Đọc truyện Nạp Thiếp Ký I – Chương 491: Trợ giúp
Dương Đạp Sơn biết sự tình mà phụ thân quyết rất khó cải biến, cho nên không hỏi nữa. Hồng Lăng giục ngựa chạy lên, nói khẽ với Dương Đạp Sơn: “Sơn nhi, con đừng có theo chúng ta không, coi chừng hơi lãnh đạm với Thành cô nương đó.”
Dương Thu Trì cười cười cũng hướng tới Dương Đạp Sơn gật gật đầu.
Dương Đạp Sơn bấy giờ mới giục ngựa đến bên Thành Tử Cầm. Nàng lúc này đang cúi đầu cưỡi ngựa, chợt nghe tiếng vó vang lên, một người đến bên cạnh, không cần quay đầu lại nàng cũng đoán đó là Dương Đạp Sơn, lòng rất vui, hạ giọng nói: “Ngươi…. huynh không đi cùng cha huynh và lục di sao?”
“Cha và dì sáu bảo ta đến đi cùng với cô!” Dương Đạp Sơn cười hi hi.
Thành Tử Cầm cao hứng xoay mặt qua nhìn hắn hỏi: “Thật không?”
“Thật.”
Thành Tử Cầm ngẫm nghĩ, hạ giọng hỏi: “Đạp Sơn, cha huynh là… cẩm y vệ chỉ huy sứ, huynh… huynh sao trước đây không nói với ta!”
Dương Đạp Sơn nghĩ thầm: “Ta sao nói được, ngay cả ta là ai cũng không biết nữa là…” Nhưng hắn cười đáp: “Cái đó có gì khác biệt sao? Người cô thích là ta, chứ đâu phải cha ta.”
Thành Tử Cầm đỏ mặt, cự nự: “Ai thích huynh!”
Dương Đạp Sơn cưỡi ngựa đi song song với nàng, thở dài nói: “Cô không thích ta thì tốt, lần này cha ta định đưa ta về kinh thành, nói các mẹ của ta rất nhớ ta, bắt ta về, nếu như cô không thích ta, sẽ không tương tư thành bệnh rồi…”
Thành Tử Cầm nghe thế cả kinh, run giọng hỏi: “Vậy…. vậy huynh chừng nào trở về?”
“Không rõ, cũng có thể là hai tháng, có thể là nửa năm, cũng có thể không trở lại nữa.”
Sắc mặt Thành Tử Cầm tức thời ảm đạm, đôi mi dài cụp xuống, đôi mắt phượng mê mang.
Dương Đạp Sơn quay sang nhìn nàng: Sao vậy? Xem mắt cô đỏ rồi, khóc hả?”
“Đâu có!” Thành Tử Cầm hít mũi một cái, không nhìn Dương Đạp Sơn, đạp hai chân vào bụng ngựa “Giá…!” Thúc ngựa chạy đi.
“Chờ ta với!” Dương Đạp Sơn vội thúc ngựa chạy theo.
Hồng Lăng nhìn theo hai người, rồi quay sang Dương Thu Trì hỏi: “Thu Trì ca, chàng cảm thấy Thành cô nương thế nào?”
Dương Thu Trì hơi ngẩn người: “Nữ tử này tuy tướng mạo không tệ, nhưng không phải là tuyệt sắc như thiên tiên, sánh với Sơn nhi của chúng ta thì Sơn nhi có điểm ủy khuất rồi.”
“Trên đời này làm gì có mỹ nữ tuyệt sắc như thiên tiên chứ, thiếp thấy Thành cô nương này có dung mạo không tục chút nào.”
Dương Thu Trì chớp chớp mắt cười nói: “Vậy thì kỳ quái rồi, thiên hạ này không có mỹ nữ tuyệt sắc như thiên tiên thì sao ta lại cưới được nàng?”
Mặt Hồng Lăng ửng đỏ, tuy đã thành thân lâu năm, nhưng khi phu thê nói đùa thì Hồng Lăng vẫn rất dễ cả thẹn, cúi đầu nói: “Đó là phúc khí của Lăng nhi.”
Dương Thu Trì đưa tay qua, vỗ vô lên vài nàng: “Nàng còn nói như vậy nữa. Kỳ thật nam nhân đều như vậy hết, lòng yêu cái đẹp ai mà không có, nếu như có một nữ tử đẹp như nàng vậy đứng cạnh Thành cô nương, Sơn nhi tự nhiên sẽ chọn nữ tử như nàng vậy. Tính cách của Sơn nhi ta biết, hắn thích nữ tử có tính tình nhu hòa, hiền diệu, ta xem cái đó phải trách nàng đấy.”
“Trách thiếp? Thiếp làm sao chứ?” Hồng Lăng kỳ quái hỏi.
“Trong nhà chỉ có nàng là bênh vực Sơn nhi nhất, lúc nhỏ nó nghịch ngợm quậy phá, chúng ta dạy dỗ nó, đều bị nàng bệnh vực, thậm chí còn yêu thương hơn mẹ ruột. Nó suốt ngày cứ theo nàng, do đó sẽ thích nữ tử có tính cách ôn nhu như nàng vậy. Trong khi đó Thành cô nương giống như Nhược Băng,Sơn nhi đau đầu nhất chính là mẹ nó, tối ngày bắt luyện công, cho nên không thích tính cách của mẫu thân chút nào.”
“Vậy thì đã sao?”
Dương Thu Trì yêu thương chỉa vào trán Hồng Lăng: “Ngốc quá, nàng sao toàn hồ đồ những lúc quan trọng vậy?”
“Ý của chàng là cô nương đó có tích cách không thích hợp với Sơn nhi của chúng ta sao?” Hồng Lăng hỏi.
Dương Đạp Sơn gật đầu: “Đúng a!”
Hồng Lăng không cho là phải: “Thiếp thấy chưa chắc, hay là chúng ta đánh cuộc đi?”
Dương Thu Trì cười, khẽ quất một roi ngựa trong không trung, hỏi: “Được a, đánh cuộc thế nào?”
“Trước khi chúng ta về mà Sơn nhi nói với chúng ta muốn cưới Thành cô nương thì tiếp thắng, còn không thì thiếp thua. Chàng mà thua, ngày hôn khánh phải uống liên tục một vò rượu!”
“Ha ha. Được! Nhất ngôn vi định!”
Trở về Khánh Dương phủ, Hàn tri phủ đã sớm mang theo quan viên lớn nhỏ của Khánh Dương phủ, hương thân có công danh ra cửa nha môn chờ đón, rồi thết đãi cả đoàn tại Khánh Dương tửu lâu.
Dương Thu Trì bảo Dương Đạp Sơn mời những người có quan hệ tốt với hắn thường ngày đến cùng vui. Bọn bộ khoái của nha môn, Điền Ny tử cùng mọi người đều có mặt.
Các bàn lớn đầy người, Hàn tri phủ cứ kính rượu bồi tội nói mình không biết Dương Đạp Sơn là đại công tử của cẩm y vệ chỉ huy sứ Trấn quốc công, các quan viên khác cũng đua nhau kính rượu bồi tội với Dương Thu Trì.
Dương Thu Trì trước giờ không quan cách gì, đụng ái đáp nấy. Mọi người thấy đường đường là Trấn quốc công mà bình dị gần gũi như vậy, vừa cảm động vừa thân thiết. Dương Thu Trì còn tự thân cùng mọi người chơi tửu lện, như thế làm tiệc rượu náo nhiệt hơn.
Mọi người bắt đầu cầm ly đi từng bàn kính rượu. Dương Thu Trì hiện giờ dù gì cũng là lành đạo cao cấp của quốc gia, uống rượu còn chú ý văn nhã một chút, còn Dương Đạp Sơn thì không hề, nốc rượu lia lịa, chúng bộ khoái luân lưu mời hắn uống.
Điền ny tử tính tình thoải mái, không cậu nệ tiểu tiết, đột nhiên biết nam nhân mình yêu thầm lại là công tử của đại quan trong triều, biết là không còn hi vọng gì, không khỏi buồn tủi. Dương Đạp Sơn dường như nhận ra, không ngừng gọi Ny tử ny tử, đối ẩm liên tục với nàng, lúc sau thì Điền ny tử cũng bỏ luôn sầu hận đổi buồn làm vui.
Chỉ có mình Thành Tử Cầm là tràn đầy tâm sự, ngời ở xa xa cùng Hầu vĩ và vài bộ khoái chơi trò tửu lệnh. Dương Đạp Sơn cầm chung lại mời nàng uống, thần tình của nàng vẫn nhàn nhạt.
Kết thúc tửu yến, Dương Thu Trì về dịch trạm. Dương Đạp Sơn về nhà gọi Hạnh nhi, rồi cùng đến dịch trạm cũng ở với phụ thân.
Hồng Lăng lần trước nghe Tống Vân Nhi nói về tiểu nha hoàn này, hiện giờ nhìn thấy quả nhiên ngoan ngoãn, cho nên rất thích.
Sáng hôm sau, Dương Đạp Sơn bắt đầu điều tra án của Sô Điệp.
Hắn không mang ai cả, một mình đến lao phòng.
Tin Dương Đạp Sơn là con trai cẩm y vệ chỉ huy sứ như có chân chạy khắp Khánh Dương phủ, nên cả phủ đều biệt bối cảnh hiện giờ của hắn, cho nên ngục tốt gặp hắn đều khiêm cung lễ phép.
Dương Đạp Sơn đến phòng giam của Sô Điệp. Nàng ta đang ngồi xếp bằng nhắm mắt dưỡng thần, khí sắc có vẻ đã tốt hơn, xem ra ngục tốt căn bản không làm khó nàng, ở đây tốt hơn nhiều so với Bạch gia thôn.
“Ngươi đến rồi!” Sô Điệp nghe ra tiếng bước chân của Dương Đạp Sơn, chưa mở mắt đã hỏi.
“Phải a, ta đến rồi.”
“Đến sớm vậy? Mang đến cho ta tinh tốt hay là tin xấu?”
“Cô lợi hại thế, ắt là đoán ra được rồi.” Dương Đạp Sơn ngồi ở ghế ngục tốt chuẩn bị cho hắn, nhãn nhã uống một chén Bích loa xuân.
“Sớm thế nhất định là chưa ăn a? Có cần dùng vài cái bánh bao không?”
“Cô mấy ngày nay đều nhất mực ăn bánh bao, không ngán sao?” Dương Đạp Sơn kinh ngạc hỏi.
Sô Điệp vẫn nhắm mắt: “Ngán? Ta nghĩ từ ngữ ngán đó đại khái chỉ hợp với những kẻ ăn thịt ăn cá hàng ngày, đối với chúng ta có cái đó ăn là tốt lắm rồi, sao lại phải ngán.”
Đang nói, ngục tốt đã mang hai cái bánh bao và một chén cháo đến, dọn ra rồi lén nhìn thần sắc của hai người.
Xem ra Sô Điệp ở đây được quan tâm khá đặc biệt, không có nam nhân nào gây phiền phức cho nàng ta, cho nên ngục tốt sau khi quan sát xong, nhẹ nhàng gọi nàng, đặt bánh bao và cháo ở cửa phòng giam rồi chuẩn bị đi.
“Tiểu ca, Dương đại nhân của các vị chưa ăn sáng, tiểu ca không chuẩn bị cho Dương đại nhân dùng chút gì sao?” Sô Điệp bấy giờ mới mở to đôi mắt đẹp, từ từ nói.
Ngục tốt ấy nghe Dương Đạp Sơn chưa ăn gì, vội quay sang nói: “Không biết Dương đại nhân chưa ăn sáng, tiểu nhân thật đáng chết, lập tức sẽ đi chuẩn bị cho ngài!”
Dương Đạp Sơn đều ở nhà cùng Hạnh nhi ăn sáng, hôm nay định ăn cùng phụ thân, nhưng lúc hắn dậy thì phụ thân chưa dậy, cho nên không ăn, và cũng đói thật rồi, bèn nói: “Không ngại đầu, mọi người có gì thì cứ dọn lên, thật là phiền ngươi quá.”
“Dương đại nhân, ngài khách khí quá rồi. Tiểu nhân sẽ nhanh chóng đi bảo nhà bếp chuẩn bị cho ngài.”
“Không cần, giống như Sô Điệp vậy, lấy cho ta vài cái bánh bao là được.”
“Cái đó sao được a!” Ngục tốt vội vã xua tay.
“Không hề gì, nếu không thì mang mấy cái bánh nhân thịt cũng được.”
Ngục tốt đáp ứng, chuyển người bỏ đi.
Dương Đạp Sơn nhìn Sô Điệp: “Ta đói muốn chết rồi, đưa ta cái bánh bao ăn thử, chờ lát trả lại cho cô.”
Sô Điệp cười, đưa bánh bao lên bẻ làm hai trao cho hắn: “Ăn đi!”
“Ai da! Cô ích kỹ quá, chỉ cho ta có nửa cái a!” Dương Đạp Sơn kêu lên.
“Không phải ta ích kỹ, mà là ta không muốn lãng phí, nhân vì ta biết ngươi ngay cả nửa cái bánh này ăncũng không hết.” Sô Điệp mỉm cười đáp. Dương Đạp Sơn phát hiện nữ tử này mỹ lệ có thể nói là đoạt hồn phách của người ta.
Dương Đạp Sơn đưa nửa cái bánh bao đó đưa lên miệng nhai vài cái, rồi phun ra ngay: “Phì phì, khó ăn quá trời!”
Sô Điệp bật cười, lộ ra hai hàm răng trắng đều nhỏ xinh: “Ta nói rồi, ngươi sẽ lãng phí bửa sáng của ta mà!”
Tên ngục tốt vừa rồi đã trở lại, trên tay cầm một cái bánh nhân thịt và một chén cháo thịt bằm, cười cầu tài nói: “Dương đại nhân, tiểu nhân đến Bằng Cử tửu lâu mua cho ngài vài cái bánh nhân thịt, ngài ăn tạm vậy. Phòng giam có thức ăn quá chán… tiểu nhân sợ ăn hại bao tử của ngài… hắc hắc.”
Dương Đạp Sơn cảm tạ, tiếp lấy đưa một cái bánh cho Sô Điệp: “Nào, ăn cái mới này đi, đừng ăn cái đó nữa.”
Sô Điệp lắc đầu, “Ta không ăn thịt đâu, ngươi ăn đi.”
Dương Đạp Sơn cắn mạnh một cái: “Ài! Ăn bánh nhân thịt ngon quá, cô không thích ăn thịt vậy là tổn thất quá rồi.”
Sô Điệp cười đáp: “Ta lúc đầu ăn mặn, sau khi mẹ ta qua đời một năm thì ta không ăn nữa.”
“Vì sao?”
“Ta ở trước mặt bồ tát lập ra lời thề, lúc đó mẫu thân bệnh nặng, ta nói như mẫu thân khỏe lại ta sẽ ăn chay cả đời. Sau đó mẫu thân khỏe lại thật, từ đó ta không đụng tới miếng thịt nào nữa.”
“Cô thương mẹ lắm phải không?”
“Đúng vậy, nhưng cuối cùng thì mẹ ta cũng bỏ ta mà đi.”
“Bồ tát chỉ phù hộ cho người một lúc, như vậy không tính, cô có thể tiếp tục ăn thịt rồi!”
“Không thể đâu, sao có thể nói điều kiện với bồ tát được?”
Dương Đạp Sơn đột nhiên nhớ tới lời Khương Thiên linh, hỏi: “Vậy sao ta nghe trước đây cô ở Bạch gia thôn thích ăn thịt thỏ hoang lắm?”
“Là nam nhân và ba đứa con của ta ăn, lúc còn sống cha con chúng đều thích ăn món đó.” Sô Điệp đáp.
“Cô không ăn à?” Dương Đạp Sơn hỏi.
“Ta không đụng vào miếng nào.”
“Ạ?” Dương Đạp Sơn như nhớ tới điều gì đó, móc từ trong người ra một cái yếm bụng chưa thêu xong đưa cho Sô Điệp.
Sô Điệp tiếp lấy: “Của Khúc Mân thêu, chỉ có điều mãi không thêu xong.”
“Cô thấy qua rồi?”
“Đúng a, ta đã thấy qua, chỉ có điều lúc ta thấy thì nàng ta đang thêu dỡ cái hoa hồng kia.”
“Vậy ngươi coi xem đồ án này có ý nghĩa gì?”
“Có ý nghĩa gì chứ? Nàng ấy đang oán hận ta đó!” Sô Điệp điềm đạp hồi đáp.
“Vậy sao? Vì sao lại như thế?” Dương Đạp Sơn không hiểu.
“Nàng ta là đóa hoa hồng đang tàn tạ, còn ta là con bướm mỹ lệ đó. Ta còn cưỡi trên đầu của nàng ấy, chẳng phải sao?” Sô Điệp nói.
Dương Đạp Sơn lấy cái yếm lại nhìn kỹ, phát hiện đúng như lời Sô Điệp nói, thế mà sao hắn một mực không nhìn ra chứ?
“Ta muốn hỏi cô một vấn đề.” Dương Đạp Sơn bảo.
“Có phải ngươi muốn hỏi vì sao ta muốn lấy oán trả ơn phải không? Vì sao ta lại có quan hệ bất chính với chồng của nữ nhân đối xử tốt với ta, phải không?”
“Cô dường như cái gì cũng biết vậy, giống như lần trước cô bảo ta đi tìm Phượng nhi, dường như là từ miệng Phượng nhi là có thể biết hung thủ là ai. Hơn nữa, cô trước đó thậm chí đã biết hung thủ là ai rồi, đúng không nào, sao cô lại biết hung thủ là Khương Thiên Linh chứ?” Dương Đạp Sơn cảm thấy còn có nhiều vấn đề chưa rõ, cho nên muốn hỏi hết vì cớ làm sao.
Sô Điệp thở dài: “Phượng nhi vì có vóc dáng giống ta nên mẫu thân của nó từ từ không thương nữa. Và cũng chính vì nguyên nhân đó, phụ thân cháu càng ngày càng thương cháu hơn. Mẹ của cháu nó chết, ta thật không biết đó là hành vi của Khương Thiên Linh, ta đã đoán sai, ta nghĩ đó là Bạch Càn.”
“Phượng nhi rất giống cô, cái này chúng ta phát hiện rồi. Nhưng mà, cái này có liên quan gì đến việc cô bé biết ai là hung thủ?”
“Bé thường rất thích bám theo phụ thân, nhân vì mẫu thân của bé từ nhỏ chuyện gì cũng đánh mắng hết. Như vậy ta đón, chỗ nào có Bạch Càn thì có Phượng nhị, nếu như Bạch Càn giết vợ, thì Phượng nhi đại khái sẽ biết.”
“Cô suy đoán như vậy sao? Chẳng phải chứ!” Dương Đạp Sơn không ngờ Sô Điệp chỉ là đoán thôi, vô cùng bất ngờ.
“Còn về Bạch Càn, ta chẳng có cái gì với y cả. Ta nhất mực tình nguyện đối tốt với ta, biết tướng công và ba hài tử của ta thích ăn thịt thỏ, do đó mỗi lần đi săn về đều cho nhà ta một hai con.”
“Vậy cô sao biết Khúc Mân oán hận cô?”
“Trực giác của nữ nhân, nàng ta thân mật với ta, nhưng ánh mắt không biết lừa người. Ta cũng biết thế, chỉ có điều không ngờ cuối cùng ta vẫn hại chết nàng ấy.”
“Cô hại chết nàng ta? Ý gì vậy?”
“Không nói nữa, dù sao thì chết cũng đã chết rồi, ta không muốn nói gì nữa. Chỉ cảm thấy thật đối không phải với nàng ta, trong lòng ta vốn đã coi nàng ta như tỷ muội thật sự rồi.”
Đột nhiên ở ngoài có người lớn tiếng: “Dương quốc công Dương chỉ huy sứ đến…!”
Dương Đạp Sơn vui mừng gọi: “Cha!” rồi chuyển thân ra cửa phòng, thấy Dương Thu Trì và Hồng Lăng được Hàn tri phủ đi cùng tiến vào.
Dương Đạp Sơn vôi nghênh đón: “Cha, cha sao lại đến đây, phòng giam âm ám dơ dày, cha nên cùng Hồng di ở đó chờ con chứ.”
Dương Thu Trì hạ giọng nói: “Hài tử, sự tình ở kinh thành khẩn cấp, chúng ta không thể chần chờ, phải cố nhanh chóng trở về. Vừa rồi vi phụ vừa hỏi Hàn tri phủ và Thành cô nương hiểu sơ qua án này, đặc biệt đến giúp con xem có manh mối nào không. Nếu như có thể phá thì phá nhanh, còn trong thời gian ngắn mà không thể phá được thì chỉ đành giao cho bộ khoái khác mà thôi.”
Dương Đạp Sơn nghe thế mừng rỡ, thì ra là phụ thân đến giúp hắn phá án, vội hạ giọng thưa: “Đa tạ phụ thân!”
Dương Đạp Sơn cười nói: “Dì sáu của con nói muốn đến cho con ăn kìa, sợ con đói chết.”
Dương Đạp Sơn vội nói với Hồng Lăng: “Đa tạ lục di quan tâm.”
Hồng Lăng hiền từ yêu thương nhìn Dương Đạp Sơn: “Còn nói mấy lời khách sáo đó làm gì, đến đây, dì sau mang cho con chút điểm tâm, đói lắm rồi phải không?”
Dương Đạp Sơn vội bưuớc tới tiếp lấy thức ăn từ tay Hồng Lăng, ăn lấy ăn để.
Mọi người vừa nói vừa chậm bước tiến vào lao phòng.
Hồng Lăng mặc một bộ áo quần được may cắt rất khéo, tuy đã quá ba mươi mà vũ mị còn hơn xưa, khiến cho Sô Điệp nhìn mà ngẩn cả ra, tự hỏi trên đời này sao còn có người xinh đẹp như vậy.
Hàn tri phủ vội bước tới trước mặt Sô Điệp: “Còn không mau quỳ lạy Dương quốc công?”
Dương Thu Trì ngước mắt nhìn, thấy Sô Điệp trong phòng giam tuy mặc y phục của phạm nhân thô lậu nhưng dung nhan kinh diễm động lòng người, đặc biệt là đôi mắt rất giống với vẻ hồ mị mà hắn nghe tả.
Sô Điệp vội quỳ dập đầu: “Phạm phụ Sô Điệp khấu kiến quốc công đại lão gia.”
Hàn tri phủ cười cầu tài: “Dương đại nhân, chúng ta hay là ra ngoài đi, ở đây không tiện đâu a!”
“Không sao đâu, ông cứ lo chuyện của ông, bổn quan và sơn nhi cùng Hồng di của nó ở đây một chút, bổn quan còn có lời muốn hỏi nữ tử này.” Dương Thu Trì bảo.
Hàn tri phủ thấy Dương Thu Trì nói thế, cũng không tiện nói gì thêm, chỉ còn biết cáo từ lui ra, ra lệnh cho ngục tốt dọn bàn ghế rót trò dọn điểm tâm.
Sô Điệp thấy dáng vẻ bộ dạng Dương Thu trì như vậy, đồng thời ngay cả tri phủ đại lão gia cũng nịnh hót liên hồi, biết là một đại quansiêu cấp, không dám nói loạn, chỉ biết cúi đầu quỳ ở đó.
Dương Thu Trì, Hồng Lăng, Dương Đạp Sơm ngồi xuống. Dương Thu Trì hỏi Sô Điệp: “Người nhà của cô lúc còn sống có bệnh tật gì không?”
“Hồi bẩm đại lão gia, tướng công của phạm phụ lúc còn sống thân thể không khỏe lắm, hơi có bệnh, thường bị các chứng phong hàn, do đó việc trong nhà phần lớn là do tôi làm. Ba hài tử thì rất khỏe, chưa từng bệnh nặng gì.”
“Những nam nhân trước của người thì sao? Sức khỏe của bọn họ thế nào?”
Sô Điệp ngẫm nghĩ: “Cũng không tệ, không có bệnh chứng gì đặc biệt.”
“Vậy trước khi họ chết có chứng trạng gì hay không?” Dương Thu Trì tiếp tục hỏi.
Hồi ức lại dĩ vãng thống khổ, thần tình Sô Điệp buồn thảm, ngẫm nghĩ hồi lầu mới từ từ đáp: “Tôi trước sau lấy đến ba nam nhân, đều một hai năm là chết, trước khi chết đều trên ói dưới đi tả lăn lộn khốn khổ, chịu được hai ngày thì chết. Mới đầu tôi còn cho là bất ngờ, sao đó cứ lấy một người là chết một người, cuối cùng còn chết luôn cả ba đứa con…”
Sô Điệp bật khóc.
Dương Thu Trì không gấp, tĩnh lặng chờ nàng ta bình tĩnh lại, bấy giờ mới hỏi: “Trước khi ba người đó chết thì ăn cái gì?”
Sô Điệp đáp: “Nam nhân cuối cùng của tôi trước khi chết thì ăn sủi cảo thịt thỏ, hai người trước… thời gian quá lâu tôi không nhớ rõ nữa.”
“Vậy ngươi đem quá trình lần này nói ra xem.”
“Ngày đó, thôn lý chánh Bạch Càn tặng cho nhà tôi con thỏ, tôi lấy một phần quay, còn lại thì băm làm sủi cảo nhân thịt thỏ cho mấy cha con ăn. Bình thường mấy cha con đều rất thích ăn món này. Do tôi nhất mực ăn chay, không ăn cùng mọi người, ăn xong đến tối thì tướng công và ba con tôi đều kêu đau bụng, sau đó sắc mặt tái nhợt, ói mửa tiêu chảy lăn lộn trên đất. Tôi vội chạy đi vào thôn gọi lang trung, chờ tôi thỉnh lang trung về thì bốn người đã co rút thần trí bất minh rồi. Đến trời sáng thì đều trước sau chết đi…” Sô Điệp nói xong nước mắt rơi lả chã.
“Lang trung nói gì?” Dương Thu Trì hỏi.
“Lang trung nói ăn cái gì không sạch sẽ đó mới bị như vậy, nhưng sau đó tộc trưởng nói tôi hạ độc, nhân vì một mình tôi không có gì, trong khi cả nhà cùng tôi ăn cơm mà chết hết.”
“Ngươi nghĩ kỹ coi, hai nam nhân trước có phải là ăn thịt thỏ xong rồi chết không?”
Sô Điệp cúi đầu suy nghĩ một lúc, lắc đầu khẳng định: “Không đâu, làm thịt thỏ là cách mà tôi học được từ khi đến Bạch gia thôn, trước kia nhà tôi chưa hề ăn thịt thỏ.”
“Vậy các ngươi bình thường ăn cái gì là chính?”
“Gạo, mì sợi, năm hết tết đến thì ăn sủi cảo nhân thịt.”
“Ngươi dùng bột gì bao sủi cảo? Có phải là bột gạo chua (**) không?” Dương Thu Trì nhíu tít mày hỏi.
“Đúng a, thì ra là đại nhân đối với chuyện nhà nông cũng rành.”
Dương Thu Trì bảo: “Ngươi nói coi các người làm bột gạo chua thế nào?”
Sô Điệp nói kỹ quá trình chế tác, cuối cùng nghi hoặc hỏi: “Có vấn đề gì sao? Mẹ tôi từ nhỏ đã dạy tôi làm thế, chúng tôi ăn nhiều năm rồi đâu có gì đâu a.”
Dương Thu Trì lắc đầu, thở dài than: “Chỉ sợ đây là cái giá của sự vô tri!” Đứng thẳng người dậy, nói: “Được rồi, Sơn nhi, chúng ta phải đến Bạch gia thôn một lần nữa, đi thôi!”
Ra khỏi lao phòng, Dương Đạp Sơn hỏi Dương Thu Trì: “Phụ thân, vì sao còn phải đến Bạch gia thôn?”
“Xem ra sủi cảo thịt thỏ đó có vấn đề, có khả năng là trúng độc thực vật rồi.”
Dương Đạp Sơn vỗ đầu: “Đúng a, sao con lại không nghĩ ra chứ.”
Hồng Lăng cố ý chọc hắn: “Con đó, thấy Sô Điệp cô nương người ta thì mắt sáng rực lên, làm gì nghĩ tới chuyện nào khác nữa.”
“Con làm gì có! Con chỉ thích Thành…., hắc hắc, dù gì con cũng đâu có thích Sô Điệp cô nương.”
“Được rồi! Lục di chọc con đó!” Dương Thu Trì cười.
Tùy tòng chuẩn bị ngựa xong xuôi, ba người lên ngựa dẫn theo Thành Tử Cầm và bộ khoái rầm rộ trở lại Bạch gia thôn, tìm tộc trưởng nói rõ ý định. Tộc trưởng vội dẫn Dương Thu Trì cùng mọi người tới nhà Sô Điệp.
Chồng con của Sô Điệp chết rồi, nhà bị khóa từ ngoài, sau khi mở cửa phòng, trong nhà ăn còn lại số sủi cảo chưa ăn hết.
Dương Thu Trì tự thân kiểm nghiệm, phát hiện trong lớp bột bao sủi cảo đó phát hiện loại can khuẩn màu vàng thuộc nhóm độc tố A trên bột chua làm bánh.
Loại tế khuẩn này từ khi Dương Đạp Sơn theo phụ thân Dương Thu Trì học pháp y chưa hề gặp qua, nên không hiểu.
Dương Thu Trì giải thích: “Giết chết chồng và 3 con của Sô Điệp là một loại độc thường thấy trên bột làm sủi cảo. Vừa rồi Sô Điệp nói quá trình chế tác sủi cảo, ta đã hoài nghi ngay. Loại án này trước đây ta chỉ gặp qua hai lần, rất hiếm có, thường phát sinh ở những trường hợp duy nhất và chết gần cả nhà, do đó bị hoài nghi là án đầu độc giết người. Kỳ thật đây là loại trúng độc do vi khuẩn. Sô Điệp và những người như nàng ta còn chưa hiểu biết gì về việc sử dụng tế khuẩn để giết người, do đó xem ra đây là một chuyện tình cờ ngoài ý muốn.”
“Trúng độc vi khuẩn? Loại vi khuẩn này sao lại chạy vào trong bột làm bánh chứ?” Dương Đạp Sơn hỏi.
“Người Tây Bắc chế sủi cảo thường dùng gạo nếp, gạo thường hay là các loại gạo thóc khác ngâm nước mấy ngày thậm chí đến hai tháng, sau đó rửa sạch, nghiền mịn, lọc, lắng, phơi khô thành bột, sau đó làm thành sủi cảo. Quá trình chế tác này bản thân chẳng có vấn đề gì, nhưng do hoàn cảnh tự nhiên có phân bố vi khuẩn đơn bào có độc tố, và loại bột gạo chua này rất thích hợp cho quá trình sinh trưởng của chúng, nên rất dễ bị nhiễm khuẩn. Trong điều kiện nhiệt độ thích hợp, nó có khả năng sản sinh một lượng lớn nấm mốc chua và độc tố màu vàng có độc tính cực mạnh, là chất kịch độc khi người ăn vào.”
Dương Đạp Sơn hỏi: “Bột và sủi cảo chẳng phải là dùng nước nóng hấp nấu hay sao, phụ thân, cha không phải nói là nhiệt độ cao có thể tiêu độc hay sao?”
Dương Thu Trì đáp: “Đây không phải là tế khuẩn thường, không cần biết là chiên, hấp hay nấu đều không diệt được loại độc tố này. Một khi trúng độc thì tỷ lệ tử vong cực cao, trước hết xuất hiện triệu chứng đường ruột, tối đa hai ngày là dẫn đến sự tổn hại nội tạng và khí quan, cuối cùng khiến người ta hôn mê do suy gan, trúng độc hoặc là suy kiệt công năng của thận mà chết.”
Dương Đạp Sơn lè lưỡi: “Vậy sau này con không dám ăn sủi cảo nữa!”
“Đừng vì chuyện nhỏ mà bỏ việc lớn.” Dương Thu Trì cười nói, “Nhưng mà chúng ta tốt nhất đừng dùng bột gạo lên men để làm sủi cảo nữa thì được.”
“Nếu như bột làm bánh có độc, vậy sao nhiều lão bá tánh ăn quá vậy?”
“Do đó ta mới nói là cái giá của sự vô tri, do vi khuẩn kịch độc ôm nhiễm phát sinh theo tính ngẫu nhiên, tỷ lệ khác thấp, nên không bị người ta chú ý lắm. Hơn nữa một khi trúng độc thì cả nhà chết sạch, cho nên đều bị người ta nhận định lầm là có người cố ý đầu độc.”
Dương Đạp Sơn nói: “Vậy chúng ta nhắc người dân trong Bạch gia thôn để chú ý sau này chế tác bột gạo…”
Dương Thu Trì lắc đầu: “Có chú ý cũng khó đề phòng, tốt nhất là đừng ăn món ăn làm từ bột gạo ngâm lên men lên mốc. Được rồi, chúng ta đi khai quan nghiệm thi, coi xem nguyên nhân có phù hợp tình huống cha nói không, nếu đúng thì coi như án này phá xong rồi.”
Mọi người đến phần mộ của chồng và 3 con của Sô Điệp, khai quan nghiệm thi.
Lần này không có thôn dân vây quanh nữa, toàn bộ Bạch gia thôn chìm trong khí phần trầm muộn, không còn cảnh nam làm nữ vẫy tay, hài đồng chạy chơi nữa. Trong vòng mấy ngày mà chết sáu người, người của nha môn ngày nào cũng tới, dân chúng từ sự hiếu kỳ lúc đầu chuyển sang sợ hãi rồi chai lì, chỉ có mấy nhà còn làm việc, ai cũng không đi xem quan binh đến mộ phần, dường như chẳng có liên quan gì đến họ vậy.
Sắc trời trầm trầm như chuẩn bị mưa, Dương Đạp Sơn nghĩ tới thi thể của Khúc Mân, không khỏi buồn buồn. Mở quan tài ra, Dương Thu Trì tự thân kiểm nghiệm, quát hiện nguyên nhân tử vong phù hợp với phán đoán.
Dương Đạp Sơn lại nói: “Phụ thân, Sô Điệp trước sau chết ba đời chồng, theo lời cô ta kể thì triệu chứng tương tự nhau, chẳng lẽ đều chết vì độc tố bột chua hay sao?”
“Xem ra là thế, hai nam nhân trước đã chết nhiều năm, thi thể đã hóa xương trắng rồi, không thể kiểm nghiệm, chỉ từ đó đoán là chết do loại vi khuẩn kịch độc này. Từ cách chế sủi cảo của Sô Điệp kể ở lao phòng, cho thấy cách làm này do mẹ ả dạy, làm nhiều lần mà chưa xảy ra chuyện gì, xem ra đây là do trúng độc ngẫu nhiên. Có người cả đời ăn mà không bị gì, có người ăn một lần là chết. Cũng có thể cách làm của ả có vấn đề chỗ nào đó, tỷ lệ có độc cao hơn người khác. Có thể ả cũng bầm thịt làm sủi cảo cho hai nam nhân trước ăn khiến họ trúng độc chết, còn ả thì vì ăn chay, nên đều may mắn thoát khỏi ba lần này.”
Dương Đạp Sơn thở dài: “Tuy nàng ta thoát tử thần, nhưng trở thành tử thần, nhất định là không sống yên ổn từ đây, cái này cũng coi như nhân quả báo ứng.”
Dương Thu Trì lắc đầu: “Không đúng, chuyện này với ả chẳng liên quan gì, là tập quán ẩm thực ngu muội tạo ra, là chuyện phát sinh mang tính ngẫu nhiên, cho nên ả không phải chịu trách nhiệm gì. Trở về rồi các con nói với Hàn tri phủ thả ả đi.”
“Dạ! Phụ thân.” Dương Đạp Sơn khom người đáp.
Trở về Khánh Dương phủ, Dương Đạp Sơn đem án nói cho Thành Tử Cầm nghe, hai người đến hồi báo với Hàn tri phủ.
Hàn tri phủ hiện giờ đã biết Dương Đạp Sơn là đại công tử của Đại minh tam triều nguyên lão trấn quốc công Dương Thu Trì, cho dù là Dương Đạp Sơn không nói ra chân tướng của án, nói thả là ông ta thả ngay, không thắc mắc gì. Húông chi Dương Đạp SƠn nói có đầu của đuôi, tuy Hàn tri phủ nghe như đi trong mây mù, nhưng cũng gật đầu lia lịa khen hắn phá án như thần, liền tuyên Sô Điệp vô tội thả ra.
Dương Đạp Sơn đến lao phòng dẫn Sô Điệp ra, đem chân tướng báo cho nàng biết. Sô Điệp không ngờ sủi cảo mình làm lại giết cả 3 người chồng và 3 đứa con của mình, ngồi phệch xuống đất thất thanh khóc òa.
Trước khi thả, Dương Đạp Sơn phái người thông tri cho Bạch Lạc Phong ở Bạch gia thôn. Bạch Lạc Phong đã sớm chờ ở cửa nha môn, thấy tình cảnh này vội đến đỡ Sô Điệp.
Sô Điệp lệ ứa đầy mắt, quỳ xuống lạy Dương Đạp Sơn ba cái, cảm tạ hắn gương sáng treo cao phá được án này đem lại sự thanh bạch cho nàng.
Dương Đạp Sơn cười khổ, án này mà phụ thân Dương Thu Trì không ra tay thì hắn chẳng biết mò tới năm nào.
Đưa mắt tiễn họ đi xong, Dương Đạp Sơn quay lại dịch trạm, báo cáo với phụ thân là án mạng ở Bạch gia thôn đã điều tra xét xử xong xuôi.
Chú thích:
(*) Sủi cảo: còn gọi là bánh Chẻo hay là “jiao zi” (giảo tử – bánh xếp miếng) trùng âm với “jiao zii” (giao tử) là dành riêng cho giờ giao thừa), được xem là một phần trong nền văn hóa Trung Hoa. Sủi cảo khác há cảo ở chỗ nhân há cảo ngoài thịt, tôm, nấm hương mà còn có thêm cả củ sắn, đậu xanh, khoai môn, nấm mèo, cà rốt, bún tàu, đường. Khi ăn vị của há cảo đặc sắc hơn sủi cảo do có nhiều hương vị hơn, hình dạng của sủi cảo và há cảo cũng khác nhau.
Với người dân Trung Quốc, sủi cảo là một món ăn truyền thống rất được ưa chuộng, đặc biệt là vào ngày tết. Đây là món ăn biểu tượng sự may mắn và đoàn tụ của gia đình. Thành phần chính để chế biến Sủi cảo là sự kết hợp của hai loại gạo: gạo trắng và gạo nếp. Theo duy tâm, người Trung Quốc cho rằng hai loại gạo này sẽ mang lại nhiều điều may mắn trong cuộc sống. Đặc biệt giới kinh doanh thì càng tin hơn khi cho rằng ăn loại bánh kết hợp hai loại gạo này sẽ giúp cho họ “cầu được ước thấy” và cơ hội phát triển sự nghiệp sẽ rộng mở hơn.
Nhân sủi cảo có loại có thịt, có loại chỉ có rau, nhưng thường là thịt và rau trộn lẫn với nhau. Trong quá trình làm nhân, cầu kỳ nhất là băm thịt và rau. Cần chuẩn bị đầy đủ thịt, rau và các loại gia giảm, cho lên thớt băm. Khi băm nhân, dao và thớt chạm vào nhau phát ra tiếng rất rắn chắc, bởi vì luôn thay đổi dao to nhỏ khác nhau, khiến tiếng băm tiết tấu thay đổi lúc mạnh lúc nhẹ theo nhịp điệu, như một bản nhạc trầm bổng, truyền sang hàng xóm. Mọi người đều muốn tiếng băm của nhà mình vang vọng nhất, kéo dài nhất. Rau trộn với thịt làm nhân, trong tiếng Trung Quốc đồng âm với từ “có của”. Băm nhân tiếng to mà thời gian lại dài, có nghĩa là “lâu dài và dư thừa”. Băm nhân thời gian càng dài tức là gói sủi cảo càng nhiều, tức là cuộc sống đầm ấm, khá giả.
Sau khi làm xong nhân, gói sủi cảo theo hình thù gì cũng rất cầu kỳ. Phần lớn các khu vực đều gói hình bán nguyệt kiểu truyền thống. Gói theo hình này thì khi gói gấp đôi vỏ bánh hình tròn, dùng ngón tay cái và ngón trỏ của tay phải viền theo diềm bán nguyệt là được, phải viền cho đều gọi là “viền phúc”. Có gia đình kéo hai đầu của hình bán nguyệt nối liền với nhau như nén bạc, bầy trân nắp, tượng trưng cho tiền của để khắp mọi nơi, vàng bạc đầy nhà. Ở nông thôn, ngoài vỏ sủi cảo bà con in hình bông lúa mỳ, chẳng khác nào những bông lúa mỳ trĩu hạt, với ngụ ý là sang năm mới ngũ cốc được mùa.
Gói xong, bắt đầu nấu. Đợi khi nước trong nồi sôi, bỏ sủi cảo vào nồi có một cảm giác như bỏ những sản phẩm nghệ thuật vào nồi nước trong vắt. Sau đó, lấy vợt quấy đến đáy nồi để cho sủi cảo không bị dính nồi. Trong khi nấu, thường là phải cho thêm 3 lần nước lạnh, vì trong tiếng Trung, từ này đồng âm với “phúc đi rồi lại đến”. Khoảng 10-20 phút sau là xong.
Thực ra thì lúc đầu (vào thời Hán), thức ăn chế biến từ bột mì rất phổ biến. Các món mì ra đời rất nhiều vào thời kỳ này, Sủi cảo cũng được chế biến thời kỳ này, tiền thân của Sủi cảo là Vằn thắn, lấy bột mì gói nhân thịt làm thành hình tròn đem luộc. Về sau có người thay đổi hình tròn Vằn thắn thành hình mặt trăng non, gọi là phấn giảo, người miền Bắc gọi thành giao tử tức Sủi cảo. Nói chung, đây là loại thức ăn vỏ bột mỳ gói nhân rồi nấu ăn. Trước kia, sủi cảo chủ yếu là món ăn trong ngày tết, nhất là trong đêm giao thừa. Sau này, nó mới trở thành món ăn thường nhật của người dân, trước thì miền bắc Trung Quốc dùng bột mì để bao ngoài, miền nam TQ dùng bột gạo để làm. Nhưng sau do bột gạo dễ làm và đẹp hơn nên được dùng nhiều. Một điều nguy hiểm là đôi khi bột này bị nhiễm khuẫn gây chết người.
Khi trúng độc này, gan, thận não sẽ bị tổn hại, hệ thống thần kinh bị tổn thương, ói mửa ra màu giống như cà phê. Năng hơn thì tiểu ra huyết, gan to, xuất huyết dưới da, co giật chân tay, hôn mê, mê sảng .
Khi trúng độc nên ngừng ăn ngay món ăn khả nghi, dùng tay móc cổ ói, tiến hành súc ruột nhanh chóng bài trừ độc vật, đưa ngay tới bệnh viện.
(ND tổng hợp)
(**) Diếu mễ diện – Bột gạo lên men (chua): Gạo ngâm lâu (mười ngày trở lên), để cho lên men rồi mới xay làm thành bột, có vị chua. Bột gạo lên men thường được sử dụng ở Quảng Đông, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam hoặc các vùng nông thôn phía bắc Trung Quốc. Trong dân gian, người ta thường dùng các loại lương thực phụ (bắp, khoai, sắn) ngâm nước cho đến khi lên men tạo thành bột lên men, rồi dùng để làm thức ăn (Người Tráng gọi là Điếu ba, người Miêu gọi là Thang ba). Do các loại này rất dễ bị nhiễm loại vi khuẩn đơn bào có tên là thường gọi là Diếu mễ diện hoàng can khẩn tạo ra chất kịch độc, ở phía bắc Trung quốc gọi là trúng độc xú mễ diện (bột gạo thối).
Vi khuẩn Diếu mễ diện hoàng can có tên là Pdomonas cocovenenans, thuộc ngành Proteobacteria, lớp Gamma Proteobacteria, chi Pdomonadales. Trong loài vi khuẩn Pdomonas có những vi khuẩn gây bệnh như Pdomonas aeruginosa – là vi khuẩn làm yếu hệ thống miễn nhiễm ở người, nhiễm trùng hệ thống hô hấp, viêm phổi, nhiễm trùng đường tiểu, nhiễm trùng máu. Pdomonas kháng cự lại được nhiều thuốc kháng sinh làm cho việc chữa trị bệnh bằng thuốc kháng sinh trở lên khó khăn hơn.