Nếu Còn Có Ngày Mai

Chương 33


Đọc truyện Nếu Còn Có Ngày Mai – Chương 33

Sáng sớm hôm sau, Daniel Cooper, thanh tra Joop van Duren và người trợ lý trẻ tuổi của ông ta, thám tử Witkamp, đã ở trong căn hộ phía trên lắng nghe câu chuyện ở phòng dưới.

“Cà phê nữa không em?” Tiếng Jeff.

Thôi, cảm ơn anh yêu”. Giọng Tracy. “Anh ăn thử miếng pho mát người ta đưa lên này. Nó thật sự hảo hạng đấy.

Một lát im lặng. “Hừm, ngon tuyệt. Tracy, hôm nay em muốn làm gì nào?

Chúng ta có thể dùng tắc xi đi Rotterđam đấy”.

“Sao mình không ở nhà mà nghỉ ngơi nhỉ?”.

“Nghe được đấy”.

Daniel Cooper biết ý nghĩa của từ “nghỉ ngơi” lắm, và miệng ông ta mím lại.

“Nữ hoàng đã tặng một ngôi nhà mới cho trẻ mồ côi đó em”.

“Tất quá. Em nghĩ rằng người Hà Lan mến khách và hào phóng nhất thế giới này. Họ yêu tự do, họ ghét các luật lệ, các quy định này nọ”.

Có tiếng cười. “Tất nhiên. Vì vậy cả hai chúng ta đều mến họ đến thế”.

Một cuộc trò chuyện buổi sáng bình thường giữa hai người đang yêu. Họ thật sự thoải mái và dễ chịu với nhau, Daniel Cooper nghĩ. Nhưng cô ta sẽ phải trả giá.

“Nhân nói tới chuyện hào phóng tiếng Jeff. “Em biết ai nữa đang ở khách sạn này không?” Ông bạn lánh mặt Maximllian Pierpont đấy. Anh đã lỡ dịp gặp ông ta trên tàu Nữ hoàng Elizabeth II.

“Còn em thì lỡ dịp gặp ông ta trên chuyến tàu tốc hành Phương Đông”.

“Có thể là ông ta tới đây để cướp đoạt một công ty nào đó Giờ đây đã gặp lại ông ta, có lẽ chúng ta nên làm một vụ gì đó em nhỉ. Ý anh muốn nói là chừng nào ông ta còn đang làm hàng xóm của mình ấỵ …. Tiếng cười của Tracy. “Em còn muốn gì hơn thế nữa, anh yêu dấu”.

“Anh biết chắc rằng ông bạn của chúng ta có thói quen mang theo bên mình những cổ vật vô giá, Anh có ý định rằng …”.

Một giọng nói khác, như giọng phụ nữ, vang lên.

“Chào ông, chào bà. Ông bà có muốn phòng được dọn bây giờ không ạ”.

Ông Duren quay sang thám tử Witkamp. “Tôi muốn có một độl bám sát Pierpont. Bất cứ lúc nào Whitney hoặc Stevens có bất kỳ một kiểu tiếp xúc gì với ông ta, tôi muốn được biết ngay”.

Thanh tra Duren đang báo cáo vớl Ủy viên trưởng cảnh sát Tom Wil1ems.

“Thưa ông, họ có thể bám theo bất kỳ một mục tiêu nào. Họ tỏ ra quan tâm nhiều tới một người Mỹ ở đây, người có tên là Maximllian Pierpont họ tham dự cuộc họp của những người chơi tem, họ tới xem viên kim cương Iuculian ở nhà máy gia công kim cương, và đã đành hai giờ đồng hồ với bức Phiên gác đêm.

“Đánh cắp bứcPhiêng ác đêm” tôi Không. Không thể được”.

Ông Ủy viên ngả người trên ghế, băn khoăn không biết có phải là đang phung phí. một cách ngớ ngẩn thời gian và nhân lực quý giá của mình không.

Quá nhiều dự đoán và đều không đủ cơ sở thực tế. “Vậy là tới lúc này, ông vẫn không biết mục tiêu của họ là gì?”.

“Đúng vậy, thưa ông Ủy viên trưởng. Tôi không đám chắc là bản thân họ đã quyết định gì chưa. Nhưng khi nào họ quyết định điều đó, họ sẽ báo cho chúng tôi ngay”.

Willems cau mặt. “Báo cho các ông ư?”.

“Dạ, những cái máy nghe trộm”, Duren giải thích “Họ không hề biết là đang bị nghe trộm mà”.

Điểm đột phá đầu tiên của cảnh sát xảy tới vào lúc 9 giờ sáng hôm sau.

Tracy và Jeff đang ăn sắp xong bữa sáng của họ. Tại vị trí nghe trộm ở tầng trên có mặt Daniel Cooper, thanh tra Joop van Duren và thám tử Witkamp. Họ nghe thấy cả tiếng cà phê đang được rót vào ly ở phòng dưới.

“Tracy này, có một món hấp dẫn đây. Ông bạn của chúng ta đúng đấy. Em nghe nhé:

Nhà băng Amro sắp chuyển 5 triệu đô la vàng khối cho công ty Đông Ản Hà Lan”.

Ở căn phòng trên tầng trên, thám tử Witkamp thốt lên. “Không thể có cách nào …”.

“Suỵt”.

Họ lắng nghe.

“Em không biết 5 triệu đô la vàng khối thì nặng chừng bao nhiều nhỉ?”.

Tiếng Tracy.

“Anh có thể nói với em chính xác, em yêu ạ. Sáu trăm mười tám kilôgam, khoảng sáu mươi bảy thỏi vàng. Điều thú vị là ở chỗ vàng thì hoàn toàn vô hình.

Em nấu chảy nó ra, vậy là nó có thể thuộc về ai cũng được. Tất nhiên là mang được những thỏi vàng đó ra khỏi đất Hà Lan cũng chẳng dễ dàng gì”.

“Ngay cả nếu mình có thể làm được điều đó thì vấn đề là ở chỗ làm sao mà chiếm được chúng đã chứ? Khơi khơi đi vào nhà băng mà nhặt lấy à?”.

“Đại khái là thế đấy”.

Anh cứ đùa”.

“Anh không bao giờ đùa giỡn với thứ tiền bạc loại đó cả. Sao chúng ta lại không tới nhà băng Amro mà nhìn ngó một chút nhỉ, Tracy?

“Anh đã có ý đồ gì chưa”.

“Trên đường đi anh sẽ nói”.

Có tiếng đóng cửa.

Thanh tra Duren vê vê những sợi ra mép. “Không. Họ không có cách nào động tới những thỏi vàng đó được. Chính tôi đã phê duyệt các biện pháp đảm bảo an ninh mà”.

Cooper nói thẳng tuột. “Nếu có một khuyết tật nào đó trong hệ thống an ninh của nhà băng thì thể nào Tracy Whitney cũng sẽ phát hiện ra”.

Thanh tra Duren cố kìm cơn giận. Thằng cha người Mỹ xấu xí này thật đáng ghét, ngay từ khi đặt chân tới đấy Thật khó lòng tha thứ cho thái độ trịch thượng của hắn. Thế nhưng thanh tra Duren là một cảnh sát mẫu mực, vả lại ông ta đã đượe lệnh là phải hợp tác với cái gã đàn ông nhỏ thó và kỳ quái này.

Viên thanh tra quay sang Witkamp. “Tôi muốn anh tăng cường đội theo dõi.

Ngay lập tức. Tôi muốn bất kỳ ai quan hệ với họ đều bị chụp hình và tra xét. Rõ chưa?”.

“Vâng, thưa ông thanh tra”.

“Và phải rất thận trọng đấy, tôi nhắc trước. Không được để họ biết là đang bị theo dõi”.

“Vâng, thưa ông thanh tra”.

Ông Duren nhìn Cooper. “Đó, ông cảm thấy yên tâm hơn chưa?”.

Cooper không thêm trả lời.

Trong năm ngày tiếp theo đó, Tracy và Jeff đã làm cho thanh tra Duren bận bịu suốt, còn Daniel Cooper thì thận trọng xem xét tất cả các báo cáo hàng ngày. Về đêm, khi các thám tử khác đã rời vị trí nghe trộm thì bao giờ Cooper cũng nán ở lại. Ông ta lắng im nghe cặp uyên ương làm tình với nhau ở căn phòng bên dưới. Khó mà nghe thấy gì, nhưng trong đầu ông ta như đang nghe tiếng Tracy rên rỉ đầy cảm khoái. Ôi, nữa anh yêu, nữa nữa. Ôi, Chúa ơi, em không thể chịu … Nào, nào anh …”.

Tiếp theo là những tiếng thở gấp gáp và một sự im lặng êm dịu, mượt mà.

Mi sẽ sớm thuộc về ta thôi, Cọoper nghĩ. Không kẻ nào còn có mi được nữa.

Ban ngày, Tracy và Jeff đi riêng rẽ, và dù đi bất kỳ đâu họ đều bị cảnh sát bám theo. Jeffghé vào một hiệu in nhỏ và hai thám tử từ bên kia đường thấy anh ta có một câu chuyện đầy vẻ hào hứng với ông chủ hiệu. Khi Jeff tới, một trong hai thám tử bám theo, còn người kia vào hiệu in chìa thẻ cảnh sát có ba vạch chéo đỏ,. trắng và xanh da trời ra.

“Người đàn ông vừa ra khỏi đây. Anh ta muốn gì?”.

“Anh ta dùng sắp hết danh thiếp, muốn tôi in thêm cho anh ta”.

“Đưa tôi xem mẫu nào”.

Người chủ hiệu in đưa ra một mẩu giấy viết tay:

CƠ QUAN AN NINH AMSTESĐAM CORNELIUS PHỤ TRÁCH ĐIỀU TRA.

Hôm sau nữ thám tử Fien Hauer đã đứng đợi bên ngoài một cửa hiệu bán chim cá cảnh trên phố Leideeplein trong lúc Tracy đi vào trong. Mười lăm phút sau nàng trở ra và Fien Hauer vào hiệu chìa thẻ cảnh sát ra.

“Người phụ nữ vừa rời khỏi đây, cô ta muốn gì?”.

“Cô ta mua một bình cá vàng, hai con vẹt nhỏ, một con hoàng yến và một con chim câu”.

Một việc thật lạ. “Ông muốn nói đó là một con chim câu bình thường, có phải không?”.

“Vâng, nhưng không có cửa hiệu nào nuôi sẵn cả. Tôi bảo sẽ tìm cho cô ta sau”.

“Ông sẽ gửi mấy con chim, con cá này tới đâu?”.

“Tới khách sạn Amstel, nơi cô ta ở”.

Ở phía bên kia thành phố, Jeff gặp viên phó chủ tịch của nhà băng Amro và đã nói chuyện riêng với ông ta chừng ba mươi phút. Khi Jeff rời khỏi nhà băng, một thám tử bèn đi vào văn phòng giám đốc.

“Về người mới ra khỏi. Xin .cho biết vì sao anh ta tới”. Ông Wilson ấy à?

Ông ấy là điều tra viên của công ty bảo vệ nhà băng, nơi chúng tôi đặt quan hệ.

Họ đang chỉnh lại hệ thống an ninh của nhà băng mà”.

“Ông ta có yêu cầu gì ông về các biện pháp an ninh hiện nay không?”.

“Vâng, dĩ nhiên là có”.

“Và ông đã nói hết với ông ta chứ?”.


“Tất nhiên, nhưng trước tiện tôi đã cẩn thận gọi điện hởi trước về sự ủy thác cho ông ta rồi”.

“Ông gọi cho ai?”.

“Cho cơ quan an ninh, số máy được in trên chứng minh thư của anh ta”, Ba giờ chiều hôm đó, một chiếc xe tải bọc thép dừng bánh trước cửa nhà băng Amro. Từ bên kia đường, Jeff bấm máy chụp hình chiếc xe, trong khi từ một cái cổng gần đó, một thám tử khác đang chụp hình Jeff.

Tại bộ chỉ huy cảnh sát ở Elandsgracht, thanh tra Duren đàng bày những bằng chứng tới tấp thu thập được lên trên mặt bàn làm việc của Ủy viên trưởng cảnh sát Toon Willems. A “Tất cả những thứ này có ý nghĩa gì vậy?” Ông Ủy viên hỏi với cái giọng khô và the thé.

Cooper lên tiếng. “Tôi sẽ nói để các ông biết cô ta đang mưu tính gì”. Giọng ông ta đầy vẻ hằn học. “Cô ta đang mưu toan cướp xe vàng kia”.

Họ nhìn ông ta chằm chằm.

Ủy viên trưởng cảnh sát Willems nới. “Và tôi cho rằng ông cũng biết cô ta toan làm việc đó bằng cách nào chứ?”.

“Đúng vậy”. Ông ta biết cái mà bọn họ không biết.

Ông ta biết Tracy tới tận con tim và khối óc. Ông ta đã đặt mình vào trong Tracy để có thể suy nghĩ, tính toán rồl dự đoán mọi hành động của nàng. “Cô ta định dung một xe tải cải trang và ập đến nhà băng trước cál xe thật rồi cuỗm chỗ vàng mang đi”.

“Nghe có vẻ thiếu tự nhiên lắm, ông Cooper ạ Thanh tra Duren xen vào.

“Tôl không biết kế hoạch, của họ là gì, nhưng tôi quả quyết họ đang có một âm mưu gì đó, thưa ông Ủy viên trưởng. Chúng tôi có băng ghi âm các cuộc nói chuyện của họ mà”.

Daniel Cooper chợt nhớ đến các âm thanh khác mà ông ta mường tượng thấy:

những tiếng thì thầm ban đêm, những hiếng kêu khe khẽ và những tiếng rên rỉ đầy hoan lạc Cô ả giống như con chó cái đang động cỡn vậy. Hừ, ông ta sẽ tống cô ta vào một nơi mà không thằng đàn ông nào có thể sờ tới được nữa.

Viên thanh tra tiếp tục nói. “Họ đã biết về các quy định của nhà băng. Họ biết thời điểm mà chiếc xe bọc thép kia tới nhận hàng và..”.

Ủy viên trưởng cảnh sát xem kỹ lại bản báo cáo trước mặt. “Hai con vẹt, một con chim câu, cá vàng, một con hoàng yến – ông có nghĩ ba cái thứ này có mối quan hệ quái quỷ với vạ cướp kia không?”.

“Không”, Duren đáp.

“Có”, Cooper lên tiếng.

Nữ thám tử hạng nhất Fien Hauer, trong bộ đồ xuềnh xoàng màu xanh nước biển bám theo Tracy Whitney dọc phố Prinsengracht và ngang qua cầu Magere. Khi Tracy sang tới bờ kênh bên kia thì Fien Hauer nhìn theo tuyệt vọng vì nàng bướe vào một buồng điện thoại công cộng và đứng nói chuyện tới năm phút đồng hồ.

Gunther Hartog, từ đầu dây bên kia ở London đang nói. “Chúng ta éo thể tin cậy ở Margo, nhưng có lẽ nó cần có thời gian – ít nhất lả hai tuần lễ nữa”. Ông ta ngừng lời lắng nghe giây lát rồi tiếp. “Tôi hiểu. Khi tất cả đã sẵn sàng, tôi sẽ liên lạc với cô. Thận trọng nhé. Và cho tôi gửi lời thăm Jeff”.

Tracy gác ống nghe và bước ra, gật đầu ra ý chào người phụ nữ trong bộ đồ màu xanh nước biển đang đứng chờ đến lượt ở ngoài.

Trưa hôm sau, một thám tử báo với thanh tra Duren. Tôi đang có mặt ở hãng cho thuê xe vận tải Wolter. Jeff Stevens vừa thuê một xe tải ở đây”.

“Loại xe gì?”.

“Xe chuyên dụng, thưa ông thanh tra”.

“Kiếm số liệu về kích thước xe ngay. Tôi sẽ chờ trên máy”.

Ít phút sau, thám tử kia trở lại. “Tôi đã có chúng đây. Chiểc xe tải đó …”.

Thanh tra Duren cắt ngang. “Là một xe tải hạng vừa, dài sáu mét, rộng hai mét mốt, cao một mét tám, hai cầu”.

“Vâng, thưa ông thanh tra. Làm sao ông biết ạ?”.

“Không hỏi. Màu gì?”.

“Xanh da trời”.

“Ai đang theo Stevens hả?”.

“Jacobs ạ”.

“Tốt. Còn anh quày về đây ngay”.

Joop van Duren gác máy, ngước nhìn Daniel Cooper.

“Ông đúng đấy, trừ việc chiếc xe có màu xanh da trời”. “Hắn sẽ mang nó tới hiệu sơn xe mà”.

Hiệu sơn xe thuộc một xưởng sửa chữa ô tô nằm trên đường Damrak. Hai người thợ đang xì một lớp sơn màu xám bạc lên chiếc xe tải, còn Jeff thì đứng gần đó. Từ một chổ khuất trên xưởng máy, một thám tử chụp những tấm hình nhờ ánh sáng tự nhiên.

Một giờ sau các tấm hình đã nằm trên bàn thanh tra Duren.

Ông ta đẩy chúng tôi tới trước mặt Daniel Cooper. “Nó đang được sơn màu giống hệt màu của chiếc xe thật. Ông biết đấy, giờ thì ta có thể tóm cổ chúng rồi”.

“Vì tội gì mới được chứ? Vì đã đặt in mấy cái danh thiếp giả và sơn cái xe tải kia à? Cách duy nhất để có lời buộc tội chắc chắn là tóm cổ chúng vào đúng lúc chúng cuỗm chỗ vàng kia”.

Thằng cha khốn kiếp cứ làm như hắn là người chỉ huy cơ quan cảnh sát này vậy. Duren tức tối. “Ông nghĩ bước tiếp theo của hắn là gì?”.

Cooper thận trọng xem xét các bức ảnh. “Chiếc xe này không chịu nổi trọng lượng của ngần ấy vàng. Chúng sẽ phải làm lại thùng xe”.

Đó là một cái xưởng sửa xe nhỏ cách xa mặt đường ở trên phố Muider.

“Chúc ông một buổi sáng tốt lành. Tôi phục vụ gì cho ông được a?”, “Tôi sắp phải chở một ít sắt vụn bằng cái xe này”, Jeff giải thích. “Và tôi không dám chắc là sàn xe có thể chịu nổi. Tôi muốn gá thêm vào một ít thanh thép ngang. Ông làm được không?”.

Ông thợ bước tới xem xét. “Được. Không khó khăn gì”.

“Tôi có thể hoàn thành vào thứ sáu”.

“Tôi đang hy vọng sẽ dùng nó vào ngày mai cơ đấy”.

“Buổi sáng ư? Không thể. Tôi …”.

“Tôi sẽ trả gấp đôi”.

“Thứ năm nhé”.

“Ngày mai. Tôi sẽ trả gấp ba”.

Ông thợ đưa tay xoa xoa cằm có vẻ nghĩ ngợi. “Mấy giờ ngày mai nào?”.

“Buổi trưa”.

“Được”.

Ít giây sau khi Jeff rời khỏi xưởng, một thám tử tra hỏi ông thợ kia.

Cũng trong sáng hôm đó, đội theo dõi Tracy đã bám theo nàng tới bến cảng trên kênh Schans, nơi nàng nói chuyện tới nửa giờ đồng hồ với chủ một con tàu hãng nhỏ.

Khi Tracy bỏ đi, một trong số các thám tử bước lên tàu.

Anh ta tự giới thiệu với ông chủ tàu, người đang nhấm nháp một ly rượu Gin lớn.

“Người phụ nữ trẻ đó muốn gì?”.

“Cô ấy và chồng định đi chơi trên các dòng kênh. Và đã thuê tàu của tôi một tuần lễ đấy”.

“Bắt đầu từ bao giờ”.

Thứ sáu. Đó là dịp nghỉ ngơi tuyệt vời. Nếu ông và vợ ông muốn …”.

Anh chàng thám tử đã quay đi.

Con chim bồ câu mà Tracy đặt mua từ cửa hiệu chim và cá cảnh đã được chuyển tới khách sạn cho nàng trong một chiếc lồng xinh xắn. Daniel Cooper đến cửa hiệu đó và chất vấn người chủ hiệu.

“Ông đã gửi cho cô ta con chim câu loại gì vậy?”.

“Ồ, ông biết à, một con bồ câu bình thường thôi”.

“Ông bảo đảm rằng nó không phải là một con chim đưa thư chứ?”.

“Chắc chắn”. Ngứời đàn ông cười khùng khục trong cổ.

“Lý do để tôi nói không phải là chim đưa thư là việc tôi tóm nó được đêm qua ở công viên Vondel mà”.

Sáu trăm kilô vàng và một con chim cậu thường? Tại sao? Daniel Cooper băn khoăn.

Năm ngày trước khi bắt đầu chuyển vàng từ nhà băng Amro, một đống hình đã được chất trên mặt bàn làm việc của thanh tra Duren.

Mỗi tấm hình là một mắt xích đưa tới việc bắt giữ cô ta, Daniel Cooper nghĩ.

Cảnh sát Amstesđam không có óc tưởng tượng, thế nhưng Conper phải cho họ thấy cái lợi của sự cẩn thận. Mọi hành động dẫn tới vụ phạm tội sắp xảy ra đểu được chụp hình và lên hồ sơ. Không có lối nào cho Tracy Whitney thoát khỏi sự trừng phạt của công lý.

Sự trừng phạt đối với cô ta sẽ là sự cứu rỗi của mình. Cooper nghĩ.

Hôm lấy chiếc xe tải mới sơn lại, Jeff lái nó đến một ga ra nhỏ mà anh đã thuê sẵn, kề khu Oude Zijds Kolk, một khu phố cổ kính nhất của Amstesđam.

Người ta cũng chuyển tới ga ra này sáu thùng gỗ rỗng ngoài có in chữ THIẾT BỊ MÁY.

Một tấm hình chụp các thùng gỗ này nằm trên mặt bàn thanh tra Duren trong lúc ông ta đang nghe lại cuốn băng ghi âm mới nhất. Tiếng Jeff.” Khi em lái từ nhà băng ra bến tàu, nhớ giữ trong tốc độ giới hạn. Anh muốn biết thời gian cần cho đoạn đường này là bao nhiêu.

“Anh không đi cùng em à, anh yêu?”.

“Không. Ánh sẽ bận lắm”.

“Còn Monty thì sao?”.


“Anh ta sẽ đến vào đêm thứ năm”.

Thanh tra Duren hỏi. “Tay Monty này là ai vậy?”.

“Anh ta có thể là người đóng vai người bảo vệ an ninh thứ hai”, Cooper đáp.

“Chúng sẽ cần tới quân phục đấy”.

Cửa hàng quần áo nằm ở phố Pieter Cornelisz Hooft, trong một khu trung tâm dịch vụ. Tôi cần hai bộ quân phục cho một buổi dạ hội hóa trang”, Jeff nói với người bán hàng. “Giống như bộ mà ông bày trong tủ kính cửa sổ kia kìa”.

Một giờ sau thanh tra Duren đã đang xem tấm ảnh chụp bộ quân phục.

Anh ta đặt mua hai bộ này. Anh ta nói với người bán hàng là sẽ đến lấy vào thứ năm”.

Kích thước bộ quân phục thứ hai cho thấy rõ là dành cho một người to béo hơn Jeff Stevens rất nhiều. Viên thanh tra nới, “Ông bạn Monty của ta sẽ phải cao tới 1m90 và nặng chừng một tạ. Chúng ta sẽ yêu cầu Interpol đưa các số liệu này vào máy tính của họ”, ông ta nói với Daniel Cooper, “và chúng ta sẽ có nhận dạng của ông ta”?

Trong cái ga ra riêng để thuê, Jeff đang vắt vẻo trên nắp xe, còn Tracy thì đang ngồi trên ghế lái.

“Em sẵn sàng chưa?” Jeff gọi. “Nào”.

Tracy nhấn một cái nút bấm trong bảng đồng hồ của buồng lái. Hai tấm bạt lớn được buông xuống hai bên thành xe, trên đó là dòng chữ BIA HEINEKEN HÀ LAN.

“Được đấy, Jeff vui vẻ.

BIA HEINEKEN HÀ LAN? Thanh tra Duren đưa mắt nhìn các thám tử tập hợp trong buồng làm việc của ông ta. Một loạt hồ sơ và hình ảnh được ghim lên khắp các bức tường.

Daniel Cooper ngồi mãi tận cuối phòng, im lặng.

Trong chừng mực quan tâm của Cooper thì cuộc họp này là một sự phung phí thời giờ. Ông ta đã dự đoán trước mọi hành động mà Tracy và nhân tình của cô ta sẽ thực hiện. Họ đã bước vào cái bẫy và cái bẫy đó đang khép kín lại Nhưng trong khi các thám tử đang có cảm giác hồi hộp mỗi lúc mỗi tăng thì Cooper lại thấy mơ hồ khó chịu.

“Tất cả các chi tiết đều khớp đâu vào đấy”, thanh tra Duren tiếp tục nói.

“Những kẻ tình nghi biết trước thời gian mà chiếc xe tải bọc thép kia phải tới nhà băng:

Họ dự định đến sớm trước nửa giờ, đóng giả làm các nhân viên an ninh. Khi mà cái xe thật kia đến thì họ đã kịp chuồn?” Ông Duren chỉ vào bức hình chụp chiếc xe tải bọc thép. “Họ sẽ rời khỏi nhà băng trong một chiếc xe giống như thế này, nhưng sau một đoạn phố, trên một đường nhánh nào đó”, ông ta chỉ sang tấm hình chụp chiếc xe tải có dòng chữ BIA HEINEKEN.

“Chiếc xe tải đột nhiên mang vẻ như thế này”.

Một thám tử ngồi phía sau lên tiếng. “Họ sẽ mang vàng ra khỏi lãnh thổ chúng ta bằng cách nào, thưa ông thanh tra?”.

Ông Duren chỉ vào tấm hình Tracy đang bước lên chiếc tàu hàng nhỏ. “Đầu tiên bằng con tàu này. Đất Hà Lan chằng chịt những kênh rạch đến mức họ có thể lạc lối ấy chứ”. Ông ta chỉ bức ảnh chụp từ trên không chiếc xe tải đang chạy dọc bờ kênh. “Họ đã chạy thử để xem từ nhà băng ra đến bến tàu mất bao nhiêu thời gian. Có thừa thời gian để đỡ vàng xuống tàu và rời bến trước khi ai đó nghi ngờ gì”. Ông Duren bước lại tấm hình cuối cùng chụp một chiếc tàu hàng. “Hai ngày trước đây, Jeff Stevens đã đặt thuê chỗ chở hàng trên chiếc Oresta, rơi bến Rotterdam vào tuần sau. Hàng của anh ta được lên danh mục là thiết bị máy, cảng đến là Hồng Kông”.

Ông ta hướng mặt lại những người ngồi trong phòng. “Ồ thưa quý vị, chúng ta sẽ thay đổi một ít trong kế hoạch của họ. Chúng ta sẽ để ho chuyển vàng ra khỏi nhà băng trên chiếc xe tải của họ. Ông ta nhìn Daniel Cooper và mỉm cười.

“Bắt quả tang. Chúng ta sẽ bắt giữ hai kẻ láu lỉnh này tại hiện trường”.

Một thám tử đã bám theo Tracy đến chi nhánh điện tín Mỹ, nơi nàng nhận một gói hàng có kích thước trung bình rồi lập tức trở về khách sạn.

“Không có cách nào để biết trong gói hàng đó có cái gì”, thanh tra Duren nói với Cooper. “Chúng tôi đã lục soát cả hai phòng của họ khi họ rời khỏi khách sạn, và không thấy gì mới trong đó cả”.

Cái máy tính của Interpol đã không thể cung cấp thông tin gì về gã Monty nặng một tạ kia.

Tại khách sạn Amstel, chiều tối thứ năm. Daniel Cooper, thanh tra Duren và thám tử Witkamp cùng có mặt lắng nghe các tiếng nới từ phòng bên dưới.

Tiếng Jeff. “Nếu mà ta đến nhà băng đúng ba mươi phút trước chiếc xe kia thì điều đó sẽ cho chúng ta nhiều thời gian để xếp hàng lên rồi chuồn đi. Khi mà chiếc xe thật đến thì chúng ta đang chuyển vàng xuống tàu rồi”.

Tiếng Tracy:

“Em đã cho thợ máy kiểm tra lái chiếc xe tải và đổ đầy xăng.

Sẵn sàng cả rồi”.

Thám tử Witkamp lên tiếng, “Kể cũng đáng ngưỡng mộ. Họ không để mảy may cho cơ hội xấu nào xảy ra”.

Sớm muộn gì họ cũng sẽ mắc sai lầm”, thanh tra Duren nói cộc lốc.

Daniel Cooper im lặng, lắng nghe, Tracy, khi vụ này qua đi, em nghĩ thế nào về việc khai quật mà mình đã nói chuyện hả?”.

“Vụ Tunisia ư” Nghe thú vị lắm, anh yêu ạ”.

“Tốt. Anh sẽ thu xếp. Từ giờ trở đi ta không làm gì cả ngoài việc nghỉ ngơi và thưởng thức cuộc sống này”.

Thanh tra Duren lầm bầm, “Tôi thì cho rằng trong hai mươi năm tới họ sẽ được chăm sóc chu đáo”. Ông ta đứng lên và vươn vai. “Ồ, tôi cho là chúng ta có thể ngủ được rồi. Mọi thứ sẽ được định đoạt vào sáng mai, và rồi tất cả chúng ta sẽ lại được ngủ ngon”.

Daniel Cooper không thể nào ngủ được. Ông ta hình dung ra cảnh Tracy bị cảnh sát bắt giữ và như thể trông thấy nỗi khiếp sợ trên mặt nàng. Điều đó kích động ông ta. Cooper đi sang buồng tắm, mở nước nóng và thả người nằm vào bồn nước đang bốc hơi mù mịt. Chuyện đã sắp xong, và cơ ta sẽ phải trả giá, cũng như ông đã buộc các ả đàn bà khốn kiếp khác phải trả giá. Giờ này ngày mai, ông ta sẽ đang trên đường trở về nhà. Không, không phải là nhà Daniel tự chữa lại – trở lại căn hộ của mình. Còn nhà ư? Đó là cái nơi bình an, ấm cúng mà mẹ ông ta từng yêu dấu ông ta hơn bất kỳ ai khác trên thế gian này.

“Con là người đàn ông nhỏ của mẹ”, bà nói:

“Mẹ không biết sẽ ra sao nếu không có con”.

Ông bố đã biến mất khi Daniel lên bốn và lúc đầu cậu ta luôn tự trách mắng mình, nhưng mẹ cậu đã giải thích rằng đó là vì một phụ nữ khác. Cậu đã thù ghét người phụ nữ khác kia vì cô ta đã làm mẹ cậu khóc. Cậu chưa bao giờ nhìn thấy cô ta nhưng cậu biết rằng cô ta là đồ đĩ thỏa bởi lẽ cậu nghe thấy mẹ gọi cô ta như vậy. Về sau này, cậu sung sướng vì người phụ nữ đó đã mang cha cậu đi, và cậu được có mẹ chỉ cho riêng mình. Những mùa đông ở Minesota đều lạnh giá và mẹ Danlelcho phép cậu được nằm cùng giường với những chăn nệm ấm sực.

“Một ngày nào đó con sẽ cưới mẹ”. Daniel hứa hẹn và mẹ cậu cười vang, vuốt ve mái tóc cậu.

Ở trường, Daniel luôn luôn đứng đầu lớp. Cậu muốn mẹ có thể tự hào về cậu.

“Chị Conper, chị có cậu con trai thật sáng láng”.

“Cảm ơn. Chẳng có ai thông minh như người đàn ông bé nhỏ này của tôi cả”.

Khi Daniel lên bảy tuổi, mẹ cậu bắt đầu thường mời một người đàn ông hàng xóm, cao to, lông lá, sang nhà ăn cơm tối và Daniel bị ốm. Cậu nằm liệt giường với trận sốt dữ dội, và mẹ cậu đã hứa không bao giờ làm thế nữa. “Mẹ chẳng cần ai trên thế gian này ngoài con ra, Daniel ạ”, mẹ cậu nói.

Không ai có thể sung sướng như Daniel. Mẹ cậu là người phụ nữ đẹp nhất thế giới này. Khi mẹ vắng nhà, Daniel thường lẻn vào phòng ngủ của mẹ và mở các ngăn tủ đựng quần áo. Cậu thường lấy mấy đồ lót của mẹ ra vả xoa xoa thứ tơ lụa óng ả đó lên má mình. Chúng có mùi thơm thật tuyệt diệu.

Cooper đang nằm trong bồn nước ấm tại khách sạn Amstel, mắt nhắm nghiền, nhớ lại cái ngày khủng khiếp mà mẹ ông ta bị giết. Hôm đó là sinh nhật thứ mười hai của Daniel. Cậu được nhà trường cho về sớm vì bị đau tai.

Cậu giả bộ như đau nhiều hơn, bởi lẽ muốn lúc về đến nhà, mẹ sẽ vuốt ve cậu và bế cậu lên giường, rồi cuống quít lên bên cậu. Daniel bước vào nhà, đi đến phòng ngủ của mẹ và thấy mẹ đang nằm trần truồng trên chiếc giường mà hai mẹ con vẫn thường nằm, nhưng không phải chỉ có một mình. Mẹ đang làm những điều mà cậu không thể nói ra được, với người đàn ông hàng xóm. Daniel đứng nhìn trong khi mẹ cậu mải hôn lên bộ ngực lông lá và cái bụng phệ kia, và rên rỉ, “Ôi, em yêu anh”.

Và đó là điều khó nói ra nhất. Daniel chạy về phòng tắm của mình, nôn ọe lung tung ra khắp người. Cậu cẩn thận cởi quần áo và lau rửa sạch sẽ. Cái tai cậu giờ đây thật sự đau đớn. Cậu nghe thấy có tiếng nói ngoài hành lang và lắng nghe.

Mẹ cậu đang nói. “Anh nên về đi, anh yêu. Em còn phải tắm táp và mặc quần áo. Daniel sắp từ trường về rồi. Em cần làm tiệc sinh nhật nó. Em sẽ gặp anh vào ngày mai, anh yêu ạ”.

Có tiếng cửa trước đóng lại và tiếng nước chảy trong phòng tắm của mẹ cậu.

Có điều người đó không còn là mẹ cậu nữa. Đó là một người đàn bà đĩ thỏa làm những điều dơ bẩn trên giường với bọn đàn ông.

Cậu bước vào phòng tắm của mẹ và mẹ cậu đang ở trong bồn tắm, bộ mặt với vẻ đĩ thỏa tươi cười. “Daniel yêu quí! Kìa con”.

Cậu cầm trong tay một cái kéo cắt vải to tướng.

“Daniel …” Miệng mẹ cậu há to, nhưng không hề có âm thanh nào cho đến lúc cậu đâm nhát lầu tiên vào ngực con người xa lạ đang trong bồn tắm kia.

Cùng với tiếng kêu của mẹ là tiếng hét của cậu. “Đĩ thỏa! Đĩ thõa! Đĩ thỏa!”.

Những tiếng hét hòa lẫn vào nhau cho đến sau cùng chỉ còn tiếng hét của cậu. “Đĩ thõa … Đĩ thõa …”.

Máu tươi đầm khắp người. Cậu bước vào dưới vòi sen và tắm anh kỳ cọ cho đến khi thấy rát cả người.

Người đàn ông kia đã giết mẹ câu, và người đó phải trả giá.

Sau đó mọi việc diễn ra một cách thật chậm chạp và rõ ràng đến kỳ lạ.

Daniel dùng một cái khăn lau sạch dấu tay trên chiếc kéo và ném nó vào trong bồn tắm. Cậu mặc quần áo và điện thoại cho cảnh sát. Hai xe đến ngay, với còi rú ầm ĩ, và rồi một xe nữa chở các nhân viên điều tra, họ hỏi Daniel, và cậu đã kể rằng cậu được nhà trường cho về sớm, rằng cậu nhìn thấy người hàng xóm Fred Zimmer, đi ra bằng cửa phụ. Khi họ tra hỏi người đàn ông kia, ông ta thú nhận là từ nhận của mẹ cậu, nhưng phủ nhận việc giết bà.

Chính lời làm chứng trước tòa đã kết tội Zimmer “Khi từ trường trở về, cháu thấy người hàng xóm, Fred Zimmer, chạy ra cửa phụ à?”.

“Thưa ông, vâng”.

“Cháu nhìn có rõ không?”.

“Thưa ông, rõ. Có máu đầy trên tay ông ta mà”.

“Khi đó cháu làm gì, Daniel?”.

“Cháu … cháu sợ quá. Cháu biết rằng có chuyện gì đó khủng khiếp xảy ra với mẹ cháu rồi”.

“Rồi cháu đi vào nhà chứ?”.

“Thưa ông, vâng”.

“Vậy rồi sao?”.

“Cháu gọi to; mẹ ơi. Và không thấy tiếng trả lời, nên cháu đi vào phòng tắm của mẹ, và …”.

Tới lúc này, cậu bé nức nở và được dẫn ra ngoài.

Fred Zimemer bị hành quyết vào mười ba tháng sau.


Trong thời gian đó, cậu bé Daniel được gửi tới sống với một người bà con xa ở Texas, dì Mattie, mà tới lúc đó cậu mới được biết mặt. Dì là một người đàn bà khắc nghiệt, đầy tín ngưỡng mạnh mẽ và tin rằng ngọn lửa địa ngục luôn chờ thiêu đốt những kẻ có tội. Đó là một ngôi nhà không có tình yêu thương, niềm vui hay phiền muộn gì cả, và Daniel đã lớn lên trong bầu không khí ấy, khiếp sợ với tội lỗi bí mật của cậu và sự trừng phạt đang chờ đợi.

Ngay sau cái chết của mẹ, mắt Daniel bắt đầu bị lệch.

Các bác sĩ kết luận đó là một căn bệnh do thần kinh bị tác động quá mạnh.

Các mắt kính cậu phải mang ngày càng dày hơn.

Tới tuổi mười bảy, Daniel chạy trốn khỏi dì Mattie.

Cậu đi nhờ xe tới New York, nơi cậu được nhận vào làm một chân chạy giấy của Hiệp hội bảo hiểm quốc tế. Chỉ trong vòng ba năm, cậu được đề bạt lên thành một điều tra viên, rồi trở thành thám tử giỏi nhất của hãng. Cậu không hề đòi tăng lương hoặc cải thiện điều kiện làm việc gì cả Cậu không nghĩ tới những thứ đó. Cậu là cánh tay phải của Chúa trời, là lưỡi gươm trừng phạt của người.

Daniel Cooper ra khỏi bồn tắm và sửa soạn đi ngủ.

Ngày mai, ông ta nghĩ. Mai sẽ là ngày con đĩ kia bị trừng phạt thích đáng.

Ông ta lấy làm tiếc rằng mẹ mình không còn sống để thấy sự trừng phạt đó.

AMSRECDAM

Thứ sáu, 22 tháng Tám – 8 giờ.

Daniel Cooper và hai thám tử túc trực tại vị trí nghe trộm đã nghe cuộc trò chuyện của Tracy và Jefftrongbữa sáng.

“Uống cà phê không, Jeff?”.

“Không, cảm ơn”.

Daniel Cooper thầm nghĩ, đó sẽ là lần cuối cùng họ có thể ăn sáng với nhau.

“Anh có hồi hộp về chuyện gì không”. Chuyến đi tàu trên kênh đấy”.

“Hôm nay là một ngày trọng đại, thế mà em thì hồi hộp vì chuyến đi trên kênh ư”. Tại sao vậy?”.

“Bởi vì chỉ có hai chúng ta. Anh có nghĩ là em bị điên không”.

“Chắc chắn rồi. Còn chính em cũng là sự điên rồ của anh đấy”.

“Hôn nhé”.

Và tiếng họ hôn nhau.

Cô ta sẽ phải sợ hãi chứ không phải là hồi hộp, Cooper nghĩ bụng. Mình sẽ buộc cô ta phải sợ hãi.

“Dù sao thì em cũng thấy buồn khi phải dời khỏi đây Jeff ạ”.

“Chúng ta đâu có còn là những kẻ non nớt gì trên cuộc đời này”.

Tiếng cười của Tracy. “Anh nói …”.

Lúc 9 giờ sáng, câu chuyện của hai người vẫn tiếp tục và Cooper nghĩ họ sẽ cần phải sẵn sàng hành động. Họ sẽ phải xem xét lại kế hoạch một lần nữa ở phút chót. Còn thằng cha Monty kia thì sao nhỉ? Họ sẽ đón hắn ở đâu được?

Tiếng Jeff. “Em yêu này, em sẽ cảm ơn người gác cửa một câu trước khi trả phòng chứ? Anh sẽ bận lắm đấy”.

Tất nhiên rồi. Ông ta thật tuyệt vời. Tại sao không có những người gác cửa như thế ở Mỹ nhỉ?”.

“Anh cho rằng đó chỉ là một tập quán ở Âu châu thời. Em có biết nó bắt đầu từ bao giờ không?”.

“Không anh ạ”.

“Ở nước Pháp, hồi năm 1927 vua Hugh cho xây một nhà ngục ở Paris và giao cho một nhà quý tộc trông nom. Nhà vua đặt tước hiệu cho ông ta là conte đes cierge hay concierge, có nghĩa là “bá tước của các ngọn nến”. Tiền lương của ông ta là hai đồng vàng và đám tro trong lò sưởi của nhà vua. Sau này, bất kỳ ai trong nom một nhà tù hay một pháo đài đều được gọi là concierge, và sau cùng, từ này chỉ cả những người trông nom trong các khách sạn”.

Họ đang nói chuyện quái gì thế nhỉ? Cooper băn khoăn. Đã 9 giờ 30. Đã đến lúc họ phải đi rồi mà.

Tiếng Tracy. “Đừng có kể cho em là anh biết chuyện đó từ đâu nhé – chắc anh từng cặp với một cô gác cửa xinh đẹp nào rồi”.

Một gọng phụ nữ lạ. “Xin chào cô, chào ông”.

Giọng Jeff. “Không cớ cơ gác cửa xinh đẹp đâu”.

Giọng phụ nữ, hốt hoảng:

“Tôi không hiểu chuyện gì cả”.

Giọng Tracỵ:

“Em cược rằng nếu có, chắc anh đã phát hiện ra họ ngay”.

“Cái quỷ quái gì đang diễn ra ở dưới đó thể hả?”.

Cooper hỏi.

Một thám tử đáp, vẻ ngỡ ngàng. “Tôi không biết. Cô hầu phòng đang gọi điện báo cho người phụ trách phòng. Cô ta vào để quét dọn, nhưng nói là cô ta không hiểu chuyện gì cô ta nghe tiếng người nới, nhưng không thấy ai cả”.

“Cái gì hả?” Cooper lao ra cửa và chạy như bay xuống cầu thang. Vài giây sau hai thám tử kia xông vào phòng của Tracy:

Căn phòng trống rỗng trừ cô hầu phòng đáng bối rối. Trên bàn dùng để uống cà phê, một cái máy ghi âm đang chạy.

Tiếng Jeff. “Anh nghĩ là anh sẽ uống lại cà phê. Có nóng không em?”.

Tiếng Tracy:

“A, ha …”.

Cooper và hai thám tử đứng nhìn chết trận, không tin vào mắt mình nữa.

“Tôi … tôi không hiểu”, một trong hai thám tử lắp bắp. Cooper quát lên, “Số máy gọi cảnh sát khẩn cấp là bao nhiêu?”.

“22 – 22 – 22”.

Cooper vội đến bên máy điện thoại và quay số.

Tữ băng ghi âm tiếng Jeff vẫn vang lên, “Em thấy đấy, anh thực sự nghĩ rằng cà phê của bọn họ ngon hơn cà phê của ta. Không biết họ pha thế nào?”.

Cooper thét vào máy. “Đấy là Daniel Cooper. Tìm ngay thanh tra Duren. Nói với ông ta rằng Whitney và Stevens đã biến mất. Yêu cầu ông ta cho kiểm tra ở ga ra kia xem cái xe tải của họ đã đi chưa. Tôi đang trên đường tới nhà băng”.

Ông ta gác máy đánh rầm.

Tiếng Tracy. “Anh đã bao giờ uống cà phê có đánh lẫn vỏ trứng ở trong đó chưa? Thật hoàn hảo”.

Cooper đã ra khuất.

Thanh tra Duren nói. “Ổn cả thôi. Chiếc xe tải đã rời ga ra của bọn chúng, đang trên đường tới đây”.

Duren, Cooper và hai thám tử nữa đang ở vị trí chỉ huy của cảnh sát đặt trên nóc một tòa nhà cao tầng nhìn trực diện xuống nhà băng Ámro …

Viên thanh tra nói. “Có thể chúng đã đẩy sớm kế hoạch lên khi biết là chúng bị nghe trộm, nhưng cứ yên trí, ông bạn của tôi. Nhìn kìa? Ông ta đẩy Cooper tới bên chiếc ống kính nhìn xa đặt ở đó. Trận đường phố phía bên dưới, một người đàn ông trong bộ quần áo của người gác cổng đang chăm chú đánh bóng cái biển đồng mang tên nhà băng … một người quét đường đang quét dọn … một người bán báo đang đứng ở góc phố … Tất cả đều được trang bị máy bộ đàm mini.

Duren nói vào máy bộ đàm của ông ta. “Chốt A?”.

Người gác cổng đáp, “Tôi nghe rõ, thưa ông thanh tra”.

“Chốt B?”.

“Tôi nghe ngài đây”.Câu trả lời phát ra từ người quét đường.

“Chốt C?”.

Người bán báo ngẩng đầu nhìn lên và gật đầu.

“Chốt D?”.

Ba công nhân kia ngừng tay, và một trong số họ nói vào máy. “Ở đây tất cả đều sẵn sàng, thưa ngài”.

Viên thanh tra quay sang Cooper. “Đừng lo ngại gì hết. Vàng vẫn nằm yên trong nhà băng. Chỉ đến đây thì chúng mới có thể mó tới vàng. Ngay khi chúng vào nhà băng, cả hai đầu phố sẽ bị bịt lại, không có lối thoát nào cho chúng cả.

Ông ta nhìn đồng hồ. “Chiếc xe tải sắp xuất hiện bây giờ lấy”.

Bên trong nhà băng, không khí căng thẳng mỗi lúc một tăng. Các nhân viên đều đã được phổ biến, và những người bảo vệ được lệnh phải giúp đỡ vào việc chất hàng lên xe tải khi nó đến. Tất cả đều phải hợp tác thuận lợi.

Các thám tử cải trang phía bên ngoài nhà băng vẫn tiếp tục làm việc, luôn quan sát đường phố để sớm phát hiện chiếc xe tải.

Trên nóc nhà cao tầng. Thanh tra Duren đã hỏi đến lần thứ mười, “Thấy bóng dáng chiếc xe chết tiệt kia chưa?”.

Thám tử Witkamp nhìn đồng hồ. “Chúng đã chậm tới mười ba phút rồi. Nếu chúng …”.

Chiếc máy bộ đàm lại hoạt động. “Ông thanh tra! Chiếc xe tải vừa xuất hiện?

Nó đang chạy ngang đường Rozengracht, hướng về phía nhà băng. Trong vòng một phút nữa thì từ trên nóc nhà ông có thể trông thấy nó đấy”.

Bầu không khí đột nhiên như bị tích điện.

Thanh tra Duren nói nhanh vào bộ đàm. “Các đơn vị chú ý. Cá đang vào lưới. Hãy để chúng lọt vào hẳn đã”.

Một chiếc xe tải bọc thép màu xám tiến tới cổng nhà băng và dừng lại. Trong lúc Coơper và Duren quan sát, hai người đàn ông mặc quân phục an ninh nhảy ra khỏi xe và đi vào nhà băng. “Cô ta đâu? Tracy Whitney đâu?”.

Daniel Cooper kêu lên.

“Không sao cả”, thanh tra Duren nói. “Cô ta sẽ không ở xa chỗ vàng đâu”.

Và ngay cả như thế đi nữa, Daniel Coơper nghĩ, cũng không có gì quan trọng các băng ghi âm sẽ kết tội cô ta.

Các nhân viên nhà băng, đầy hồi hộp, giúp hai người mặc quân phục kia chất các thanh vàng từ trong két sắt lên các xe đẩy và đẩy ra chỗ chiếc xe tải. Từ trên nóc nhà cao, Cooper và Duren chăm chú theo dõi mọi di động.

Việc xếp hàng mất tám phút, Khi hai cửa sau của chiếc xe tải đã được khóa lại và hai người đàn ông kia chuẩn bị trèo vào buồng lái. Thanh tra hét vào máy bộ đàm. “Các đơn vị ập vào? Ập vào”.

Sự hỗn loạn bùng lên. Người gác cổng, người bán báo, mấy người công nhân và một nhóm đông các thám tử khác lao tới chỗ chiếe xe tải bọc thép, vây lấy nó, sung lăm lăm trong tay. Tất cả các tuyến giao thông hướng tới đoạn phố này đều bị chặn lại.

Thanh tra Duren quay sang Cooper và mỉm cười. “Với ông thế là đã quả tang chưa? Ta hãy kết thúc vụ này nhé”.

Cuối cùng, vậy là xong! Cooper nghĩ.

Họ vội vã xuống phố. Hai người đàn ông kia đang đứng úp mặt vào tường, tay giơ lên, bao quanh là các thám tử tay cầm súng. Daniel Cooper và Duren rẽ lối bước vào.

Duren nói, “Giờ thì các anh có thể quay mặt lại được, Các anh đã bị bắt”.

Hai người đàn ông quay lại, mặt tái xanh. Cooper và Duren giật mình nhìn họ. Hoàn toàn lạ mặt.

“Các các anh là ai?” Thanh tra Duren hỏi.

“Chúng tôi là nhân viên bảo vệ của cơ quan an ninh”, một trong hai người lắp bắp. “Đừng bắn. Xin đừng bắn”.


Thanh tra Duren quay sang Cooper. “Kế hoạch của chúng có trục trặc”.

Giọng ông ta giận dữ. “Chúng đã hủy bỏ rồi”.

Có một cái gì đó tắc nghẹn trong cổ họng Daniel Cooper, và khi cất lời lên được, giọng ông ta tắc nghẹn.

“Không. Không có gì trục trặc hết”.

“Ông nói sao?”.

“Chúng chưa bao giờ theo đuổi chỗ vàng này. Toàn bộ những bày đặt này chỉ là một cái bẫy để nhử chúng ta thôi”.

“Không thể thế được! Tôi muốn nói đến chiếc xe tải, chiếc tàu chạy trên kênh, các bộ quân phục … và chúng ta có những tấm hình …”.

“Ông không hiểu à? Chúng biết từ đầu là ta theo dõi chúng suốt thời gian qua mà”.

Mặt thanh tra Duren trắng bệch ra. “Ôi, lạy Chúa tôi? Chúng ở đâu lúc này?”.

Trên phố Potter ở khu Coster, Tracy và Jeff đang đi tôi nhà máy gia công kim cương Hà Lan. Jeff mang râu, ria mép giả và đã hóa trang khuôn mặt. Anh mặc bộ đồ thể thao, tay xách cái túi lớn. Tracy mang bộ tóc giả màu đen, dưới làn váy là cái bụng bầu tròn căng, mặt trát son phấn, mang kính đen, xách một cái valy cỡ lớn và một gói tròn tròn bọc trong giấy nâu. Hai người đi vào phòng tiếp khách và hòa vào đám đông các du khách đang lắng nghe người hướng dẫn viên nói. “Và bây giở, mời các quý bà, quý ông đi theo tôi. Các vị sẽ thấy các thợ cắt gọt kim cương của chúng tôi đang làm việc và sẽ có dịp mua được vài viên kim cương tuyệt đẹp”.

Với người hướng dẫn đi trước, đám đông đi qua các cửa dẫn vào phía trong nhà máy. Tracy hòa vào họ, trong lúc Jeff tụt lại đằng sau. Khi đám khách khuất qua cửa, Jeff quay người đi nhanh xuống một đoạn cầu thang dẫn tới tầng hầm.

Anh mở túi lấy ra bộ đồ bảo hộ lao động lem nhem, bước tới bên hộp cầu dao điện và đưa tay nhìn đồng hồ.

Ở trên gác, Tracy cùng đám đông đi từ phòng này sang phòng khác trong lúc người hướng dẫn viên giới thiệu các công đoạn gia công khác nhau để có được các viên kim cương đẹp đẽ từ các viên kim cương thô nguyên thủy. Thỉnh thoảng Tracy lại liếc nhìn đồng hồ. Chương trình tham quan đã bị chậm năm phút so với kế hoạch và nàng chỉ ước ao người hướng dẫn viên hay đi nhanh hơn một chút.

Sau cùng, vòng tham quan cũng kết thúc, họ đã tới phòng triển lãm. Người hướng dẫn viên bước tới bên cái bệ mà quanh nó chăng sợi dây thừng óng ả bằng nhung.

“Trong hộp kính này”, anh ta tự hào cất tiếng, “là viên kim cương Lucullan, một trong số những viên kim cương quý nhất thế giới. Nó đã từng được một diễn viên sân khấu nổi tiếng mua tặng người vợ, một minh tinh màn bạc. Nó được định giá mười triệu đô la và được bảo vệ chu đáo bằng các thiết …”.

Ánh sáng vụt tắt. Ngay lập tức, chuông báo động réo vang và các tấm mành sắt đóng rầm rầm lại ở các cửa sổ và cửa ra vào, bịt chặt tất cả các lối ra. Một vài du khách sợ hãi hét lên.

“Xin bình tĩnh?” Anh ta hét lên át tiếng ồn ào. “Không có gì đáng lo ngại hết. Đó chỉ là một sự cơ về điện. Trong giây lát máy phát điện dự phòng sẽ …”.

Ánh điện lại bật sáng.

“Quý vị thấy chưa”. Anh ta trấn an họ. “Không có gì phải lo lắng cả”.

Một khách du lịch người Đức chỉ những tấm mành sắt hỏi. “Kia là những cái gì?”.

“Một đảm bảo an toàn”, người hướng dẫn viên giải thích, anh ta lấy trong túi ra một chiếc chìa khóa hình thù kỳ cục và cắm nó vào một cái khe nhỏ trên tường, xoay chìa. Các tấm mành sắt đang bịt kín cửa sổ và cửa ra vào được kéo lên. Máy điện thoại trên chiếc bàn kề đó đổ chuông và người hướng dẫn viên nhấc ống nghe.

“Hendrik đây. Cảm ơn ông đội trưởng. Không, mọi thứ đều tốt đẹp. Một cú báo động nhầm thôi. Có thể là do chập điện. Tôi sẽ cho kiểm tra lại ngay. Vâng, thưa ông”.

Anh ta gác máy và quay lại nhóm khách. “Xin lỗi quý bà, quý ông. Không có cẩn thận nào là thừa với một viên kim cương quý giá như thế này. Bây giờ là dành cho những ai trong quý vị muốn mua một vài viên kim cương tuyệt đẹp của chúng tôi …”.

Ánh sáng lại phụt tắt. Chương báo động réo vang và một lần nữa các tấm mành sắt lại sập xuống.

Một phụ nữ trong đám đông la lên. “Harry, chúng ta rời khỏi đây thôi anh ạ”.

“Em có im miệng đi không, Olane?” Chồng cô ta càu nhàu.

Ở tầng hầm bên dưới, Jeff đứng trước hộp cầu dao điện lắng nghe tiếng náo loạn của đám du khách phía trên. Anh đợi giây lát rồi lại đóng cầu dao. ở tầng trên, ánh điện lại bật sáng.

“Thưa quý bà, quý ông”, người hướng dẫn viên gào lên, cố át tiếng ồn ào.

“Đó chỉ là một trục trặc kỹ thuật”.

Anh ta lại lấy chiếc chìa khóa ra, cắm vào cái khe nhỏ trên tường. Các tấm mành sắt lại được kéo lên.

Chuông điện thoại reo vang. Người hướng dẫn viên vội chạy lại cầm ống nghe. “Hendrik đây. Không, thưa ông đội trưởng. Vâng. Chúng tôi sẽ sửa lại trong thời gian nhanh nhất có thể. Cảm ơn ông”.

Một cánh cửa bật mở, Jeff bước vào, mang theo họp đồ nghề, cái mũ công nhân của anh hất ngược ra sau gáy.

Anh đưa mắt kiếm người hướng dẫn viên.

“Có gì vậy? Ai đó báo có sự cố trong mạch điện”.

“Đèn lúc sáng lúc tắt”, người hướng dẫn viên giải thích.

“Xem anh có thể sửa lại nhanh được không nào?” Anh ta quay sang phía các du khách và cố nở nụ eười trên mời. “Tại sao chúng ta không lại gần đây để quý vị có thể chọn lấy vài viên kim cương xinh đẹp với giá phải chăng nhỉ?”.

Nhóm du khách bắt đầu đi vào phía các tủ kính trưng bày kim cương, Jeff tranh thủ lúc không ai để ý, lấy trong túi quần ra một vật nhỏ và quẳng nó vào sau trụ đô cái hòm kính đựng viện kim cương Lucullan. Một đám khói dày đặc bốc lên kèm theo những tia lửa.

Jeff gọi người hướng dẫn viên. “Này! Có chỗ trục trặc kia kìa. Chạm mạch ở mạng điện dưới sàn”.

Một nữ du khách kêu toáng lên. “Cháy!”.

“Mọi người hãy bình tĩnh” Người hướng dẫn viên nói lớn. “Không việc gì phải hoảng hốt. Hãy cứ yên tâm”. Anh ta quay sang Jeff, giục giã. “Sửa ngay đi!

Mau lên?”.

“Không khó khăn gì” Jeff nói bình tĩnh. Anh bước lại gần sợi thừng nhung chăng quanh cái bệ trên đặt hòm kính.

“Không được?” Người bảo vệ nói lớn. “Anh không thể đến gần nó được”.

Jeff nhún vai. “Với tôi thì được thôi. Ông đi sửa vậy”.

Anh quay người bước đi.

Khói tràn ra ngày một dày đặc và mọi người lại bắt đầu hoảng hốt.

“Gượm đã?” Người hướng dẫn viên năn nỉ. “Đợi một chút nào” Anh ta chạy lại bên điện thoại và quay máy.

“Ông đội trưởng đấy à? Hendrik đây. Tôi buộc phải đề nghị ông tạm ngưng toàn bộ hệ thống báo động. Chúng tôi đang gặp phải một rắc rối nhỏ. Vâng, thưa ông”. Anh ta đưa mắt nhìn Jeff. Anh cần ngưng bao lâu hả?

“Năm phút”. Jeff đáp.

“Năm phút”, người hướng dẫn viên lặp lại vào máy.

Anh ta gác máy. “Hệ thống báo động sẽ được ngắt sau đây mười giây. Hãy vì Chúa, mau lên nhé. Chúng ta chưa bao giờ ngắt hệ thống báo động cả”.

Tôi chỉ có hai bàn tay thôi, ông bạn ạ”. Jeff đợi mười giây rồi bước vào bên trong những sợi dây thừng và tới gần cái bệ. Hendrik ra hiệu cho người bảo vệ có vũ trang kia, người ấy gật đầu và dán mắt vào Jeff.

Jeff tỉnh bơ lúi húi làm việc ngay sau cái bệ. Người hướng dẫn viên bất hạnh quay sang nhóm khách. “Bây giờ, thưa các quý bà, quý ông, như tôi vừa nói, ở đây chúng ta có cả một bộ sưu tập những viên kim cương bán theo giá thỏa thuận. Chúng tôi chấp nhận thẻ mua hàng, séc du lịch. Anh ta cười cười, “và cả tiền mặt”.

Tracy đang đứng trước dãy tủ kính. Nàng cất tiếng hỏi lớn. “Các ông có mua kim cương không?”.

Người hướng dẫn viên nhìn nàng. “Cái gì ạ?”.

“Chồng tôi là người đi tìm vàng. Anh ấy mới từ Nam Phí trở về và muốn bán những viên kim cương này đây”.

Vừa nói, nàng vừa lật nắp chiếc vali hộp vẫn xách trên tay, nhưng vì có lẽ đang cầm úp sấp nên một số những viên kim cương lấp lánh chảy ào xuống rơi tung tóe khắp sàn.

“Kim cương của tôi”. Tracy gào lên. “Giúp tới với”.

Tất cả chìm trong giây lát im lặng rồi một sự náo loạn bùng lên. Đám đông lịch sự kia bỗng chốc hóa thành một lũ điên. Họ bò toài người ra sàn để nhặt kim cương, xô đẩy lẫn nhau.

“Tôi vớ được vài …”.

“Vơ lấy một nắm đi, John”.

“Buông ra, nó là của tôi …”.

Người hướng dẫn viên và người bảo vệ đứng chết lặng, không nói nên lời.

Họ bị cái đám người tham lam kia đẩy bật ra một bên khi họ cuống cuồng vơ nhét những viên kim cương vào đầy túi quần túi áo. Người bảo vệ quát lên “Lùi lại! Ngừng ngay? Và chưa dứt lời đã bị xô ngã xuống sàn. Một nhóm du lịch người Ý bước vào, và khi hiểu ra chuyện, họ lao ngay vào cươc. Người bảo vệ cố nhỏm dậy để có thể phát tín hiệu báo động nhưng không thể được vì hên tục bị chen lấn, xô đẩy. Họ dày xéo lên eả người anh ta. Tất cả đột nhiên cứ như đến ngày tận thế vậy. Sau cùng, khi người gác loạng choạng đứng dậy được, anh ta vội vã lách qua đám đông hỗn loạn đến bên cái hòm kính đặt trên bệ, đứng nhìn nó trân trối, không tin vào mắt mình nữa.

Viên kim cương Lueullan đã biến mất.

Người phụ nữ có bầu và anh chàng thợ điện kia cũng không thấy đâu.

Tracy trút bỏ hóa trang của nàng trong một phòng vệ sinh công cộng ở công viên Oster, cách nhà máy vài dãy phố. Mang theo cái bọc gói trong tờ giấy màu nâu, nàng bước lại cái ghế băng đặt trong công viên. Mọi việc đã diễn ra hoàn hảo. Nàng nghĩ tới đám đông chen lấn nhau để giành giật những hạt ziricon vô giá trị kia và bật cười. Jeff đang đi về phía nàng, trong một bộ complê màu xám sẫm; bộ râu và ria mép đã biến mất. Tracy vụt đứng dậy, Jeff bước lại bên nàng và mỉm cười. “Anh yêu em nhiều”, anh nói và đưa tay lấy viên kim cương Lucullan ra khỏi túi áo gilê, đưa cho Tracy. “Chuyển nó cho bạn của em đi, em yêu. Hẹn gặp lại em sau nhé”.

Tracy trông theo, trong lúc Jeff thong thả bước đi, mắt nàng ngời sáng. Họ đã là của nhau. Họ sẽ đi trên hai chuyến máy bay khác nhau và gặp nhau ở Braxin, và sau đó họ sẽ ở bên nhau suốt cả quãng đời còn lại.

Tracy ngó quanh để yên tâm rằng không có ai nhìn mình, rồi mở cái túi đang cầm trên tay. Trong đó là một cái lồng nhỏ nhất một con chim câu màu xám biếc. Ba ngày trước đây, khi nhận con này về khách sạn từ hang điện tín Mỹ, Tracy đã thả con chim câu kia khỏi cửa sổ vả nhìn nó vụng về bay đi. Giờ đây, Tracy lấy ra cái túi da nhỏ xíu và cẩn thận cho viên kim cương vào đó. Nàng tóm con chim ra khỏi lồng và thận trọng buộc cái túi vào chân con chim.

Mảrgo, cô bé thông minh. Hãy mang nó về nhà nhé”

Không biết từ đâu, một cảnh sát mặc đồng phục chỉnh tề xuất hiện. “Ngồi yên? Cô cho rằng mình đang làm gì vậy hả?”.

Tim Tracy thót lại. “Có … gì rắc rối vậy, thưa ngài?”.

Mắt ông ta nhìn chằm chằm vào cái lồng và ông ta bực tức nói. “Cô biết rắc rối gì rồi đó. Cho những con chim này ăn là một chuyện, nhưng bẫy chúng để nhất vào lồng là một hành động vi phạm pháp luật. Bây giờ cô hãy thả ngay nó ra trước khi tôi phải tuyên bố bắt giữ cô”.

Tracy thở phào. “Tôi xin nghe lời ông, thưa ông sĩ quan”.

Nàng tung con chim lên không. Một nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt nàng trong lúc nhìn theo con chim câu đang bay vút lên cao, cao mãi. Nó lượn một vòng tròn rồi nhằm bay về London, 230 dặm về hướng Tây. Gunther đã bảo cô một con chim câu đưa thư trên đường về bay trung bình tới bốn mươi dặm một giờ; vậy là Marge, trong vòng sáu giờ nữa sẽ về đến chỗ ông ấy.

“Đừng có bao giờ làm thế nữa”, viên cảnh sát cảnh cáo Tracy.

“Tôi sẽ không bao giờ làm thế nữa, thưa ông”, Tracy thành thật hứa.

Cuối chiều hôm đó, Tracy có mặt ở sân bay Schiphol đang vào cổng để lên chuyến bay đi Braxin. Daniel Cooper đứng ở một góc xa chăm chăm nhìn nàng, ánh mắt đầy vẻ tức tối. Tracy đã đánh cắp viên kim cương Lucullan. Cooper biết vậy ngay từ lúc nghe tin này. Đó là phong cách của cô ta, táo bạo và giàu trí tưởng tượng. Thế nhưng không làm gì được cả. Thanh tra Duren đã cho người gác phòng triển lãm xem các tấm hình chụp Tracy và Jeff. “Không phải. Tôi chưa bao giờ thấy hai người này. Tên tội phạm kia có râu và ria mép còn má và mũi có vẻ béo hơn cô. Người phụ nữ mang những viên kim cương thì có bầu và mái tóc màu sẫm”.

Cảnh sát cũng đã không hề thấy tung tích gì của viên kim cương. Thân thể và hành lý của Jeff và Tracy đều đã được khám xét kỹ lưỡng. “Viên kim cương nhất định còn ở Amstecđam”. Thanh tra Duren quả quyết với Cooper.

“Chúng ta sẽ tìm thấy nó”. Không đâu, ông không thể – Cooper bực dọc nghĩ, Cô ta hẳn đã thay đổi những con chim câu. Viên kim cương đã bị mang ra khỏi lãnh thổ Hà Lan bằng một con chim đưa thư rồi.

Cooper nhìn theo bất lực trong lúc Tracy đi ngang qua phòng đợi lớn. Nàng là kẻ tội phạm đầu tiên đã đánh bại ông ta. Vì nàng mà ông ta phải sa xuống địa ngục mất.

Khi bước tới cổng vào để lên máy bay, Tracy ngập ngừng một khoảnh khắc, rồi quay lại nhìn thẳng vào mắt Cooper. Nàng biết rằng ông ta rình rập từng bước chân nàng trên khắp châu Âu, như một thứ hung thần báo oán vậy. Ở ông ta có cái gì đó kỳ dị, vừa khủng khiếp đe dọa, vừa thật thương tâm. Đột nhiên, không hiểu thế nào, Tracy cảm thấy buồn cho ông ta. Nàng khẽ vẫy tay từ biệt trước khi quay người bước đi. Daniel Cooper bất giác sờ tay vào lá đơn xin thôi việc bỏ trong túi áo ngực mình.

Đó là chiếc 747 sang trọng của hãng Pan American, và Tracy ngồi trong số ghế 4B bên lối đi ở khoang hạng nhất. Nàng thấy hồi hộp lạ thường. Chỉ ít giờ nữa nàng sẽ được bên Jeff. Họ sẽ làm đám cưới ở Braxin. Thôi những trò mạo hiểm – Tracy nghĩ thế nhưng mình sẽ nhớ những chuyện đó biết bao. Nhưng cũng chẳng sao mình biết chắc thế. Chỉ trở thành bà Jeff Stevens là cuộc sống của mình đã đủ sung sướng làm rồi.

“Xin thứ lỗi”.

Tracy ngước nhìn lên một người đàn ông béo mập, trạc tuổi trung niên, đầy vẻ phóng đãng đang đứng bên nàng.

Ông ta chỉ cái ghế bên cửa sổ. “Đó là chỗ của tôi cô bé”.

Tracy quay nghiêng người để ông ta có thể đi qua chỗ nàng. Và vì chiếc váy ngàn nàng đang mặc hơi bị co lên, ông ta đưa mắt nhìn cặp chân nàng vẻ thích thú.

“Hôm nay đẹp trời quá nhỉ?” Giọng ông ta đầy vẻ khêu gợi.

Tracy quay đi. Nàng không hề có hứng thú bắt chuyện với một khách đồng hành nào cả. Nàng còn bao nhiêu điều muốn nghĩ tới – cả một cuộc sống mới mà. Họ sẽ ổn định cuộc sống ở đâu đó và sẽ trở thành các công dân kiểu mẫu, thành ông bà Jeff Stevens đáng kính trọng.

Ông khách ngồi bên dùng cùi tay huých nhẹ vào nàng. “Vì rằng chúng ta sẽ ngồi bên nhau suốt cả chuyến đi này, cô bé ơi, tại sao cô và tôi lại không làm quen nhau nhỉ? Xin tự giới thiệu, tôi là Maximilian Pierpont”.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.