Đọc truyện Nạn Nhân Thứ Tư – Chương 25
Rizzoli ngồi thẳng trên giường bệnh xem ti vi. Bông băng quấn khắp tay cô trông như găng tay võ sĩ. Một bên đầu của cô đã bị cạo trọc để khâu vết rách trên đỉnh đầu. Cô tức giận vì chiếc điều khiển từ xa nên không chú ý là Moore đang đứng ở ngưỡng cửa. Rồi anh gõ cửa. Khi cô quay lại nhìn, anh thoáng thấy một người phụ nữ bị tổn thương. Rồi cô lại trở về tư thế phòng thủ như mọi khi, lại là Rizzoli khi xưa. Ánh mắt cô lộ vẻ lo lắng khi anh vào phòng, lấy ghế ngồi cạnh giường.
Ti vi đang chiếu một bộ phim dài tập ồn ào.
– Anh có thể tắt chương trình rác rưởi đó không? – Cô tức giận nói và chỉ cái điều khiển từ xa bằng bàn tay quấn chặt bông băng – Tôi không ấn nút được. Chắc là họ muốn tôi dùng cái mũi của tôi hay là thứ chết tiệt nào đó.
Anh cầm điều khiển, tắt ti vi.
– Cảm ơn – cô thều thào, nhăn nhó vì ba chiếc xương sườn đã bị gãy.
Sau khi tắt ti vi, họ im lặng rất lâu. Bên ngoài cánh cửa để mở, họ nghe thấy người ta gọi bác sỹ và tiếng xe đẩy lạo xạo trên sàn.
– Ở đây họ chăm sóc cô tốt chứ? – Anh hỏi.
– Ổn cả nếu xét đây là một bệnh viện tỉnh lẻ. Có lẽ tốt hơn khi ở thành phố.
Trong khi cả Catherine và Hoyt đưực đưa đến Trung tâm y tế Hành Hương ở Boston vì vết thương của họ nặng hơn thì Rizzoli được xe cứu thương chở đến bệnh viện nhỏ ở thị trấn này. Mặc dù nó cách xa thành phố, nhưng toàn bộ thám tử ở Bộ phận Điều tra Án mạng Boston đã hành quân đến thăm Rizzoli.
Và ai cũng mang theo hoa. Bó hoa hồng của Moore gần như bị chìm trong những bó hoa to để trên bàn và sàn nhà.
– Ồ – anh nói – Cô có nhiều người hâm mộ quá!
– Đúng vậy. Anh tin được không? Cả thám tử Crowe cũng gửi hoa cho tôi. Những bông huệ tây ở đó đó. Tôi nghĩ anh ta đang cố nói với tôi điều gì đó. Trông nó giống một đám tang không? Anh có thấy những bông lan đó không? Frost mua đấy. Khốn kiếp, lẽ ra tôi cũng nên gửi hoa cho anh ta vì đã cứu được cái mông của tôi.
Chính Frost đã gọi điện nhờ cảnh sát liên bang giúp đỡ. Khi Rizzoli không trả lời tin nhắn, Frost đã liên lạc với ông Dean Hobbs ở cửa hàng FoodMart để lần ra nơi ở của cô. Anh được cho hay cô đang ở trang trại Sturdee để gặp một phụ nữ tóc đen.
Rizzoli tiếp tục kể câu chuyện về những bó hoa.
– Bình hoa to với những bông hoa nhiệt đới đó là của gia đình Elena Ortiz.
Hoa cẩm chướng là của Marquette, kẻ bần tiện. Còn vợ của Sleeper mang đến một cây hoa dâm bụt.
Moore lắc đầu kinh ngạc.
– Cô nhớ hết sao?
– Đúng, ồ, chưa từng có ai gửi hoa cho tôi. Vì vậy chắc chắn tôi sẽ nhớ mãi ngày hôm nay.
Anh lại thoáng thấy hình ảnh một phụ nữ dễ bị tổn thương sau khuôn mặt dũng cảm của Rizzoli. Và anh còn thấy một điều mà trước đây anh không để ý. Đó là ánh sáng trong mắt cô. Cô bị thâm tím mình mẩy, bị quấn bông băng, đầu lộ ra một mảng trụi tóc xấu xí. Nhưng khi người khác không để ý đến những khiếm khuyết trên mặt cô, không chú ý đến cái cằm vuông bạnh ra và cái đầu vuông vức thì người ta sẽ thấy Rizzoli có cặp mắt rất đẹp.
– Tôi vừa nói chuyện với Frost. Anh ấy đang ở bệnh viện Hành Hương – Moore nói – Anh ấy nói tên Warren Hoyt sắp tỉnh lại.
Cô không nói gì.
– Sáng nay họ đã bỏ ống thở khỏi miệng Hoyt. Hắn vẫn bị luồn một ống khác trong ngực vì phổi đã thủng. Nhưng hắn sẽ tự thở được.
– Hắn tỉnh táo chứ?
– Ừ.
– Nói chuyện được chứ?
– Không nói với chúng ta, mà với luật sư của hắn.
– Lạy Chúa, nếu tôi có cơ hội kết liễu tên chó đẻ đó…
– Cô sẽ không làm vậy.
– Anh nghĩ vậy sao?
– Tôi nghĩ cô là một cảnh sát tốt nên sẽ không tái phạm lỗi đó.
Cô nhìn thẳng vào mắt anh.
– Anh sẽ không bao giờ biết được.
Và tôi cũng vậy. Chúng ta sẽ không bao giờ biết cho đến khi cơ hội đó ở ngay trước mắt chúng ta.
– Tôi nghĩ cô nên biết chuyện đó – anh nói, rồi định đứng lên ra về.
– Này, Moore. Anh không nhắc tới Cordell.
Thực ra anh đã cố tình tránh nói đến Catherine Cordell. Cô là nguyên nhân chính dẫn đến xung đột giữa Rizzoli và anh. Đó là vết thương không lành sẽ hằn mãi trong mối quan hệ của họ.
– Tôi nghe nói cô ấy vẫn ổn – cuối cùng cô lên tiếng.
– Cô ấy đã qua ca phẫu thuật.
– Hắn… Hoyt có…?
– Không, hắn đã không thể thực hiện nốt việc mổ xẻ của hắn. Cô đã đến trước khi hắn kịp làm việc đó.
Cô ngả người về sau, nhẹ nhõm.
– Giờ tôi sẽ tới bệnh viện Hành hương thăm cô ấy – anh nói.
– Rồi sau đó?
– Rồi chúng tôi đưa cô về nơi làm việc để cô trả lời những cú điện thoại chết tiệt của cô.
– Không, ý tôi là chuyện sau đó giữa anh và Cordell.
Anh dừng lại, nhìn ra cửa sổ. Ở đó, ánh nắng tràn ngập bó hoa huệ tây khiến những cánh hoa chuyển hết thành màu vàng.
– Tôi không biết.
– Marquette vẫn cấm đoán anh về chuyện đó sao?
– Ông ấy cảnh báo tôi không được dính dáng đến cô ấy. Nhưng tôi không thể kìm lòng. Chuyện đó khiến tôi tự hỏi liệu…
– Anh có còn là vị thánh Thomas nữa không chứ gì?
Anh buồn bã cười rồi gật đầu.
– Chẳng có gì chán bằng sự hoàn hảo, Moore ạ.
Anh thở dài.
– Tôi phải đưa ra những quyết định. Và chúng thật khó khăn.
– Những quyết định quan trọng luôn khó.
Anh suy nghĩ một lát về chuyện đó.
– Có lẽ đó không phải là sự lựa chọn của tôi – anh nói – Mà là của cô ấy.
Khi anh ra đến cửa, Rizzoli gọi theo.
– Khi nào gặp Cordell, chuyển mấy lời này giúp tôi nhé?
– Tôi sẽ nói gì?
– Lần bắn tới, hãy nhắm cao hơn nhé!
Tôi không biết tiếp theo sẽ có chuyện gì.
Anh lái xe về hướng tây, thẳng hướng Boston và để cửa mở. Không khí tràn vào, mát mẻ hơn so với nhiều tuần trước. Suốt đêm, một cơn gió Canada đã tràn về. Sáng nay, không khí ở thành phố rất trong lành. Anh nghĩ về Mary, người vợ Mary yêu dấu của anh và tất cả những mối quan hệ gắn kết giữa cô và anh. Hai mươi năm chung sống có quá nhiều kỷ niệm. Những tiếng thì thầm trong đêm, những câu chuyện đùa riêng tư. Đúng, đó là quá khứ của anh. Một cuộc sống hôn nhân được gom nhặt từ những bữa đêm cháy khét và những lần đi bơi vào nửa đêm, nhưng nó đã gắn kết hai người làm một. Khi còn nhỏ, họ đã bên nhau, rồi lớn lên cùng nhau. Không người phụ nữ nào, trừ Mary, có thể có được quá khứ của anh.
Và tương lai của anh vẫn chưa được định đoạt.
Mình không biết tiếp đó sẽ có chuyện gì. Nhưng mình thực sự biết điều gì khiến mình hạnh phúc. Và mình nghĩ mình cũng có thể làm cô ấy hạnh phúc. Vào thời điểm này trong đời, chúng ta còn mong ước điều gì hơn thế nữa?
Cứ sau một dặm đường, anh lại bóc một lớp nghi ngờ. Cuối cùng, khi ra khỏi xe ở bệnh viện Hành hương, anh bước đi những bước chắc chắn của một người đàn ông biết mình đã đưa ra quyết định đúng đắn.
Anh đi thang máy lên tầng năm, kiểm tra ở bàn y tá, đi dọc hành lang đến phòng 523. Anh khẽ gõ cửa, rồi bước vào.
Peter Falco đang ngồi bên giường của Catherine.
Căn phòng này, giống phòng của Rizzoli, đầy hương hoa. Ánh sáng ban ngày ngoài cửa sổ tràn ngập một màu vàng rực khắp chiếc giường Catherine nằm. Cô đang ngủ. Một ống truyền treo trên đầu giường. Chất muối lấp lánh như kim cương lỏng khi nó nhỏ xuống dây truyền.
Moore đứng đối diện với Falco. Hai người đàn ông im lặng rất lâu.
Falco cúi người hôn lên trán Catherine. Rồi anh đứng lên, nhìn Moore.
– Hãy chăm sóc cô ấy!
– Tôi hứa!
– Vậy thì tôi giao cho anh việc đó – Falco nói, rồi ra khỏi phòng.
Moore ngồi lên ghế cạnh giường, nắm tay Catherine. Anh nhẹ nhàng hôn tay cô. Và anh lại nói khẽ.
– Tôi hứa!
Thomas Moore là một người biết giữ lời, lần này anh cũng sẽ làm vậy.
Lời kết
Phòng giam của tôi rất lạnh, bên ngoài, cơn gió khắc nghiệt tháng hai đang thổi và họ cho tôi biết tuyết lại bắt đầu rơi. Tôi ngồi trên võng, vai quấn chăn và nhớ cái nóng đã cho chúng ta một lớp vỏ bọc khi chúng ta đi trên những con phố ở Livadia. Khi tới khu vực phía bắc thành phố Hy Lạp, chúng ta bắt gặp hai con suối mà thời cổ có tên là Lethe và Mnemosynẹ, nghĩa là Sự lãng quên và Ký ức. Chúng ta đã uống nước ở hai con suối đó, anh và tôi, rồi chúng ta ngủ dưới bóng râm của cây ô-liu.
Giờ tôi nghĩ về điều đó vì tôi không thích cái lạnh này. Nó làm da tôi khô lại và nứt nẻ. Dù bôi bao nhiêu kem thì tôi vẫn không thể che được những tác động của mùa đông. Giờ chỉ có kỷ niệm đáng yêu về cái nóng, về anh và tôi khi chúng ta đi bộ ở Livadia và những viên đá bị mặt trời thiêu đốt dưới chân chúng ta mới có thể khiến tôi dễ chịu.
Ở đây, ngày trôi đi thật chậm. Tôi cô đơn trong phòng giam, bị cách ly với những tên tù khác. Chỉ có các nhà phân tích tâm lý nói chuyện với tôi. Nhưng bọn họ đang nản vì tôi chẳng cho họ mấy thông tin giật gân về tội phạm học. Khi còn nhỏ, tôi không tra tấn súc vật, không đốt phá nhà của và không bao giờ đái dầm khi đi ngủ. Tôi đến nhà thờ, lễ phép với người già.
Tôi bôi kem chống nắng.
Tôi cũng là người có đầu óc bình thường như họ và họ biết điều đó.
Chỉ có những ảo tưởng của tôi mới khiến tôi khác biệt, những ảo tưởng đã đưa tôi vào nhà giam lạnh lẽo, đến thành phố này. Ở đây, gió thổi mang theo những bông tuyết trắng.
Khi tôi trùm chăn lên vai, tôi thấy thật khó tin là trên thế giới có những nơi người ta nằm phơi tấm thân trần bóng nhẫy mồ hôi trên cát. Những chiếc ô lớn trên bờ biển phất phơ trong gió nhẹ.
Nhưng đó cũng chính là nơi cô ta đã đến.
Tôi luồn tay xuống dưới đệm, lấy mảnh giấy được cắt từ báo sáng nay. Người canh gác tốt bụng đã cắt cho tôi để đổi lấy mấy đồng.
Đó là thông báo về một đám cưới. Vào lúc ba giờ chiều, thứ sáu ngày mười lăm, bác sỹ Catherine đã cưới Thomas Moore.
Cô dâu được bố mình, ông Col. Robert Cordell dẫn đến nhà thờ. Cô ấy mặc một chiếc váy dài đính hạt cườm và một chiếc vòng của hãng Empire. Chú rể vận đồ đen.
Lễ tiếp đón sau đó được tổ chức tại Khách sạn Copley Plaza ở Back Bay. Sau tuần trăng mật rất dài ở Caribe, hai vợ chồng sẽ về sống tại Boston.
Tôi gấp tờ báo, nhét xuống dưới đệm. Ở đó nó sẽ an toàn.
Giờ cô ta đang ở đó.
Tôi thấy cô ta nằm nhắm mắt trên bãi biển, những mảng cát lấp lánh trên da cô ta. Tóc cô ta như một tấm lụa đỏ xõa trên khăn tắm. Cô ta lim dim ngủ dưới ánh nắng, tay mềm nhũn, thả lỏng.
Và sau đó, chỉ một lát sau, cô ta tỉnh dậy. Mắt cô ta mở thao láo, tim đập mạnh. Nỗi sợ làm cô ta vã mồ hôi lạnh.
Cô ta nghĩ về tôi, cũng như tôi nghĩ về cô ta.
Chúng tôi sẽ mãi kết nối với nhau, thân thiết như hai tình nhân. Cô ta cảm nhận được những sợi dây ảo tưởng của tôi quấn quanh cô ta. Cô ta sẽ không bao giờ có thể cắt đứt sợi dây đó.
Trong phòng giam của tôi, ánh sáng đã tắt, một đêm dài lại bắt đầu với những âm thanh vang vọng của những người ngủ trong lồng. Họ ngáy và thở phì phò. Họ nói mê khi ngủ. Nhưng khi màn đêm yên tĩnh buông xuống, tôi không nghĩ về Catherine, mà nghĩ về anh. Anh chính là nguồn gốc của nỗi đau khổ lớn nhất trong đời tôi.
Vì thế mà tôi nghĩ rất nhiều về con suối Lethe, con suối của Sự lãng quên. Nó vừa quét sạch mọi ký ức của chúng ta đêm qua ở Savannah. Đêm qua tôi thấy anh còn sống.
Giờ những hình ảnh đó lơ lửng trên đầu tôi. Chúng cố chui rúc vào võng mạc của tôi khi tôi nhìn không rời mắt lên trần phòng giam.
Giờ tôi đang nhìn bờ vai anh và ngưỡng mộ làn da nâu của anh lấp lánh, đen hơn nhiều so với da cô ta. Những thớ cơ trên lưng anh hóp lại khi anh thúc nhiều lần vào cô ta. Tôi nhìn anh “thịt” cô ta đêm đó, như anh đã “thịt” nhiều cô gái trước đó. Khi anh đã làm xong việc đó và cho những gì tinh túy của anh vào trong cô ta, anh nhìn tôi và cười.
Và anh nói.
Nhưng thuốc chưa hết, khi tôi ấn con dao lên bụng cô ta, cô ta không phản ứng gì.
Không đau đớn, không thích thú.
– Chúng ta còn cả đêm cơ mà – anh nói – Cứ chờ đã!
Cổ họng tôi khô rát, thế là chúng tôi vào bếp. Trong bếp, tôi rót một cốc nước đầy. Đêm nay đã bắt đầu, tay tôi run lên vì háo hức. Ý nghĩ về việc sắp xảy ra khiến tôi cồn cào khi uống cốc nước. Tôi tự nhắc nhở mình phải kéo dài sự phấn khích. Chúng ta có cả đêm, và chúng ta sẽ biến đó thành một đêm dài.
– Thấy một, làm một, dạy một. Anh đã nói với tôi như vậy. Đêm nay anh hứa con dao mổ là của tôi.
Nhưng tôi khát nước và tôi cố nán lại trong bếp trong khi anh quay lại phòng ngủ xem cô ta tỉnh chưa. Tôi vẫn đang đứng bên bồn nước khi súng nổ.
Lúc đó, thời gian như đóng băng. Tôi nhớ sự im lặng sau đó, tiếng đồng hồ kêu tích tắc trong bếp, tiếng tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực. Tôi nghe ngóng, cố nghe tiếng bước chân của anh, cố nghe anh nói là đã đến lúc bỏ đi thật nhanh. Tôi sợ quá, không dám cử động.
Cuối cùng, tôi buộc mình đi vào hành lang, vào phòng ngủ của cô ta. Tôi dừng lại ở ngưỡng cửa.
Tôi phải mất một lúc mới hiểu cơn ác mộng đó.
Cô ta nằm nghiêng ở mép giường, cố lôi mình lên tấm đệm. Khẩu súng tuột khỏi tay cô ta. Tôi lại gần chiếc giường, cầm dụng cụ banh miệng vết mổ trên bàn đầu giường, đánh vào thái dương cô ta. Cô ta nằm im.
Mắt anh mở to. Anh nằm ngửa, trừng mắt nhìn tôi. Một vũng máu tràn quanh người anh. Môi anh mấp máy nhưng tôi không nghe thấy gì. Anh không động đậy chân tay. Tôi nhận ra viên đạn đã phá hỏng dây đốt sống của anh. Anh lại cố nói và lần này tôi hiểu anh nói gì:
– Làm đi! Làm cho xong đi!
Anh không nói cô ta, mà nói về mình.
Tôi lắc đầu, hoảng hốt vì điều anh muốn tôi làm. Tôi không thể làm được. Làm ơn đừng bắt tôi làm chuyện này! Tôi đứng đó, mắc kẹt giữa hai lựa chọn. Một là thực hiện yêu cầu tuyệt mệnh của anh, hai là bỏ chạy.
Hãy làm ngay! Ánh mắt anh nói với tôi điều đó. Làm đi trước khi họ đến.
Tôi nhìn chân anh duỗi thẳng, vô dụng. Tôi cân nhắc những gì sắp tới với anh. Anh có thể sống nổi không. Tôi có thể giải thoát cho anh khỏi tình trạng này.
Làm ơn!
Tôi nhìn cô ta. Cô ta không động đậy, không biết tôi ở đó. Tôi muốn giật ngược tóc cô ta, phơi cổ cô ta và ấn ngập con dao vào họng cô ta vì những gì cô ta đã gây ra cho anh. Nhưng họ phải tìm thấy cô ta còn sống. Nếu cô ta sống thì tôi mới có thể chạy thoát và không bị săn đuổi.
Bàn tay đeo găng của tôi vã mồ hôi khi tôi cầm khẩu súng lên và thấy nó thật vụng về, lóng ngóng trên tay tôi.
Tôi đứng cạnh vũng máu, nhìn anh. Tôi nghĩ về buổi tối kỳ diệu khi chúng ta lang thang ở khu đền Artemis. Trời đầy sương mù. Trong màn bụi đó, tôi thấy anh đi bộ giữa những hàng cây. Anh bỗng dừng lại, cười với tôi trong ánh bình minh. Dường như mắt chúng ta đă gặp nhau giữa ranh giới của người sống và người đã chết.
Giờ tôi đang nhìn thấy ranh giới đó và tôi cảm thấy mắt anh đang nhìn tôi.
Tất cả những điều này dành cho anh, Andrew. Tôi nghĩ và tôi làm điều đó vì anh.
Tôi thấy mắt anh tỏ vẻ biết ơn. Có phải anh cũng nhìn tôi như vậy khi tôi run rẩy cầm khẩu súng lên và kéo cò không?
Máu anh bắn lên mặt tôi, ấm như nước mắt.
Tôi quay về phía cô ta. Cô ta vẫn nằm bất động bên mép giường. Tôi đặt khẩu súng vào tay cô ta. Tôi túm tóc cô ta, dùng dao mổ cắt một túm tóc gần cổ. Ở đó, nếu mất một túm cũng sẽ khó bị phát hiện. Với mớ tóc này, tôi sẽ nhớ cô ta. Khi thấy nó, tôi sẽ nhớ nỗi sợ hãi của cô ta, cũng như mùi máu của cô ta. Nó sẽ cuốn tôi đi cho đến khi nào tôi gặp lại cô ta.
Tôi biến mất vào bóng đêm bằng cửa sau.
Tôi không còn sở hữu mớ tóc đó. Nhưng giờ tôi rất cần nó vì tôi biết rõ mùi thơm của cô ta, cũng như mùi cơ thể tôi. Tôi biết máu cô ta có vị thế nào. Tôi nhớ rõ lớp da bóng mồ hôi của cô ta. Tôi sẽ mang tất cả những điều này vào giấc mơ của mình. Trong giấc mơ đó có những niềm vui la hét như những cô gái và nó bước đi, để lại những dấu chân dính máu. Người ta không thể cầm tất cả nhũng kỷ vật bằng một tay hay vuốt ve nó bằng một lần đụng chạm. Có những kỷ niệm mà chúng ta chỉ có thể cất giữ trong đầu, dưới lớp vỏ sần sùi của loài bò sát. Tất cả chúng ta đều bắt nguồn từ đó.
Chúng ta phủ nhận quá nhiều điều trong chính con người mình.
Tôi không bao giờ phủ nhận nó. Tôi trân trọng bản chất tự nhiên của tôi. Tôi vẫn là tôi như chúa đã sinh ra và Chúa sáng tạo ra muôn loài.
Con cừu đã được cứu rỗi, con sư tử cũng vậy.
Và người đi săn cũng vậy.
[1] : Tiếng Anh có nghĩa là đồ nghề
[2] : Tiếng Anh có nghĩa là ruột mèo