống xa mãi trong hố đất tối om.
Rồi Bố nói:
– Có vẻ ổn cả.
Và Bố guồng quay chiếc thùng lên, thổi tắt cây nến.
Ông Scott phát biểu:
– Đó hoàn toàn là trò điên, Ingalls. Bữa qua, dưới giếng vẫn ổn thỏa hết.
Bố đáp:
– Anh không thể nói mãi thế. Cứ dò trước cho chắc ăn để tránh ân hận vẫn tốt hơn.
Laura không biết Bố nhìn thấy điều nguy hiểm gì qua ánh nến. Cô không hỏi được vì Bố và ông Scott rất bận. Cô tính hỏi sau, nhưng rồi cô quên khuấy mất.
Một buổi sáng, ông Scott tới vào lúc Bố đang ăn sáng. Cả nhà nghe ông la lớn:
– Hi, Ingalls. Sáng bét rồi. Tới thôi.
Bố uống cà phê và đi ra. Trục quay bắt đầu cọt kẹt và Bố huýt gió. Laura và Mary đang rửa chén dĩa còn Mẹ lo dọn dẹp giường thì Bố bỗng ngưng huýt gió. Họ nghe tiếng Bố gọi:
– Scott!
Bố gọi lớn hơn:
– Scott! Scott!
Rồi Bố kêu:
– Caroline! Tới đây mau!
Mẹ chạy ào ra khỏi nhà có Laura theo sát phía sau. Bố nói:
– Scott bị xỉu hoặc dưới đó có chuyện gì. Anh phải xuống coi ra sao.
Mẹ hỏi:
– Anh có thả nến xuống không?
– Không! Anh nghĩ là anh ấy không làm đâu. Anh có hỏi là dưới đó ổn thỏa không và anh ấy bảo ổn hết.
Bố cất chiếc thùng trống ra khỏi dây và cột chặt dây vào guồng quay. Mẹ kêu lên:
– Charles! Không được đâu. Anh đừng xuống.
– Caroline, anh phải xuống.
– Không được đâu. Ô, Charles, không!
– Anh sẽ làm cẩn thận. Anh sẽ nín thở cho tới khi trở lên. Mình không thể để anh ấy chết ở dưới đó được.
Mẹ quát lên giận dữ:
– Laura, lui ngay!
Vậy là Laura lui lại. Cô đứng tựa vào vách nhà, run rẩy.
Mẹ năn nỉ:
– Đừng, đừng xuống, Charles! Em không chịu để anh xuống đâu. Anh hãy dắt Patty ra đi kiếm người tới giúp.
– Không còn đủ thời gian nữa.
– Charles, nếu em không lôi nổi anh lên… Nếu anh gục xỉu ở dưới đó mà em không lôi nổi anh lên…
– Caroline, anh phải xuống thôi.
Bố đu mình xuống dưới giếng. Đầu Bố trượt khỏi tầm mắt, tụt xuống theo sợi dây.
Mẹ khom người và che mắt nhìn chăm chăm xuống đáy giếng.
Khắp trên đồng cỏ, những con chiền chiện phóng lên, ca hót tung bay vào bầu trời. Gió lùa hơi ấm tới nhiều hơn, nhưng Laura vẫn thấy lạnh.
Đột nhiên Mẹ nhảy bật lên xiết chặt tay guồng trục quay. Mẹ dồn hết sức lôi tay guồng. Sợi dây căng thẳng và trục quay kêu lên ken két. Laura nghĩ là Bố đã gục xỉu dưới đáy giếng tối om và Mẹ không thể nào lôi Bố lên được. Nhưng trục quay nhích tới một chút rồi thêm một chút nữa.
Một bàn tay Bố vươn lên, bám chặt vào sợi dây. Bàn tay kia của Bố với lên cao hơn và nắm được sợi dây. Rồi đầu Bố nhô lên. Cánh tay Bố vòng ôm lấy trục quay. Kế đó, không rõ bằng cách nào, Bố lên được mặt đất và ngồi bệt tại chỗ.
Chiếc trục quay xoay tít và một tiếng thịch dội lên từ đáy giếng sâu. Bố gượng đứng lên trong lúc Mẹ nhắc:
– Ngồi im, Charles! Laura, đi lấy nước. Mau!
Laura phóng vụt đi. Cô lật đật quay lại, lôi theo một xô nước. Bố và Mẹ đang cùng xoay trục quay. Sợi dây cuốn lên chậm chạp và chiếc thùng nhô lên khỏi miệng giếng và được cột chặt vào thùng và sợi dây là ông Scott. Cánh tay, cẳng chân và đầu ông đu đưa, lảo đảo, miệng ông há to và hai mắt khép lại.
Bố lôi ông lên bãi cỏ, Bố đặt ông trở lại và ông nằm phịch xuống tại chỗ. Bố thăm dò nhịp cổ tay, cúi nghe trên ngược ông rồi nằm xuống bên cạnh ông. Bố nói:
– Anh ấy đang thở. Thế là anh ấy ổn rồi. Anh có lí mà, Caroline. Rút cục anh chỉ mệt vì độ sâu thôi.
Mẹ gắt lên:
– Thôi! Em đã nghĩ là anh cũng sẽ bị! Đúng là một việc làm điên rồ! Cảm ơn Chúa! Em sợ đến chết điếng, tất cả chỉ do một sự bất cẩn nhỏ nhặt! Lạy Chúa! Con…
Mẹ kéo chiếc tạp dề lên che mặt và bật khóc.
Đúng là một ngày kinh hoàng.
Mẹ thổn thức:
– Em khỏi cần giếng nữa. Nó chẳng đáng gì. Em không chịu để anh phải mạo hiểm như thế.
Ông Scott đã hít phải một loại hơi độc thường đọng dưới hố đất sâu. Nó đọng dưới đáy giếng vì nhẹ hơn không khí. Không thể nhìn hoặc ngửi thấy nó nhưng không ai có thể hít thở nó lâu mà sống nổi. Bố đã ở trong thứ khí này để cột ông Scott vào dây nên có thể cũng phải hít thở nó phần nào.
Khi ông Scott hồi phục, ông quay về nhà. Trước khi đi, ông nói với Bố:
– Anh có lý về việc dùng cây nến, Ingalls. Tôi đã nghĩ nó hoàn toàn là trò điên nên không bận tâm tới nó và tôi đã thấy là mình lầm.
Bố nói:
– Đúng. ở đâu có thể thắp sáng thì mình có thể sống. Phần tôi, tôi luôn thích tìm sự an toàn khi có thể làm. Nhưng tất cả mọi việc đều đã kết thúc tốt đẹp rồi.
Bố ngồi nghỉ thêm một hồi nữa. Bố đã hít thở một chút hơi độc nên Bố muốn được nghỉ. Buổi chiều, Bố gỡ từ chiếc túi vải ra một sợi dây và trút ra một chút thuốc nổ. Bố gói thuốc nổ trong một miếng vải và cắm một đầu sợi dây kia vào gói thuốc nổ, Bố bảo:
– Tới đây, Laura. Bố sẽ chỉ cho con thấy một điều.
Hai bố con tới bên miệng giếng. Bố đốt cháy một đầu sợi dây và chờ tới khi tia lửa lan nhanh dọc theo sợi dây. Lúc đó, Bố thả gói nhỏ xuống giếng.
Chỉ trong một phút, họ nghe vang lên một tiếng nổ bị bóp nghẹt lại. Và một cụm khói bốc lên khỏi giếng. Bố nói:
– Nó sẽ xua khí độc đi.
Khi cụm khói tan hết, Bố cho Laura thắp một cây nên và đứng sát bên trong lúc Bố hạ cây nến xuống. Suốt thời gian được đưa xuống đáy hố sâu tối om, cây nến nhỏ tiếp tục cháy sáng tương tự một vì sao.
Vậy là bữa sau, Bố và ông Scott tiếp tục đào giếng. Nhưng cả hai người luôn thả một cây nến vào mỗi buổi sáng.
Trong giếng bắt đầu có nước, nhưng còn chưa đủ. Những chiếc thùng kéo lên đầy bùn và Bố và ông Scott hàng ngày phải làm việc trong đống bùn ngập ngụa. Nhiều buổi sáng, khi cây nến được đưa xuống, nó soi tỏ những bờ vách đang rỉ nước và ánh nến chiếu thành vòng trên mặt nước khi chiếc thùng chạm đáy.
Bố đứng trong nước sâu ngang tới đầu gối và múc những thùng nước đầy trước khi có thể đào tiếp trong bùn.
Một bữa, khi Bố đang đào, một tiếng hét lớn bỗng vang lên. Mẹ lao ra khỏi nhà và Laura theo sau chạy tới bên giếng:
– Kéo lên, Scott, kéo lên.
Bố kêu lớn. Một tiếng kêu ùng ục ào ạt vang động khắp nơi. Ông Scott xoay chiếc trục quay cực nhanh và Bố níu sợi dây leo lên.
– Tôi đáng bị khiển trách nếu đó không phải là cát lún.
Bố thở hổn hển bước lên mặt đất, người đầy bùn và ướt sũng.
– Tôi đang cố nhấn lưỡi xuổng xuống thì tất cả bỗng đổ ụp, bằng trọn chiều dài của chiếc cán, và nước phun ra xối xả khắp xung quanh.
Ông Scott nói trong lúc cuốn dây trục quay lên:
– Dễ có tới sáu bộ dây bị ướt.
Chiếc thùng cũng đầy nước.
– Anh tỏ ra khôn ngoan khi vượt lên bằng cách tự leo dây, Ingalls. Nước dâng lên mau hơn so với sức tôi kéo anh lên.
Rồi ông Scott vỗ vỗ lên đùi và kêu lên:
– Tôi sẽ rủa anh nếu anh không mang chiếc xuổng lên.
Chắc chắn là Bố đã cứu được chiếc xuổng.
Chỉ một thoáng, giếng gần như đã đầy nước. Một vùng trời xanh nằm ở phía dưới không xa mặt đất và khi Laura nhìn vào thì đầu một cô gái nhỏ nhìn ngược lại cô. Khi cô vẫy vẫy bàn tay, một bàn tay ở trên mặt nước cũng vẫy vẫy.
Nước trong mát và ngon lành. Laura tưởng chừng chưa bao giờ được nếm thứ gì ngon như thứ nước uống mát rượi này. Bố không còn phải kéo thêm về thứ nước hấp nóng lạt nhách từ lạch suối. Bố đóng một bục gỗ thật chắc phủ quanh miệng giếng và làm một nắp đậy dầy cho lỗ hổng dành để kéo thùng nước qua. Laura không bao giờ được đụng tới chiếc nắp đậy này. Mỗi khi cô hay Mary khát nước, Mẹ nhắc chiếc nắp đậy và kéo lên một thùng đầy thứ nước mát rượi trong giếng.
Chương 13
NHỮNG CHIẾC SỪNG DÀI TEXAS
Một buổi tối, Laura và Bố ngồi trên bậc cửa. Trăng chiếu trên đồng cỏ mờ tối, gió êm và Bố chơi đàn nhè nhẹ.
Một nốt nhạc kéo dài lan xa, xa mãi tan loãng trong ánh trăng. Mọi thứ đều đẹp tới nỗi Laura muốn ngồi tại chỗ mãi mãi. Nhưng Bố nhắc đã tới lúc các cô gái nhỏ phải đi ngủ.
Đúng lúc đó Laura bỗng nghe một tiếng động kì lạ, dưới thấp từ một khoảng xa. Cô nói:
– Cái gì đó!
Bố đã chú ý nghe. Bố nói:
– Đàn bò, của George! Chắc là đàn bò đang đi lên phía bắc tới Fort Dodge.
Sau khi thay áo, Laura đứng trước cửa sổ trong chiếc áo dài ngủ. Không khí hết sức tĩnh lặng, không một lá cỏ xào xạc và văng vẳng từ xa, cô nghe rõ tiếng động đó. Nó gần như lời quát tháo và cũng gần như một bài ca.
Cô bé hỏi:
– Có phải tiếng hát không, Bố?
Bố đáp:
– Phải. Những người chăn bò đang hát ru đàn bò ngủ. Bây giờ, lên giường ngay, cô bé vô tích sự!
Laura hình dung ra đàn bò đang nằm trên mặt đất mờ tối dưới ánh trăng và những người chăn bò đang khe khẽ hát những bài hát ru.
Sáng hôm sau, lúc cô bé chạy ra khỏi nhà thì hai người đàn ông lạ đang dừng ngựa bên cạnh chuồng ngựa. Họ đang nói chuyện với Bố. Da họ nâu đỏ như những người da đỏ những mắt họ như những vết nứt nhỏ giữa các mí mắt xô về một phía. Họ đều bọc kín ống chân bằng những miếng da mỏng với những cưa sắt và đội nón rộng vành. Những chiếc khăn quấn quanh cổ và súng lục đeo xệ bên lưng.
Họ nói với Bố:
– Xa lắm.
Và nói với những con ngựa của họ:
– Hi! Díp!
Và, những con ngựa phóng đi.
Bố nói với Mẹ:
– Đây quả là một mảnh may mắn.
Những người đó là những người chăn bò. Họ nhờ Bố giúp họ đưa đàn bò ra khỏi khe sâu giữa những vách đất dưới đáy thung lũng. Bố không đòi tiền công nhưng nói với họ là sẽ lấy một tảng thịt bò. Bố hỏi:
– Em thấy thế nào về một tảng thịt bò ngon lành?
Mẹ nói, mắt sáng rực lên:
– Ô, Charles!
Bố buộc chiếc khăn lớn xung quanh cổ. Bố chỉ cho Laura thấy Bố sẽ phải kéo chiếc khăn chùm kín miệng và mũi thế nào để cản chống bụi. Rồi Bố cưỡi Patty đi về hướng tây theo con đường mòn của người da đỏ cho tới khi Laura và Mary không thể nhìn thấy Bố ở đâu nữa.
Suốt ngày nắng cháy chói chang, gió nóng hừng hực thổi và tiếng động của những đàn bò tới gần hơn. Đó là âm thanh uể oải, buồn rầu của đàn bò la rống. Buổi trưa, bụi cuốn lên dọc đường chân trời. Mẹ bảo là có rất nhiều bò đạp trên mặt cỏ khiến bụi bay tung trên đồng.
Bố trở về nhà lúc mặt trời lặn, phủ đầy bụi. Bụi đọng trong râu, trong tóc, trong mí mắt Bố và đổi màu quần áo Bố. Bố không mang thịt bò về vì đàn bò còn chưa qua lạch suối. Đàn bò đi rất chậm, tiếp tục gặm cỏ trong lúc đi. Chúng cần ăn đủ cỏ để mập mạp khi tới các thành phố để người ta ăn thịt chúng.
Đêm đó Bố không trò chuyện nhiều và không chơi đàn. Bố đi ngủ sớm ngay sau khi ăn.
Lúc này đàn bò đã tới gần tới độ Laura có thể nghe thấy rõ ràng. Tiếng rống buồn nản của chúng vang khắp đồng cỏ cho tới khi đêm xuống. Rồi bầy bò lặng lẽ hơn và những người chăn bò bắt đầu hát. Những bài hát của họ không giống những bài hát ru. Đó là những bài hát như than vãn, đơn côi, lảnh lót gần giống tiếng hú của những con sói.
Laura thức giấc lắng nghe những bài hát đơn côi trôi giạt trong đêm. Xa hơn, đứng thực là những con sói đang hú. Thỉnh thoảng bầy bò lại rống lên. Nhưng tiếng hát của những người chăn bò vẫn tiếp tục, bốc cao rồi đổ xuống và rên than dưới ánh trăng. Khi mọi người đã ngủ say, Laura khẽ lẻn tới bên cửa sổ nhìn ba đống lửa đang chập chờn tựa những con mắt đỏ từ một mé đất tối om. Tít cao trên bầu trời là vành trăng to tròn lặng lẽ tỏa sáng. Những giọng ca đơn độc giống như đang nỉ non với vầng trăng. Laura cảm thấy nghẹn trong họng.
Trọn ngày hôm sau Laura và Mary luôn ngóng về hướng tây. Hai cô nghe thấy từ xa tiếng la rống của đàn bò và nhìn rõ bụi đất bốc lên. Thỉnh thoảng các cô còn nghe vẳng lại một tiếng la lanh lảnh.
Đột nhiên khoảng hơn mười con bò sừng dài ngoẵng xuất hiện trên đồng cỏ, không xa chuồng ngựa. Chúng đã tới bên con đường mòn dẫn xuống vùng có lạch suối. Đuôi chúng dựng đứng, những chiếc sừng dữ dội hất lên và bàn chân xéo đạp trên đất. Một người chăn bò cưỡi trên lưng một con ngựa đốm phóng như điên lên chặn đầu lũ bò. Ông ta huơ huơ chiếc mũ lớn và luôn miệng kêu những tiếng lanh lảnh chói tai:
– Hi! Di-di-di! Hi!
Lũ bò xoay tròn chạm những chiếc sừng dài vào nhau chan chát. Với những chiếc đuôi dựng lên, chúng chạy tán loạn và phía sau chúng, những con ngựa xoải vó quay cuồng như bão lốc để gom chúng lại với nhau. Tất cả đi qua một gò đất cao rồi xuống khuất khỏi tầm nhìn.
Laura phóng chạy tới lui, huơ huơ chiếc nón và hét lớn “Hi! Di-di-di!” Cho tới khi Mẹ bảo ngưng lại. Không phải là phụ nữ chút nào khi kêu lên như thế. Laura mong là cô có thể trở thành một người chăn bò.
Cuối buổi chiều, từ phía tây xuất hiện ba người cưỡi ngựa dẫn theo một con bò. Một trong ba người đó là Bố trên lưng Patty. Họ tới gần một cách chậm chạp và Laura nhìn thấy bên con bò lớn còn có một con bò con da đốm.
Con bò lồng lộn nhào phóng. Hai người chăn bò thúc ngựa lên đón đầu nó. Hai sợi dây quấn quanh những chiếc sừng dài của nó được cột vào yên ngựa. Khi con bò phóng đưa sừng về phía người chăn bò này thì con ngựa của người kia trụ chắc chân kìm nó lại. Con bò kêu rống lên và con bò con be be rống theo những tiếng yếu ớt.
Mẹ quan sát từ phía sau cửa sổ trong khi Mary và Laura đứng tựa vào vách nhà ngắm chăm chú.
Mấy người chăn bò kìm con bò bằng những sợi dây trong lúc Bố cột nó vào chuồng ngựa. Rồi mấy người chào Bố và phóng đi.
Mẹ không thể tin nổi là Bố lại mang được về nhà một con bò cái. Nhưng đúng thực là họ đã có một con bò cái của riêng mình. Bố kể rằng con bò con còn quá nhỏ không thể đi xa còn con bò cái lại quá ốm để đem bán nên những người chăn bò đem cho Bố. Họ còn cho Bố cả thịt bò, một tảng thịt lớn được cột bên yên ngựa.
Bố, Mẹ cùng Mary, Laura và cả bé Carrie đều cười sung sướng. Bố bao giờ cũng cười thật lớn và tiếng cười của Bố không khác tiếng chuông inh ỏi. Phần Mẹ khi hài lòng Mẹ thường mỉm một nụ cười hiền hòa mà Laura luôn cảm thấy làm ấm áp tất cả. Nhưng lúc này Mẹ cũng đang cười lớn vì cả nhà đã có một con bò cái.
Bố nói:
– Đưa cho anh cái thùng, Caroline.
Bố tính đi vắt sữa con bò ngay tức khắc.
Bố xách thùng, đẩy chiếc nón ra sau gáy, ngồi xổm bên con bò để vắt sữa. Và con bò bỗng khom người xuống, đá Bố bật ngã ngửa.
Bố nhảy bật dậy. Mặt Bố đỏ rần và mắt lóe những tia sáng xanh, Bố nói:
– Được thôi, nhân danh Muỗng Sừng Vĩ đại, tôi sẽ vắt sữa.
Bố lấy rìu, chặt hai tấm ván sồi chắc nịch. Bố dồn con bò vào sát vách chuồng ngựa và đóng sâu hai tấm ván xuống đất sát bên nó. Con bò rống lên và con bò con kêu thất thanh. Bố buộc chặt nhiều cây sào vào mấy chiếc cột, thọc các đầu sào vào kẽ vách làm thành một hàng rào.
Lúc này con bò cái không thể tiến, lui hoặc xoay ngang được. Nhưng con bò con vẫn còn lối đi để chen hích lui tới giữa mẹ nó và vách chuồng. Nhờ vậy con bò con cảm thấy an toàn và ngưng kêu. Nó đứng sát bên con bò cái để kiếm bữa ăn tối và Bố thò tay qua rào chắn từ phía bên này để vắt sữa. Bố lấy được gần đầy một ly nhôm.
Bố nói:
– Sáng mai sẽ thử lại. Con vật này giống như một con nai hoang dã. Nhưng mình sẽ thuần hóa nó, mình sẽ thuần hóa nó.
Bóng tối đang buông xuống. Những con chim đêm đang săn đuổi côn trùng trong bầu trời tối. Từ vùng trũng sâu lạch suối, những con ếch đang kêu ọp oạp. Một con chim cất tiếng:
– Huýp! Huýp! Huýp-poo-Uyn!
Và một con cú nói:
– Hu? Hu-u?
Phía xa, những con sói bắt đầu hú và Jack gầm gừ.
Bố nói:
– Lũ sói đang theo đàn bò. Ngày mai phải làm một sàn rào cao và chắc cho con bò để đám sói không thể lọt vào nổi.
Mọi người vào nhà cùng với tảng thịt bò. Bố, Mẹ, Mary và Laura đều đồng ý nhường hết phần sữa cho bé Carrie. Cả nhà cùng ngắm bé uống sữa. Chiếc ly nhôm che khuất khuôn mặt bé nhưng Laura có thể thấy những hớp sữa đang trôi xuống cổ bé. Từng hớp từng hớp, bé uống cạn ly sữa ngon lành. Rồi bé đưa lưỡi liếm những giọt đọng ở trên môi và nhoẻn miệng cười.
Thời gian dường như rất dài trước khi bánh mì và những miếng thịt bò xèo xèo được nướng chín. Nhưng không món ăn nào sánh nổi với hương vị món thịt bò kì diệu đó. Và cả nhà đều vui sướng vì lúc này đã có sữa để uống và còn có thể có cả bơ để ăn với bánh mì nữa.
Tiếng rống của những đàn bò đã xa hơn và tiếng hát của những người chăn bò cũng chỉ còn nghe văng vẳng. Lúc này, trọn đàn bò đã chuyển qua bên kia lạch suối, ở Kinsas. Ngày mai, chúng lại lên đường rời xa chầm chậm lên hướng bắc để tới Fort Dodge, nơi đang có những người lính.