Đọc truyện Mùa Hè Thiên Đường 2 – Mùa Hè Không Lẻ Loi – Chương 5
Tôi đeo cặp kính cũ gọng nhựa màu đỏ đến đám tang. Mặc dù nó khiến đầu tôi thấy hơi váng vất nhưng tôi mặc kệ. Cô Susannah vẫn luôn thích tôi đeo cặp kính này. Cô nói nó khiến tôi trông “cực kỳ trí tuệ, giống như một cô gái thông minh biết bản thân muốn gì và cần phải làm gì để đạt được điều đó.” Tôi muốn cô thấy tôi trong bộ dạng xinh đẹp nhất.
Mặc dù có thể cô chỉ nói vậy để khiến tôi tự tin hơn và không mặc cảm với vẻ bề ngoài của mình, nhưng chỉ cần đó là lời cô nói thì cái gì tôi cũng thấy đúng hết. Tôi tin vào mọi điều cô Susannah nói. Tôi thậm chí đã tin lời cô khi cô nói rằng cô sẽ không bao giờ rời bỏ chúng tôi.
Tôi nghĩ rằng tất cả mọi ngươi đều tin như vậy, kể cả mẹ. Vì thế ai nấy đều rất sốc khi chuyện đó xảy ra, dù vẫn biết đây là sự thật không thể tránh khỏi. Không thể nào là cô Susannah, cô Beck yêu quý của chúng tôi. Tôi biết có nhiều người sau khi điều trị đã khoẻ trở lại, không còn dấu hiệu gì của bệnh tật.
Và tôi luôn tin rằng cô Susannah là một trong số đó. Cho dù cơ hội chỉ là 1/1.000.000. Tình trạng bệnh của cô xấu đi rất nhanh. Xấu đến mức mẹ tôi thường xuyên phải chạy qua chạy lại giữa nhà cô Susannah ở Boston và nhà của chúng tôi, ban đầu chỉ là vào dịp cuối tuần, về sau càng lúc càng thường xuyên hơn.
Mẹ thậm chí còn phải xin nghỉ phép ở cơ quan và có một phòng riêng ở nhà cô Susannah. Điện thoại gọi tới nhà chúng tôi từ sáng sớm. Bên ngoài trời vẫn còn tối mịt. Là tin dữ, tất nhiên rồi; chỉ có tin dữ mới không thể đợi được đến sáng ngày hôm sau. Ngay khi vừa nghe thấy hồi chuông đầu tiên, tôi đã biết.
Cô Susannah mất rồi. Tôi cứ nằm bất động như thế trên giường, đợi mẹ vào báo tin. Tôi nghe thấy tiếng mẹ loạt soạt bên phòng, tiếng nước chảy trong phòng tắm. Mãi không thấy mẹ sang, tôi quyết định đi sang phòng mẹ. Mẹ đang sắp xếp hành lý, tóc vẫn còn ướt nhẹp. Mẹ ngước mắt lên nhìn tôi, mặt đầy mệt mỏi và trống rỗng.
“Cô Beck mất rồi,” mẹ nói. Tôi đã đoán đúng. Tôi có cảm giác như bị ai đó hút sạch sinh khí, toàn thân run lẩy bẩy, hai đầu gối tôi khuỵu xuống sàn. Thì ra cảm giác mất đi người yêu thương nhất là thế này đây. Tôi cứ ngỡ trái tim mình sẽ chỉ đau được giống như hôm bị bỏ bơ vơ một mình ở buổi prom là cùng.
Ai dè nỗi đau đó không là gì so với cảm giác tôi đang phải trải qua bây giờ. Đây, đây mới thực sự là nỗi đau xé ruột xé gan. Tôi biết, mọi chuyện sẽ không bao giờ trở lại được như xưa. Bạn nghĩ bạn biết thế nào là tình yêu, bạn nghĩ bạn biết thế nào là nỗi đau nhưng thực ra bạn không biết gì hết.
Cho tới khi bạn thực sự trải qua. Tôi cũng không biết mình bắt đầu khóc từ lúc nào. Chỉ biết rằng sau khi giọt nước mắt đầu tiên rơi xuống, tôi không sao ngừng lại được. Tôi không tài nào thở nổi. Mẹ bước tới quỳ xuống bên cạnh, choàng tay ôm lấy tôi, vỗ về tôi. Mẹ không hề khóc.
Tôi có cảm giác như thân xác mẹ ở đây thật đấy nhưng tâm hồn mẹ thì không. Cùng ngày hôm đó mẹ lái xe xuống thẳng Boston. Lý do duy nhất mẹ có mặt ở nhà hôm ấy là để xem tình hình của tôi và về lấy thêm quần áo thay. Mẹ cứ nghĩ rằng vẫn còn thời gian. Đáng ra mẹ phải có mặt ở đây, khi cô Susannah mất.
Vì anh Conrad và Jeremiah. Tôi biết, mẹ cũng có chung một suy nghĩ như tôi. Mẹ dặn anh Steven và tôi tự lái xe tới Boston vào hôm tang lễ, sau đó hai ngày. Mẹ không muốn anh em tôi làm mẹ xao nhãng trong lúc chuẩn bị cho tang lễ; bởi có quá nhiều việc cần giải quyết. Chúng tôi có thể ở lại để dọn dẹp sau buổi lễ.
Mẹ được cô Susannah chỉ định làm người thi hành bản di chúc và tất nhiên cô biết tại sao cô lại chọn mẹ. Không có ai thích hợp với chuyện này hơn mẹ, bởi mẹ và cô đã thảo luận rất nhiều về vấn đề này, ngay cả trước khi cô mất. Hơn nữa kể cả trong lúc bận rộn nhất mẹ vẫn luôn giữ được bình tĩnh và tỉnh táo về mọi chuyện.
Mẹ không bao giờ suy sụp, trong những thời khắc quan trọng nhất. Ước gì tôi cũng được thừa hưởng sự kiên cường đó của mẹ. Bởi vì tôi hoàn toàn mất phương hướng. Tôi không biết phải làm gì với bản thân mình. Tôi đã nghĩ tới chuyện gọi điện cho anh Conrad. Tôi thậm chí đã vài lần nhấc máy bấm số của anh.
Nhưng rồi lại không làm được. Tôi không biết phải nói gì nữa. Tôi rất sợ sẽ nói sai câu gì đó và khiến cho mọi chuyện càng tồi tệ hơn. Và rồi tôi nghĩ tới chuyện gọi điện cho Jeremiah. Nhưng nỗi sợ hãi trong tôi đã ngăn tôi lại. Tôi biết ngay khi tôi nói ra, điều đó sẽ trở thành hiện thực.
Cô Susannah sẽ ra đi thực sự. … Trên đường đi, chúng tôi hầu như không nói với nhau câu nào. Bộ vét duy nhất của anh Steven, bộ đồ anh ấy chỉ mặc đúng một lần hôm prom, được bọc cẩn thận trong bao ni-lông và treo lủng lẳng ở băng ghế sau. Tôi thậm chí còn không buồn treo cái váy của mình lên.
“Chúng ta sẽ nói gì với họ?” Tôi quay sang hỏi anh. “Anh không biết,” anh Steven thú nhận. “Đám tang duy nhất anh từng tham dự là đám tang của bác Shirle mà bác ý thì quá già rồi.” Hồi đó tôi còn quá nhỏ nên chẳng còn nhớ gì hết. “Tối nay mình sẽ ở đâu? Nhà cô Susannah ạ?” “Chịu.” “Anh nghĩ chú Fisher đối mặt với chuyện này thế nào?” Tôi thậm chí còn không dám tưởng tượng ra anh Conrad hay Jeremiah.
“Rượu whiskey thôi,” anh Steven trầm ngâm nói. Sau đó tôi không hỏi thêm câu nào nữa. … Anh em tôi thay tang phục tại một trạm xăng cách nhà tang lễ khoảng 30 dặm. Phải tới lúc nhìn thấy từng đường li thẳng tắp ngay ngắn trên bộ vét của anh Steven tôi mới hối hận vì đã không treo cái váy của mình lên.
Sau khi quay lại vào trong xe, tôi ra sức dùng tay vuốt các nếp váy cho phẳng nhưng xem ra không mấy hiệu quả. Tôi nhớ mẹ từng nói cách đó không có ích gì với chất liệu tơ nhân tạo; đáng ra tôi phải nên nghe lời mẹ mới phải. Đáng ra tôi phải nên mặc thử trước khi chọn chiếc váy đó mang đi.
Lần cuối cùng tôi mặc nó là tại buổi tiệc chiêu đãi của trường mẹ hồi ba năm trước, và giờ thì nó đã quá chật. Chúng tôi tới nơi khá sớm, đủ để bắt gặp mẹ chạy đôn chạy đáo chuẩn bị hoa và bàn bạc với bác Browne, người phụ trách tang lễ. Vừa nhìn thấy tôi, mặt mẹ nhăn tít lại, “Đáng ra con phải là váy đi chứ, Belly.” Tôi mím chặt môi lại, ngăn không cho mình nói ra cái điều mà tôi biết sẽ phải hối hận nếu nói ra.
“Con vội quá, không kịp thời gian,” tôi nói, mặc dù tôi chẳng thiếu gì thời gian. Chốc chốc tôi lại phải lấy tay kéo váy xuống để trông cho khỏi quá ngắn. “Đi gặp Conrad và Jeremiah đi con. Belly, hãy trò chuyện với Conrad.” Anh Steven và tôi quay sang nhìn nhau. Tôi biết nói gì đây? Lần cuối cùng chúng tôi nói chuyện với nhau là tại buổi prom.
Chúng tôi tìm thấy anh em họ trong phòng lớn, với nhiều hàng ghế dài được xếp ngay ngắn, phía trước là hộp giấy ăn bằng gỗ. Đầu Jeremiah cúi xuống, giống như đang cầu nguyện – một việc tôi chưa từng thấy cậu ấy làm bao giờ. Anh Conrad ngồi thẳng lưng, hai vai mở rộng, mắt nhìn xa xăm một cách vô định.
“Này,” anh Steven hắng giọng chào. Anh tiến về phía họ đang ngồi, choàng tay ôm lấy từng người. Tôi chợt nhận ra đây là lần đầu tiên tôi thấy Jeremiah trong bộ đồ vét. Trông nó có vẻ hơi chật; và cậu ấy không hề thấy thoải mái; chốc chốc lại lấy tay giật giật cổ áo. Nhưng đôi giày của cậu ấy thì còn mới.
Tôi tự hỏi không biết có phải do mẹ cậu ấy chọn mua cho không. Sau anh Steven là đến lượt tôi. Tôi bước vội tới ôm Jeremiah thật chặt. Người cậu ấy cứng đờ, không một chút cảm xúc. “Cám ơn cậu đã tới dự cùng gia đình,” chưa bao giờ Jeremiah nói với tôi bằng cái giọng khách sáo như vậy.
Một ý nghĩ vụt thoáng qua đầu tôi: Không lẽ cậu ấy đang giận mình? Nhưng rồi tôi vội xua ngay đi cái ý nghĩ vẩn vơ đó. Tôi thậm chí còn cảm thấy tội lỗi khi có những ý nghĩ như vậy. Hôm nay là đám tang của cô Susannah, cậu ấy làm gì có thời gian mà nghĩ về tôi cơ chứ? Tôi nhẹ nhàng vỗ vai an ủi Jeremiah.
Hôm nay màu mắt của cậu ấy đặc biệt xanh hơn mọi ngày – điều chỉ xảy ra khi cậu ấy khóc. “Mình rất tiếc,” tôi nói, và ngay lập tức hối hận vì đã nói ra câu đó. Bởi vì những lời đó không thể hiện hết được cảm giác thực sự của tôi lúc này, hay những gì tôi muốn chia sẻ với cậu ấy.
Cái câu “Mình rất tiếc” nghe thật sáo rỗng! Sau đó tôi nhìn sang anh Conrad. Anh đã ngồi lại xuống ghế, cái áo sơ mi trắng của anh nhàu nhĩ. Tôi ngồi xuống cạnh anh, nói rất khẽ, “Chào anh.” “Chào em,” anh chào lại. Tôi không biết có nên vòng tay ôm lấy anh không hay cứ để yên cho anh như vậy.
Cuối cùng tôi đưa tay bóp nhẹ vào vai anh, và anh không nói gì hết. Người anh cứng đơ như đá vậy. Tôi tự hứa với bản thân: Cả ngày hôm nay tôi sẽ luôn ở bên cạnh anh, làm chỗ dựa vững chắc cho anh, giống như mẹ tôi vậy. Ba mẹ con tôi ngồi ở hàng ghế thứ tư, ngay sau hàng ghế của anh em họ nhà Fisher và vợ chồng em trai chú Fisher (mà theo tôi, bà vợ đó xịt nước hoa hơi quá đà).
Tôi cứ ngỡ mẹ đáng ra phải ngồi ở hàng ghế đầu tiên mới phải, nhưng mẹ nói điều đó không quan trọng. Rồi mẹ cởi áo khoác ra, trùm lên chân che đùi cho tôi. Tôi quay đầy nhìn ra cửa và thấy bố đang đứng ở phía cuối phòng. Tôi không hề nghĩ bố sẽ có mặt ở đây hôm nay, mặc dù bố cũng quen với cô Susannah lâu không kém gì mẹ.
Nhưng tôi nghĩ bố tới đây là đúng. Tôi giơ tay vẫy bố và bố cũng vẫy tay lại với tôi. “Bố đang ở đây mẹ ạ,” tôi quay sang thì thầm vào tai mẹ. “Tất nhiên rồi,” mẹ nõi khẽ. Không quay đầy lại nhìn lấy một lần. Các bạn cùng trường của Jeremiah và anh Conrad ngồi túm tụm ở phía cuối phòng.
Họ trông có phần gượng gạo và không thoải mái. Đám con trai cúi đầu không nói tiếng nào, trong khi đám con gái quay sang thì thào với nhau, mặt đầy nghiêm trọng. Buổi lễ diễn ra khá dài. Người chủ lễ (tôi chưa gặp bao giờ) thay mặt gia đình đọc bài điếu văn. Ông nói rất nhiều điều tốt đẹp về cô Susannah.
Ông ca ngợi cô là người phụ nữ yêu kiều, tốt bụng, đầy lòng trắc ẩn và mặc dù cô Susannah đúng là như thế thật nhưng tôi có cảm tưởng ông ấy chưa gặp cô một lần nào. Tôi quay sang định nói điều đó với mẹ nhưng thấy mẹ gật đầu hưởng ứng với từng câu từng chữ ông ấy nói, nên lại thôi.
Tôi cứ nghĩ mình sẽ không thể khóc thêm được nữa, vậy mà tôi đã khóc rất nhiều. Chú Fisher đứng dậy cảm ơn mọi người đã tới chia buồn cùng gia đình. Giọng chú nghẹn ngào, thỉnh thoảng phải dừng lại để lau nước mắt. Lần gần đây nhất tôi gặp chú, trông chú cao lừng lững với làn da rám nắng và tràn đầy vẻ tự tin.
Vậy mà giờ trông chú giống như người đang bị lạc trong một trận bão tuyết. Hai vai rũ xuống, mặt mũi phờ phạc và mệt mỏi. Thật không dễ dàng gì khi phải đứng ở trên kia, trước mặt tất cả những người từng yêu mến cô Susannah. Chú đã phản bội cô, rời bỏ cô khi cô cần tới chú nhất, nhưng đến cuối cùng, chú vẫn xuất hiện.
Suốt mấy tuần cuối chú luôn túc trực bên cạnh cô, nắm tay cô. Có lẽ bản thân chú cũng nghĩ rằng cô vẫn còn nhiều thời gian. Quan tài của cô được đóng kín. Cô Susannah đã dặn mẹ tôi không được để cho ai nhìn thấy cô khi cô không còn xinh đẹp như xưa. Bởi theo lời cô thì người chết trông rất giả tạo, giống như làm bằng sáp vậy.
Tôi liên tục nói với mình rằng người nằm trong quan tài kia không phải cô Susannah, và rằng việc giờ cô trông như thế nào không quan trọng bởi vì cô đã ra đi mãi mãi. Sau khi buổi lễ kết thúc và mọi ngươi kết thúc bài cầu nguyện chung, chúng tôi xếp hàng lần lượt đi lên chia buồn cùng gia quyến.
Đứng cạnh mẹ và anh Steven như thế này, tôi bỗng thấy mình chững chạc hẳn lên. Chú Fisher cúi xuống ôm lấy tôi, hai mắt chú đỏ hoe. Chú bắt tay anh Steven và sau đó vòng tay ôm lấy mẹ tôi. Mẹ thì thầm câu gì đó vào tai chú và chú lặng lẽ gật đầu. Khi tôi ôm Jeremiah, cả hai chúng tôi cùng khóc nức nở.
Hai vai cậu ấy rung bần bật trong vòng tay của tôi. Khi tôi ôm anh Conrad, tôi đã rất muốn nói điều gì đó để an ủi anh. Một câu gì đó có ý nghĩa hơn là câu “Em rất tiếc”. Nhưng mọi thứ diễn ra quá nhanh, và tôi không có đủ thời gian để nói thêm câu nào nữa. Đằng sau tôi còn rất nhiều người đang chờ đến lượt.
Nghĩa trang cách đó không xa. Đường vào nghĩa trang vẫn còn ướt nhẹp, hẳn là tối hôm qua trời đã đổ mưa. Trước khi quan tài của cô Susannah được hạ xuống nền đất ướt, anh Conrad và Jeremiah tiến tới, mỗi người đặt lên đó một bông hoa hồng trắng và lần lượt từng người chúng tôi làm theo.
Tôi chọn một bông hoa mẫu đơn màu hồng nhạt. Có tiếng ai đó ngân nga bài thánh ca. Sau khi mọi thứ kết thức, Jeremiah vẫn đứng chôn chân tại chỗ, trước mộ của mẹ và khóc. Mẹ tôi là người đã tới bên, nắm lấy tay và nhẹ nhàng nói chuyện với cậu ấy. … Trở về nhà cô Susannah, Jeremiah, anh Steven và tôi vội lên phòng của Jeremiah.
Để nguyên cả quần áo như vậy, ba đứa bọn tôi ngồi phịch xuống giường. “Anh Conrad đâu rồi ý nhỉ?” tôi hỏi. Tôi vẫn chưa quên lời thề sẽ luôn ở bên cạnh anh cả ngày hôm nay, nhưng chính anh lại là người làm cho mọi chuyện khó khăn hơn, khi cứ liên tục biến mất không một lời báo trước như vậy.
“Cứ để anh ấy yên tĩnh một mình đi.” Jeremiah nói. “Hai người có đói không?” Tôi đang đói vô cùng nhưng lại không muốn thừa nhận điều đó. “Thế còn cậu?” “Ừm, cũng hơi hơi. Dưới nhà có đồ ăn đấy.” Jeremiah hơi chần chừ ở chữ “dưới nhà”. Tôi hiểu cậu ấy không hề muốn xuống dưới đó và đối diện với mọi người, đón nhận những ánh mắt thương hại của họ.
Tội nghiệp, họ sẽ nói, hãy nhìn xem, cô ấy ra đi để lại hai thằng bé còn non dại như vậy. Đám bạn của Jeremiah đã ra về sau khi tang lễ kết thúc. Bây giờ dưới nhà chỉ còn toàn người lớn. “Để mình đi lấy,” tôi đề nghị. “Cám ơn cậu.” Jeremiah nói, giọng đầy biết ơn.
Tôi đứng dậy và khép cửa lại sau lưng. Tôi dừng lại ngắm mấy cái khung ảnh của gia đình Fisher treo dọc hành lang. Tất cả đều được đóng khung màu đen giống hệt nhau. Trong một tấm hình, anh Conrad đang nhe răng cười hớn hở, hàm trên thiếu mất mấy cái răng cửa. Trong một tấm hình khác, Jeremiah đang hãnh diện khoe chiếc mũ Red Sox yêu thích.
Tôi vẫn còn nhớ năm ấy cậu ấy khoảng 8, 9 tuổi gì đó, suốt cả mùa Hè chàng ta lúc nào cũng sùm sụp cái mũ này trên đầu. Cậu ấy nói đây là chiếc mũ may mắn và đã đội nó ròng rã suốt ba tháng trời. Cứ cách vài tuần, nhân lúc Jeremiah ngủ say, cô Susannah lại phải lén mang nó đi giặt, sau đó bỏ lại về đúng chỗ cũ cho cậu ấy.
Dưới nhà, mọi người vẫn đang uống cà phê và trò chuyện rôm rả. Mẹ tôi đứng đằng sau bàn buffet, luôn tay cắt bánh cho mấy người lạ huơ lạ hoắc. Chí ít là đối với tôi. Tôi tự hỏi không hiểu mẹ có quen mấy người ấy không, hoặc họ có biết mẹ là thế nào với cô Susannah hay không, rằng mẹ chính là người bạn thân nhất của cô và hai người họ đã dành hầu hết mọi mùa Hè trong cuộc đời của họ ở bên nhau.
Tôi lấy hai cái đĩa và nhờ mẹ chất đầy thức ăn lên đó. “Các con ở trên nhà hết hả?” Mẹ hỏi, tay cắt một miếng pho mát xanh cho lên đĩa. Tôi gật đầu và đổ miếng pho mát trở lại khay. “Jeremiah không thích pho mát xanh,” tôi nói. Thay vào đó tôi lấy một muỗng đầy bánh quy khô và một chùm nho xanh.
“Mẹ có thấy anh Conrad đâu không ạ?” “Mẹ nghĩ cậu ấy đang ở dưới tầng hầm,” mẹ vừa sắp xếp lại khay đựng pho mát vừa nói, “Sao con không xuống đó và mang cho cậu ấy một chút đồ ăn đi? Mẹ sẽ mang đĩa này lên cho hai người kia.” “Vâng ạ,” tôi cầm đĩa thức ăn lên và đi xuyên qua phòng đúng lúc Jeremiah và anh Steven từ trên nhà chạy xuống.
Tôi đứng nán lại một lúc, nhìn Jeremiah chào hỏi và nói chuyện với mọi người, để cho họ ôm và nắm tay cậu ấy. Mắt chúng tôi gặp nhau, và tôi giơ tay khẽ vẫy về phía cậu ấy. Jeremiah cũng giơ tay vẫy lại, mắt đảo một vòng ra hiệu về phía người phụ nữ nãy giờ đang giữ tay cậu ấy khư khư.
Nếu cô Susannah có mặt ở đây lúc này, hẳn cô sẽ rất tự hào về cậu con trai út của mình. Kế đó tôi đi xuống tầng hầm. Cô Susannah cho thợ sửa sang lại tầng hầm này và làm tường cách âm sau khi anh Conrad bắt đầu học chơi guitar điện. Bên dưới hầm rất tối; anh Conrad không hề bật đèn lên.
Tôi đợi một lúc cho mắt quen với bóng tối hẳn rồi mới dò dẫm từng bước xuống cầu thang. Tôi không mất quá nhiều thời gian để tìm ra anh. Anh đang nằm trên ghế, đầu gối lên đùi một cô gái. Tay chị ta âu yếm vuốt tóc anh rất tình cảm, như thể chỉ có hai người họ thuộc về nơi này vậy.
Mặc dù mùa Hè mới chỉ bắt đầu nhưng trông da chị ta đã ngăm ngăm rám nắng. Chị ta gác hai chân lên mặt bàn, đôi giày màu đen được xếp ngay ngắn dưới sàn đất. Còn anh Conrad, đang vuốt ve đôi chân ấy. Mọi thứ trong tôi như đóng băng, tim tôi như thắt lại. Tôi đã nhìn thấy chị ta ở đám tang khi nãy.
Tôi thậm chí đã thầm ngưỡng mộ vẻ đẹp của chị ta và băn khoăn không biết là con nhà ai. Chị ta có nét Đông Á, hơi giống người Ấn Độ với mái tóc đen dài, cặp mắt đen nhánh. Chị ta mặc một chiếc váy ngắn màu đen, khoác áo chấm bi đen trắng và đeo bờm màu đen. Chị ta nhìn thấy tôi trước.
“Chào,” chị ta nói. Phải tới khi ấy, anh Conrad mới buồn ngước mắt lên và nhìn thấy tôi đứng ở cửa, với đĩa pho mát và bánh quy trên tay. Anh ngồi dậy hỏi, “Đồ ăn cho bọn anh đấy à?” Mắt không buồn nhìn về phía tôi lây một lần. “Mẹ em bảo mang xuống cho anh,” tôi lí nhí trả lời.
Tôi bước tới, đặt đĩa thức ăn xuống bàn và đứng đơ ra vài giây, không biết nên làm gì tiếp theo. “Cám ơn,” cô gái kia nói, giọng nghe đúng như kiểu Em có thể đi được rồi. Bởi rõ ràng là tôi đang làm phiền giây phút riêng tư của bọn họ. Tôi lặng lẽ đi ra khỏi phòng và ngay khi lên tới cầu thang tôi bắt đầu chạy.
Tôi chạy xuyên qua đám người trong phòng khách và tôi có thể nghe thấy tiếng anh Conrad đang chạy đuổi theo tôi. “Đợi một chút,” anh gọi với theo. Tôi chạy gần ra đến cửa rồi thì anh đuổi kịp và kéo giật tôi lại. “Anh muốn gì?” Tôi giằng tay ra khỏi tay anh. “Buông em ra.” “Đó là Aubrey,” anh nói, tay buông khỏi tay tôi.
Aubrey, người đã làm tan vỡ trái tim anh Conrad. Lâu nay tôi vẫn tưởng tượng ra chị ta khác cơ. Người con gái tôi vừa gặp xinh hơn rất nhiều so với tưởng tượng của tôi. Tôi sẽ không bao giờ có thể cạnh tranh với một cô gái như thế. Tôi nói, “Khó chịu nhỉ, tự nhiên bị em làm ngắt quãng giây phút riêng tư.” “Ôi giời, em đừng có trẻ con như thế được không,” anh ngao ngán thốt lên.
Có những thời điểm trong cuộc đời, bạn ước gì có thể xóa bỏ chúng đi vĩnh viễn. Như thể chúng chưa bao giờ tồn tại. Như thể, nếu được, bạn cũng muốn xóa bỏ chính bản thân mình khỏi thế giới này, miễn làm sao để những giây phút đó không bao giờ xảy ra. Câu nói tôi thốt ra ngay sau đây chính là một trong số đó.
Trong đám của mẹ anh, trước mặt người con trai tôi từng yêu hơn tất thảy mọi thứ trên đời, tôi đã nói, “Anh chết đi.” Đó là câu nói cay độc nhất mà tôi từng thốt ra với người khác. Ánh mắt anh nhìn tôi khi ấy, vĩnh viễn không bao giờ tôi có thể quên. Cái cách anh nhìn tôi khiến tôi chỉ muốn chết ngay lập tức.
Điều này một lần nữa khẳng định trong người tôi vẫn luồn tồn tại một phần góc khuất – cái phần mà bạn luôn tìm cách che đậy và hy vọng sẽ không bị ai phát hiện ra. Bởi vì bạn biết, nếu họ biết, họ sẽ nhìn ra con người thật của bạn, và họ sẽ khinh thường bạn. Anh Conrad nói, “Đáng ra anh phải đoán được trước là em sẽ như thế này.” “Anh nói thế là có ý gì?” Tôi rầu rĩ hỏi lại.
“Thôi, bỏ qua chuyện đó đi,” anh nhún vai, mặt đanh lại. “Không, anh cứ nói thẳng ra đi.” Anh quay lưng định bỏ đi nhưng tôi đã bước tới chặn anh lại. “Cứ nói đi,” tôi cao giọng nói. Anh nhìn thẳng vào mắt tôi và nói, “Anh đã biết ngay từ đầu đáng ra không nên có chuyện gì đó với em.
Em chỉ là một đứa trẻ con. Đó là một sai lầm lớn.” “Em không tin,” tôi nói. Mọi người bắt đầu quay ra nhìn. Mẹ tôi đang ở trong phòng khách, nói chuyện với những người mà tôi chưa gặp bao giờ. Và giờ mẹ cũng đang liếc về phía bọn tôi. Tôi thậm chí không dám nhìn thẳng vào mặt mẹ; mặt tôi đỏ bừng lên vì xấu hố.
Tôi hiểu điều đúng đắn nhất bây giờ là bỏ đi. Tôi hiểu đó là điều tôi cần phải làm. Trong một thoáng, tôi có cảm tưởng như hồn mình đã lìa khỏi xác, và tôi đang lơ lửng trong không trung, nhìn xuống chính mình và mọi người trong phòng, thấy cái cách họ đang nhìn tôi. Nhưng khi anh Conrad không nói không rằng, chỉ khẽ nhún vai và quay lưng bỏ đi, tôi đã rất giận.
Tôi rất muốn ngăn bản thân lại, nhưng không thể. “Tôi ghét anh,” tôi nói. Anh Conrad quay người lại và gật đầu, như thể anh đã đoán được trước là tôi sẽ nói như vậy. “Tốt thôi,” anh nói. Cái cách anh nhìn tôi khi ấy vừa có chút gì đó thương hại, vừa có chút gì đó chán ngán, chỉ mong sao kết thúc cho nhanh.
Toàn thân tôi như không còn chút sức lực nào nữa, tôi chỉ muốn ra khỏi đây càng nhanh càng tốt. “Tôi không bao giờ muốn nhìn thấy mặt anh nữa,” tôi nói, sau đó gạt anh sang một bên, và chạy vụt lên cầu thang. Nhưng vì quá vội vàng nên khi lên tới bậc thang trên cùng tôi đã bị vấp ngã và đập cả hai cái đầu gối xuống sàn, rất mạnh.
Từ bên dưới, tôi nghe thấy có người kêu lên thất thanh. Nhưng qua làn nước mắt, mọi thứ đều trở nên nhòe nhoẹt trong mắt tôi. Tôi lồm cồm bò dậy và chạy thẳng vào trong phòng ngủ dành cho khách. Tôi bỏ kính ra, nằm trên giường khóc thút thít. Tôi không ghét anh Conrad. Tôi ghét bản thân mình.
Một lúc sau, bố lên tìm tôi. Bố có gõ cửa vài lần nhưng thấy tôi không trả lời nên bố đành tự đẩy cửa vào và ngồi xuống giường, kế bên tôi. “Con không sao chứ?” Bố nhẹ nhàng hỏi. Nghe giọng nói ân cần của bố lại khiến tôi thấy tủi thân và trào nước mắt. Đáng ra không ai nên đối xử tốt với tôi hết.
Tôi không xứng đáng được nhận sự quan tâm đó. Tôi quay lưng lại phía bố và hỏi, “Mẹ có giận con không?” “Không, tất nhiên là không rồi,” bố nói. “Cùng bố xuống nhà và chào tạm biệt mọi người thôi con.” “Con không thể,” tôi lắc đầu từ chối. Làm sao tôi có thể xuống dưới nhà và đối mặt với mọi người sau những gì vừa xảy ra? Chịu thôi.
Tôi bị bẽ mặt như thế là đủ rồi, và người gây ra không phải ai khác, chính là tôi. “Con và Conrad có chuyện gì thế? Hai đứa cãi nhau à? Hay là hai đứa đã chia tay?” Bố hỏi tiếp. Nghe cái từ “chia tay” thốt ra từ miệng bố cứ thấy kỳ kỳ thế nào ý. Hơn nữa không phải là chuyện tôi có thể thảo luận với bố.
“Bố, con không thể nói mấy chuyện này với bố được. Bố đi xuống nhà được không? Con muốn yên tĩnh một mình.” “Thôi được,” bố thở dài, tôi có thể cảm nhận được một chút cay đắng trong giọng nói của bố. “Con có muốn bố gọi mẹ lên cho con không?” Người tôi không muốn gặp mặt nhất bây giờ chính là mẹ.
“Không ạ. Bố làm ơn đừng gọi mẹ,” tôi bật nói rất nhanh. Bố đứng dậy và rời khỏi phòng. Người duy nhất tôi muốn gặp bây giờ là cô Susannah. Chỉ mình cô thôi. Và rồi tôi chợt nhận ra: Tôi sẽ không bao giờ còn được làm vị trí số 1 trong lòng ai nữa, tôi sẽ không bao giờ có thể nói cười thoải mái như ngày xưa.Mọi thứ đã kết thúc. Cô đã ra đi mãi mãi
Tôi hy vọng rằng anh Conrad sẽ nghe lời tôi. Tôi hy vọng rằng sẽ không bao giờ gặp lại anh nữa. Bởi nếu tôi nhìn thấy anh, thấy ánh mắt anh nhìn tôi như cái cách anh nhìn tôi ngày hôm đó, tôi sẽ suy sụp hoàn toàn.