Nạp Thiếp Ký

Chương 4: Đương kim hoàng thượng là ai?


Đọc truyện Nạp Thiếp Ký – Chương 4: Đương kim hoàng thượng là ai?

Con mẹ nó, lão tử phải liều mạng với ngươi thôi!
Dương Thu Trì thò tay rút súng, nhưng do thân thể dán chặt vào nhánh cây, súng lại nằm trong đai lưng vũ trang bị ép dưới thân, không dễ dàng gì mà thò tay vào rút súng được.
Trong khi hắn vừa nỗ lực giữ thăng bằng, vừa nhấc mông để có không gian thò tay vào rút súng, thì lão hổ đã đi hết một vòng quanh cây, phát hiện nếu như lợi dụng ưu thế cao độ của sườn dốc, thì có thể bắt được con mồi trên cây này, và nó đã thực hiện điều đó, di chuyển đến sườn dốc phía trên.
Trong lúc tối hậu quan đầu này, Dương Thu Trì không còn cố tính toán thiệt hơn gì nữa, uốn cong người, rời ngực khỏi nhánh cây, cánh tay phải nhanh chóng thò vào lòng rút cây súng ra. Do động tác đó vượt quá sự chịu đựng của nhánh cây, thân thể của hắn gần như mất đi sự thăng bằng.
Lão hổ đã chuyển đầu quay lại, tìm kiếm giác độ!
Dương Thu Trì liều lĩnh chộp lấy nhánh cây duy trì thăng bằng, cánh tay thụ thương do dùng lực quá mạnh nên đau nhói lên. Nhưng vào thời khắc này, hắn không còn để ý gì nữa. Do không có biện pháp và không có thời gian dùng tay trái lên đạn, hắn đã dùng ngón trỏ của tay phải bóp trượt băng đạn, giằng mạnh một cái nghe cái rắc, lập tức đẩy đạn lên nòng.
Lão hổ điều chỉnh giác độ, rùn người về phía sau phục xuống, gầm lên một tiếng, phóng về phía Dương Thu Trì một lần nữa.
Đoàng! Dương Thu Trì căn bản không còn đủ thời gian để nhắm cho kỹ, giương súng ra bắn đại một phát. Lão hổ đang bay vụt tới giữa không trung dường như bị đập mạnh một côn, thân thể mất đi lực rướn, phi vụt qua dưới thân Dương Thu Trì, rớt xuống dòng suối.
Lão hổ lăn lộn trên đất vài vòng, sau đó nhỏm người lên, phát ra một tiếng gầm rung động cả sơn cốc. Nó chuyển đầu lại, nhìn chằm chằm Dương Thu Trì đang ở trên cây, phóng một cái đã tiến lại gần, máu tươi từ trên đầu vai tứa ra ồ ạt.
Không kịp nghiên cứu xem viên đạn vừa rồi đã bắn trúng vị trí nào trên thân thể lão hổ, hắn giương súng nhắm chuẩn đầu của nó, bóp cò liên tục. “Đoành! Đoành!” hai phát đạn chát chúa vang lên. Dương Thu Trì cách con hổ khoảng 5 mét, hai phát súng này có độ chuẩn xác khá cao, trúng cả vào đầu lão hổ. Đầu của nó gần như bị đấm mạnh bằng hai quyền sắc thép, sọ não ngưỡng về phía sau, lắc lư mấy cái rồi gục luôn xuống đất. Máu tươi đỏ lòm của nó xì ra cùng não tương trắng xóa. Bốn chân của con cọp cào cấu xuống đất vài cái, rồi cuối cùng bất động.
Dương Thu Trì thở kéo hơi lên, súng trên tay vẫn chĩa thẳng vào lão hổ, sợ nó tiếp tục đứng dậy nữa.
Qua một lát sau, lão hổ vẫn không hề động đậy, Dương Thu Trì không dám chắc là nó chết thật hay chưa. Để cho an toàn, hắn nhắm kỹ đầu con cọp bắn thêm một phát nữa. Đầu của con hổ chợt bắn ra một làn mưa máu, không còn động tĩnh gì. Đến lúc này, Dương Thu Trì mới dám xác định là nó đã chết hẳn.
Thật đúng là cửu tử nhất sinh! Dương Thu Trì tới lúc này mới thở ra một hơi, cảm thấy trên trán đầy mồ hôi lạnh, toàn thân mềm nhũn ra, vội ôm chặt thân cây nghỉ ngơi một chút rồi mới từ từ tuột xuống đất.
Dương Thu Trì dùng súng chĩa vào lão hổ, từ từ tiến lại gần. Hắn cẩn thận dùng chân đá vào người nó, thấy nó không hề có động tĩnh gì, phân nửa hộp sọ đã bị bốn phát súng vừa rồi bắn tan tành, chất não tương màu trắng chảy ra thấm đầy cả hoa văn mang hình chữ “Vương” đầy uy mãnh.

Cho đến lúc này, Dương Thu Trì mới cảm giác cánh tay trái của mình đau nhức trầm trọng. Hắn vén ống tay áo lên nhìn, thấy có ba vết thương dài tứa đầy máu tươi, nên vội đến bên bờ suối rửa cho thật sạch. Nhìn lại vết thương cho tử tế, thấy chúng không quá sâu, không cần phải may lại. Hắn đưa tay lên trên đầu, hòng giúp thương khẩu mau khép miệng do máu bớt chảy ra. Dần dần, vết thương không còn ra máu nữa, nơi này không có bông băng sát trùng, nên hắn thà để cho nó lộ ra ngoài như thế, còn hơn là bó lại dễ bị nhiễm trùng.
Ngồi trên bãi cỏ gần con hổ, hắn nhìn cái miệng lớn như chậu máu của nó, nghĩ tới chuyện suýt trở thành món mồi ngon trong cái miệng này. Càng nghĩ, hắn càng cảm thấy sợ, ngẩng đầu nhìn vầng thái dương lấp lánh trên đầu và phong cảnh vừa khôi phục lại nét thi tình họa ý. Cái cảm giác chạy trốn khỏi nanh vuốt của tử thần thật là đáng sợ.
Nghỉ ngơi một lúc, thể lực của hắn khôi phục lại dần. Hắn đứng lên đá mạnh một cái vào thân con hổ, chửi: “Mẹ mày, đúng là đồ khùng không biết Thái Sơn! Năm xưa Võ Tòng đánh hổ trên núi Cảnh Dương chẳng qua là như thế này mà thôi, ha ha!” Dương Thu Trì chợt cảm thấy có chút dương dương đắc ý.
Hắn rút băng đạn ra xem, thấy chỉ còn lại hai viên. Sau khi lấy đai lưng võ trang ra xem xét lại chỗ chứa đạn dược, thấy còn sáu phát đạn nữa, cộng với hai phát chưa sử dụng, hắn còn tổng cộng tám viên đạn. Như vậy, hắn cần phải hạn chế sử dụng súng thôi. Trong thế giới cổ đại, không có chỗ nào có thể tìm ra đạn. Một khi đạn hết, cây súng này kể như vô dụng.
Không biết còn có con hổ hay mãnh thú nào không? Cẩn thận là trên hết, Dương Thu Trì nạp đầy lại băng đạn, sau đó cất súng vào bao trên đai lưng.
Con hổ này có bộ da cực tốt, bán chắc được không ít tiền! Hắn rút cây tiểu tàng đao tinh chế chuyên dùng trong quân đội ra, bắt đầu lột da hổ. Tuy chưa bao giờ lột da hổ, cũng chẳng học thú y, nhưng dù sao hắn vẫn là người tốt nghiệp đại học y khoa, dĩ nhiên là có trang bị chút ít kiến thức thông thường về giải phẫu sinh vật.
Chẳng mấy chốc, da hổ đã được lột xong, toàn những máu. Hắn trải da hổ ra bãi cỏ phơi nắng, hong cho khô máu. Nếu như không tìm được nhà dân nào, thì chỗ thịt này cũng là thứ làm hắn đỡ đói lòng. Có điều con hổ này nặng mấy trăm ký lô, một mình hắn không thể nào vác nổi. Thực sự thì cũng không cần mang theo nhiều như vậy, hắn quyết định chặt hai chân sau của nó là quá đủ rồi. Rất tiếc là không có lửa, nếu không thì hắn đã nổi lửa làm món thịt hổ sấy rồi, nếu được thế thì quả là “bá cháy”!
Sau khi cắt rời hai chân sau của con hổ ra, Dương Thu Trì tìm dây buộc chặt chúng lại, vác lên lưng. Tấm da hổ vừa khô máu cũng được hắn xếp lại kẹp dưới nách, rồi tiếp tục men theo dòng suối mà đi.
Sau khi đi thêm khoảng một giờ đồng hồ nữa, hắn đã thấy xa xa có khoảng mười mái nhà. Có người rồi! Dương Thu Trì vô cùng hưng phấn, điều này có thể hiểu được. Bản thân hắn cho dù là có vượt qua thời gian trở về cổ đại, nhưng không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất, đó là lỡ lại gặp ổ thổ phỉ hay sơn trại của sơn tặc, như vậy là càng thêm phiền. Dương Thu Trì móc súng ra, lên đạn sẵn sàng…
Bước gần đến thôn, ngay từ xa xa hắn đã thấy có một mục đồng ngồi trên bờ ruộng chăn con trâu đang nhẩn nha nhai cỏ trên mảnh ruộng cạnh thôn. Cậu bé đó đang cầm trên tay một cây cỏ đuôi chồn, bộ dạng vô cùng nhàn nhã, vui tươi.
Dương Thu Trì đến gần bên nó, cúi người xuống hỏi: “Tiểu ca, xin hỏi đây là địa phương nào?”
Mục đồng quay đầu lại nhìn Dương Thu Trì, đôi mắt to đen chớp chớp: “Nơi đây là Ngũ Lý Loan, ông từ đâu tới vậy?”
Từ nơi đâu tới à? Vấn đề này không dễ trả lời đây! Dương Thu Trì hàm hồ đáp: “Ta từ bên núi kia qua, gần đây có thành thị nào lớn không?”

“Thành thị? Thành thị là cái gì?” Chú nhóc nghiêng nghiêng đầu, không hiểu rõ từ ngữ vừa rồi là nghĩa gì.
“Thành thị là một chỗ có rất nhiều người đó.”
“A…!” Mục đầu chợt hiểu ra, gật đầu cười nói: “Cái ông nói là Quảng Đức huyện thành a.” Nó kéo tay áo của Dương Thu Trì, chỉ về một phía: “Theo cửa thôn này, đi thẳng theo con đường nhỏ chừng năm dặm là tới.” Ngừng một chút, nó giải thích thêm: “Sở dĩ chỗ của chúng tôi đây gọi là Ngũ Lý loan, chính là vì cách huyện thành Quảng Đức năm dặm lộ trình.” Chú nhóc nhoẻn miệng cười tươi, lay động cây cỏ đuôi chồn trong tay, khiến cho người ta có cảm giác vô cùng sảng khoái.
“Đa tạ tiểu ca nghe!” Dương Thu Trì học theo người xưa, ôm quyền xá xá, vừa định đi, chợt nhớ ra một chuyện, hỏi: “Xin hỏi thêm một chút, hôm nay là ngày mấy tháng mấy?”
Mục đồng hơi ngẩn người, đáp: “Ngày mấy tháng mấy à? Ngày 3 tháng 9 a.” Nó lại nhóp nhép miệng, không nhịn được liếc Dương Thu Trì hỏi: “Ông lớn người như vậy mà ngay cả ngày tháng cũng không rõ nữa sao?”
Dương Thu Trì không thèm để ý, hỏi tiếp: “Vậy đương kim hoàng thượng là ai?”
“Hoàng thượng? Hoàng thượng thì là hoàng thượng chứ là ai, hoàng thượng là vạn tuế gia đó.”
Xỉu mất! Hoàng thượng thì ai chẳng biết là vạn tuế gia, đâu có cần ngươi đi nhắc? Đầu Dương Thu Trì to như cái đấu, tiếp tục hỏi: “Vạn tuế gia đều có danh tính a, giống như cậu vậy đó, dù sao thì cũng có tính danh mà?”
“Tính danh? Tính danh là cái gì?”
Tính danh là cái gì mà cũng không biết, đem đầu đi đập đá đi! Nghĩ vậy, nhưng hắn vẫn nhẫn nại giải thích: “Tính danh chính là tên của tiểu ca đó, vậy ba ba (cha) mụ mụ (mẹ) của cậu gọi cậu là chi?”
“Gọi ta là Cẩu Thặng a!”
“Cẩu thặng*? Ha ha ha!” Dương Thu Trì ngẩn người, ngay sau đó bật cười ha hả. Hắn nghe nói ở nông thôn thường lưu hành tập tục là đặt tên cực kỳ xấu cho trẻ em, chính là mong nuôi chúng cho dễ, nhưng không ngờ cậu bé này lại có cái tên khó nghe như vậy.

“Ông cười ta, ta không lý gì đến ông nữa!” Cậu bé tức giận trừng mắt, vứt nhánh cỏ đuôi chồn xuống đất, đi đến cạnh con trâu nước phóng người lên lưng trâu, rồi không cần biết Dương Thu Trì kêu gọi gì, nhất nhất không thèm để ý đến, cưỡi trâu men theo dòng suối nhỏ mà bỏ đi.
(*): Đây là một từ chửi tục, ý chỉ đồ chó thừa thãi, đồ cặn bã của chó – “phân chó”
Chương Năm: Hình phạt đánh đít!
Dương Thu Trì hơi ngượng, lắc đầu nhún vai rồi quay người lại nhìn toàn bộ sơn thôn đang nép mình trong sườn núi. Hắn vốn muốn đi vào thôn hỏi cho ra lẽ, nhân tiện nghỉ ngơi chút vì đi cả nửa ngày cũng mệt mỏi lắm rồi, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, thấy nơi đây chỉ cách huyện thành có năm dặm, đi thẳng vào thành hỏi xem ra tốt hơn. Nghĩ thế, hắn nhắm thẳng huyện thành tiếp tục cất bước.
Đi được một lúc, hắn đã vượt ra khỏi núi, đạp bước trên bình nguyên. Đi thêm một lúc nữa, đã thấy một đoạn tường thành nhô lên từ phía xa xa. Dần dần, chân của hắn đã bước trên đại lộ, người đi lại cũng nhiều hơn, hầu hết đều mặc áo bố thô kệch màu nâu đen, đội mũ rơm, hoặc gánh đồ đạc, hoặc đẩy xe nhỏ, nhiều người còn dẫn theo gia súc đi lại tất bật trên đường.
Đi đến dưới tường thành, hắn thấy có một hộ thành hà, nước sông trong vắt, có một cây phù kiều vắt ngang. Cửa thành được hai binh sĩ mang yêu đao đứng canh, trông rất giống các binh sĩ trong phim cổ trang. Cửa thành có ba chữ đại tự cực lớn: “Quảng Đức huyện”.
“Quảng Đức huyện? Đây là chỗ quái nào thế? Chưa hề nghe nói tới bao giờ, đi vào trước rồi tính!”
Dương Thu Trì bước vào cửa thành. Hai lính canh không hề ngăn cản, thậm chí không thèm nhìn hắn lấy nửa con mắt. họ còn đang bận cười nói điều gì đó với nhau.
Trong thành thập phần náo nhiệt, đường đi không lớn, hai bên lại đầy tiệm tạp phô (cửa hiệu, quầy bán nhỏ), treo đầy các bảng chiêu bài đại loại như “Thụy Phúc Đường”, “Diệu Thủ Đường”, “Lâm Gia Tửu Tứ”…
Dương Thu Trì cảm thấy rất lạ lẫm, vừa ngó đông ngó tây, vừa bước dọc theo đại lộ. Đi chưa được bao xa, hắn đã đến một ngã tư, thấy một tòa kiến trúc vô cùng to lớn và hùng vĩ chiếm trọn một khu đất lớn, bao quanh là tường thành màu đỏ cao ngút trời. Nhìn kỹ hơn, hắn thấy một cửa lớn rộng ba gian (Cửa lớn có ba gian, mỗi gian là một cánh cửa nhỏ hơn, rộng 3.33 m) sơn toàn màu đen. Hai cửa hông khép kín, cửa giữa mở rộng. Trước cửa có một đôi sư tử đá, uy vũ hùng tráng. Hai bên cửa lớn có dựng một cái bản, trên đó có ghi hai chữ “Phóng cáo”. Đây là ý gì? Không hiểu được.
Bên cạnh cửa lớn đó có một hán tử đeo đao đang đứng, xem ra là một vị quan sai. Dương Thu Trì bước đến bên thềm, ôm quyền hướng về hán tử đó, học theo giọng điệu của người xưa hỏi: “Xin hỏi vị đại ca này, nơi đây là địa phương nào?”
Hán tử đó nhìn Dương Thu Trì đánh giá một hồi, khẽ hừ mũi, phát ra hai từ cụt ngủn: “Huyện nha!” rồi quay đầu đi không lý gì hắn nữa.
Huyện nha? Đây là nha môn của Quảng Đức huyện sao? Có ý tứ! Khi nghĩ tới nha môn, đầu Dương Thu Trì liền hiện ngay hình ảnh quan lão gia vỗ án, nha dịch hai bên cùng hét trầm “Uy vũ….” như trong các phim cổ trang. Đi vào coi thử! Thấy đại môn không ngừng có người ra ra vào vào, hán tử mang đao đó cũng không thèm tra xét, xem ra có thể tùy tiện vào xem. Dương Thu Trì thò đầu vào trong đại môn nhìn, thấu trong đó có mấy người đang chỉ chỉ điểm điểm vào một bức bình phong, liền ưỡn ngực giả vờ như không có chuyện gì, cất bước vào trong cửa, thẳng tiến đến bức bình phong đó.
Bức bình phong này đối diện đại môn, dùng gạch đá mài nhẵn mà tạo thành, che phủ từ chân tường đến tận mái ngói. Trong những bố cáo thiếp trên tấm bình phong ấy, có một cái đề những chữ đại loại như: “Xét thấy Điền Gia thôn Điền Đại Tráng cùng Vương Tiểu Sơn mua bán ruộng đất mà không báo thuế, nộp thuế, việc mua bán ruộng đất này là không rõ ràng, đem tiền bỏ túi riêng không bờ không bến. Gian tâm của Kim Vương Tiểu Sơn nổi tiếng khắp nơi, xảo trá trăm điều. Không khai thuế thư, muốn xóa mờ chứng cứ. Không thu sổ tịch, tính bề ẩn giấu chẳng nộp lương. Nếu như đối với kẻ coi thường pháp luật này, người ngồi trên bàn cầm cân nảy mực…” Dương Thu Trì coi cả nửa ngày, đối với những chữ cổ văn bên trên bình phong chỉ có thể hiểu loáng thoáng như vậy. Chúng hầu hết được viết theo dạng phồn thể, lại không diễn giải rõ ràng, nên vô cùng khó hiểu. Có điều, từ dòng tối hậu “Trượng nhất bách” (đánh đòn một trăm trượng) mà xét, thì đây có vẻ là bản phán quyết của lão quan huyện sau quá trình thẩm án. Những chữ cuối cùng còn ghi rõ: “Vĩnh Lạc thất niên cửu nguyệt sơ nhị” (Ngày 2 tháng 9 năm thứ bảy niên hiệu Vĩnh Lạc).
Vĩnh Lạc thất niên? Vĩnh Lạc! Vĩnh Lạc Đại Điển! Chẳng lẻ mình xuyên thời gian trở về Minh triều? Dương Thu Trì có biết về Vĩnh Lạc đại điển. Trong sách giáo khoa môn lịch sử thời trung học, và thầy giáo có giảng rằng Vĩnh Lạc chính là niên hiệu của Minh Thành Tổ Chu Lệ. Vị hoàng đế này chủ trì biên soạn một bộ bách khoa toàn thư cực lớn, lấy niên hiệu của mình làm danh, gọi là “Vĩnh Lạc đại điển”, chính là bộ bách khoa toàn thư hàng đầu trong lịch sử Trung Quốc.

Minh triều, mình quay trở lại Minh triều rồi sao? Dương Thu Trì chợt cảm thấy ong ong trong não, vừa mừng vừa lo. Hắn học lịch sử không giỏi, cố lắm mới nhớ được người khai sáng ra triều đại này là một lão tên là Chu Nguyên Chương. Đó là chuyện về một gã ăn mày mặt muối xấu xa lên làm hoàng đế. Rồi hắn cố nhớ được vụ Trịnh Hòa đi Tây Dương! Trịnh Hòa là một người thuộc Minh triều, là một tên thái giám, nhưng có phải thuộc thời đại của Minh Thành Tổ hay không thì hắn không rõ. Đúng rồi, còn có Cẩm Y Vệ, hai tổ chức đặc vụ “Đông Hán”, “Tây Hán” (Đông Xưởng, Tây Xưởng?) còn những cái khác thì không nhớ nổi nữa.
Đối với Minh Thành Tổ, Dương Thu Trì chỉ có thể nhớ đến chuyện về Vĩnh Lạc Đại Điển, còn những điều khác thì hoàn toàn rỗng không. Thôi rồi, muốn đoán biết tương lai sau này thế nào đều không được nữa rồi! Dương Thu Trì thầm cười khổ, nếu sớm biết sẽ quay về thời đại Minh triều, thì đã sớm học cho giỏi lịch sử liên quan đến Minh triều, như vậy thì có thể dự đoán được chuyện vị lai, cải biến lịch sử rồi! Ai….! Cái mạng khổ cứ hoàn khổ, không thể trách gì ai được!
Lúc này chợt có một tràng tiếng la thảm truyền tới tai, đánh bật mọi suy nghĩ của Dương Thu Trì. Thanh âm này dường như là vọng ra từ sau bức bình phong. Dương Thu Trì di chuyển người sang phía ấy, thấy bên trong có một đại viện đang tập trung rất nhiều người. Phía đông có một nhóm người đứng thành đội ngũ rất trật tự, phía trước có một đại điện, trên đó có bậc tam cấp cao gần nửa người dẫn lên một nguyệt đài dài làm bằng đá. Phía bên trái Nguyệt đài có tám trung niên hán tử đang nằm sấp trên một hàng ghế dài, khố bị cởi ra đến tận đầu gối, hai tay bị trói thúc ké lên tận vai, mông đít đang chịu những cú đánh “bách bách” liên tục. Những hán tử này bị đánh phát ra những tiếng thét như heo bị chọc tiết, khiến đám người xem chung quanh cười ầm cả lên.
Dương Thu Trì nhanh chóng chạy lại coi náo nhiệt. Người đứng quanh xem trò cực hình đó khá đông, Dương Thu Trì chỉ có thể đứng ở xa xa phía sau, nhón chân nhướn cổ lên mới xem được. Trên đại đường lúc bấy giờ đang có hai hàng người giống như nha dịch đang đứng nghiệm, tay người nào cũng cột một sợi dây màu hồng to bản. Ở giữa là một cái lò sưởi, phía trước là bàn xử án. Một lão đầu mặc quan bào ngồi sau bàn xử, râu đã hoa râm. Do trong đại điện thiếu ánh sáng, nên tướng mạo của lão đầu đó khá mơ hồ, nhìn không rõ lắm.
Hán tử kia ăn đòn mấy chục hèo, mông đít tứa máu tươi, không đứng lên nổi. Chờ cho người hành pháp bỏ người này ra, trong đám người đứng xem có hai tên tiểu hóa tử chạy ra cúi xuống kéo khố của hắn từ lên, rồi dìu đến nằm trên một cái phản hè nhau khiêng ra ngoài nha môn.
Một tên nha dịch đi đến nhóm người đang chờ, đánh mỗi người một hèo, hai người phía trước họ trợn trừng mắt, lấy ra một cái tờ giấy tráng, chia nhau tiến lên đại điện giữa Nguyệt đài, cúi người đưa miếng giấy đó cho một người có bộ dạng như thư sinh. Sau đó, họ lui ra hậu đường quỳ xuống, khấu đầu lại ông quan râu bạc một cái, rồi đứng lên lùi lại mấy bước, quay người đi ra khỏi đại đường. Khi đến trên Nguyệt đài, một người quỳ xuống trên khối đá lớn bên trái, người còn lại quỳ xuống khối đá bên phải. Xem ra hai người này là nguyên cáo và bị cáo, đến đây để cùng nhau kiện lên quan.
Dương Thu Trì nghe lão quan râu bạc nói điều gì đó, do khá xa nên hắn không được rõ ràng. Hắn thấy cứ thể không có ý nghĩa gì, bụng lại đang kêu rột rột, nên quyết định không xem nhiệt náo nữa, đi kiếm cái gì đó bỏ vào bụng rồi nói tiếp.
Dương Thu Trì chuyển thân đi ra ngoài, phát hiện phía sau bức bình phong có hình điêu khắc trên gạch, là tượng của một con quái thú. Quái thú này có hình dạng như kỳ lân, há miệng lớn, chung quanh có không ít kim ngân tài bảo, trên có một mặt trời đỏ au. Đây là ý gì thì rõ ràng hắn chẳng hiểu nổi.
Ra khỏi đại môn, hắn quay đầu nhìn lại lần nữa, phát hiện tường hai bên đại môn không bằng phẳng, mà có hai hàng tám chữ to. Tám chữ này dùng trình tự đảo ngược lại, giống như xông thẳng ra đại môn, nghĩ đi nghĩ lại đại ý nó như sau: “Nha môn mở vận mai, có lý không tiền đừng có đến”. Xem ra mọi nha môn đều có cách hành xử y như tám chữ này, quả là có ý tứ!
Rời nha môn đi thẳng về trước, không lâu sau hắn đã thấy một tòa tửu lâu ở xa xa. Tửu lâu có treo một biển lớn, trên đề: “Cao Bằng khách sạn.” Khi hắn vừa đến cổng khách sạn, một tiểu nhị đội mũ quả dưa, vai khoác một cái khăn lông thú màu trắng bước lên nghênh tiếp, cười hì hì hỏi: “Khách quan, ngài đến đả tiêm hay là trụ điếm?”
Dương Thu Trì đã nghe qua câu hỏi này trong phim quá nhiều lần rồi, đả tiêm chính là ăn xong rồi đi, trụ điếm thì ăn xong rồi ngủ lại. Do đó, hắn thuận miệng đáp: “Đương nhiên là trụ điếm!”
“Được!” Điếm tiểu nhị quay đầu hô lớn, “Trụ điếm, một vị khách quan”, sau đó cúi người thưa: “Thỉnh khách quan đi lối này.”
Thái độ quả là không tệ! Dương Thu Trì cất bước định đi vào, đột nhiên nhớ lại bản thân mình không có chút đồng bạc nào thì lấy gì mà ăn mà ở? Mặt hắn chợt đỏ lên, miễn cường cười cười nói: “Không xong rồi, ta quên mang theo tiền.”
(Hết chương 05)


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.