Đọc truyện Mộng Thấy Sư Tử – Chương 14: Trời sinh kiêu ngạo
Dư Phi cũng không bỏ chạy hẳn, cô đứng lại trong một góc hành lang phía trước, gió lớn thổi đèn lồng dưới mái hiên bay tung, mái hiên bằng trúc tuy dài nhưng Dư Phi vẫn bị làn mưa tầm tã hắt cho cả người ướt rượt.
Bạch Phỉ Lệ vuốt mái tóc dài bay loạn của cô một cái, tay ướt nhẹp.
Anh hỏi: “Sao em lại ở đây?” Anh lấy từ trong túi áo trước ngực ra một chiếc khăn tay lau nước trên tóc và trên người cho cô. Anh không mặc complet mang đậm phong cách phương Tây như người đàn ông ngồi cạnh anh – mà Dư Phi đoán là ba anh – nhưng cũng mặc một chiếc sơ mi được cắt may riêng, khuy cài lên đến tận cổ áo và thắt cravat. Bình thường anh cũng hay mặc sơ mi trước mặt cô, nhưng Dư Phi nhìn ra được, chiếc sơ mi anh mặc tối nay, chất liệu vải dệt, và cả kiểu dáng, những chiếc anh mặc thường ngày đều không sánh nổi.
Dư Phi đưa bánh ga-tô trong tay cho anh, nói: “Cho anh cái này.”
Bên ngoài túi dính nước ướt nhẹp, nhưng cái hộp bên trong vẫn còn nguyên vẹn. Bạch Phỉ Lệ nhìn nhãn hiệu cũng biết là cái gì. Anh ôm eo Dư Phi, hôn một cái lên khóe miệng cô, không đụng tới lớp son bóng trên môi cô.
Dư Phi ôm lấy vòng eo nhỏ hẹp dẻo dai của anh, mấy ngày không gặp, không khỏi có chút rung động và không nỡ, ngửa đầu hỏi anh: “Đêm nay anh…”
Bạch Phỉ Lệ sờ cái bụng lép kẹp của cô, hỏi: “Chưa ăn à?”
Anh thường thích sờ bụng cô, bảo là cảm thấy giống bong bóng cá, vừa mềm vừa trơn. Anh kiểm tra một cái là biết ngay cô vừa uống nước hay ăn cơm, cô cũng không hiểu anh sờ ra bằng cách nào nữa.
Dư Phi mới chỉ ăn một quả táo. Tối nay Ngôn Bội Linh phải đi xã giao ở bên ngoài, hai cha con dượng thì ăn bữa tăng ca ở trạm thủy điện, cô lười, không nấu cơm. Hơn nữa vốn cô cứ tưởng rằng dù muộn một chút nhưng vẫn có thể cùng Bạch Phỉ Lệ ăn tối.
Nhìn mặt là biết cô chưa ăn rồi. Bạch Phỉ Lệ một tay cầm bánh ga-tô, một tay nắm lấy tay cô, nói: “Vào ăn chút gì đi.”
Dư Phi do dự: “Đây không phải là bữa cơm xã giao của bọn anh à? Tôi vào không ổn lắm đâu.”
Bạch Phỉ Lệ nói: “Có tôi ở đây, em cứ ăn của em đi, không cần phải để ý tới những người khác.”
Dư Phi vẫn nhăn mày: “Người ngồi cạnh anh là ba anh à?”
Bạch Phỉ Lệ gật đầu, nói: “Ông ấy thấy em rồi… Có điều em không cần phải để ý đến ông ấy đâu.”
Dư Phi nghĩ bụng, vậy cũng được sao? Quan hệ cha con độc lập đến mức ấy cơ à? Trong chớp mắt đó, đã bị Bạch Phỉ Lệ dắt vào.
Tất nhiên là bị cả đám người nhìn chòng chọc.
Bạch Phỉ Lệ không mở miệng giải thích, có điều anh nắm tay Dư Phi như vậy, lại để Dư Phi ngồi cạnh mình, cũng chẳng cần phải giải thích gì nhiều nữa. Anh trực tiếp tìm người phục vụ cầm bầu rượu nhỏ ngồi quỳ trong góc phòng hỏi lấy thực đơn, gọi vài món riêng cho Dư Phi.
Dư Phi phát hiện trong số những người ngồi đây, có đến một nửa là người Nhật Bản. Mà trong số nửa còn lại, cô bất ngờ trông thấy một người…
Một người khiến lòng cô căng lên.
Vợ trước của Dư Thanh, Tần Phong.
Tần Phong hoạt động trong mảng kinh doanh bất động sản, có một người anh ruột ở thành phố Y, năm đó cũng vì cơ duyên ấy mà Dư Thanh gặp được Ngôn Bội San ở thành phố Y.
Trước đó Dư Phi có nghe nói, sau khi Tần Phong ly dị với Dư Thanh, đến cả con cái cũng không cần, xin tổng công ty điều chuyển đến khu vực thành thị mới nổi ở đồng bằng Châu Giang khai thác thị trường. Bà rất lợi hại, tích đủ vốn rồi thì tự tách ra làm việc một mình, mười năm nay lăn lộn trong giới bất động sản, bà đã đưa được công ty của mình lên thị trường.
Khi đó Tần Phong đã bỏ lại một câu cay nghiệt: Dư Thanh ông chính là một sự trói buộc, bỏ cái gánh nặng là ông xuống rồi, tôi cũng coi như được giải thoát.
Tần Phong rất nở mày nở mặt.
Dư Phi không thể ngờ được thành phố Y lại nhỏ đến vậy, trước đó đã gặp phải bà ở bệnh viện thành phố Y, hôm nay lại một lần nữa gặp phải bà ở tiệc tối của ba Bạch Phỉ Lệ.
Lần đó khi cô mở đơn thu lệ phí bệnh viện ra, vốn đã chuẩn bị tinh thần phải đi vay nợ một số tiền lớn, rốt cuộc lại được cho hay rằng mọi khoản tiền đều đã được thanh toán.
Cô nhìn thấy hai chữ “Tần Phong” như rồng bay phượng múa kí bên dưới đơn nộp tiền.
Hai chữ ấy vừa giống như lửa thiêu sống người, vừa giống như một cái xương cá đâm sâu thật sâu trong thịt mềm nơi cổ họng cô, không nuốt vào được, cũng không nhổ ra được. Cô không biết nên coi đây là khoản thiếu nợ hay là ân đức nữa, chỉ có thể để treo ở đó, không thể giải quyết, bẽ mặt vô cùng.
Trong tình huống thế này lại gặp phải Tần Phong, bà còn ngồi ngay đối diện cô, cô chợt như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
Nhưng Tần Phong lại giống như chẳng thấy có vấn đề gì cả, tao nhã giơ ly lên hướng về phía cô, gật đầu cười một tiếng.
Bầu không khí trong phòng nhanh chóng khôi phục lại như thường.
Người Nhật Bản ồn ào hơn so với trong tưởng tượng của Dư Phi rất nhiều, uống rất nhiều rượu, ầm ầm ĩ ĩ. Những người Trung Quốc ngồi phía sau đều là phiên dịch, liên tục ghé vào tai họ, nhỏ giọng dịch lại cho họ nghe những gì đám người Nhật Bản kia nói.
Dư Phi nhận ra sau lưng ba Bạch Phỉ Lệ ấy thế mà lại không có phiên dịch.
Món ăn Bạch Phỉ Lệ gọi cho cô nhanh chóng được dọn lên. Trước đó khi Bạch Phỉ Lệ gọi món, Dư Phi đã liếc nhanh qua thực đơn, toàn là tiếng Nhật, cô từng ăn vài món ăn Nhật Bản, nhưng những món ăn của hàng này cô đều chưa bao giờ được thấy, giá cả lại cao đến độ khiến người ta líu lưỡi.
Món ăn được dọn lên lượng không nhiều lắm, nhưng chủng loại thì lại rất nhiều, tinh xảo xinh xắn hệt như một vườn hoa nhỏ, gia vị ăn kèm cũng phong phú.
Không có bát đĩa như kiểu người Trung Quốc thường dùng, Dư Phi cầm đũa, bỗng không biết phải ăn thế nào.
Những người chung quanh ồn ào trò chuyện với nhau, ly qua chén lại, chợt nghe Tần Phong phía đối diện cười nói: “Phỉ Lệ gọi món giúp cô hết rồi, cô cứ ăn đi, không cần phải khách khí với họ.”
Bạch Phỉ Lệ bỗng ý thức được điều gì, nhíu mày: “Dì Phong, dì biết cô ấy à?”
Tần Phong cười: “Sao lại không biết chứ.”
Chân mày Bạch Phỉ Lệ cau lại. Anh tìm phục vụ lấy một đôi đũa mới, quay sang mấy món của Dư Phi, món nào chấm cái gì, phối hợp ra sao, đều làm mẫu hết một lượt.
Dư Phi lặng lẽ cầm lấy đũa chậm rãi ăn.
Một người Nhật Bản mặc đồ Âu ở đầu bàn bên kia chợt nói một tràng dài không biết là gì với ba Bạch Phỉ Lệ, tất cả mọi người đều yên lặng xuống lắng nghe, nhóm phiên dịch cho người Trung ở phía sau thấp giọng dịch lại. Dư Phi thấy khát, nhìn trên bàn một vòng không thấy nước đâu, chỉ thấy có mấy cái bình gốm, chất lỏng rót ra trong veo, định mặc kệ là rượu hay nước, cứ uống trước đã, lại bị Bạch Phỉ Lệ ngăn lại, nói đó là rượu sake, không cho cô uống, thay vào đó tìm phục vụ hỏi nước.
Dư Phi nghĩ thầm, tôi không uống được rượu chắc? Nhưng ngẫm lại, bản thân cứ say là lý trí bay sạch, bèn thôi. Cô chú ý thấy lúc Bạch Phỉ Lệ rót nước cho cô, vẻ mặt chăm chú, tai vẫn luôn dựng thẳng lên nghe người Nhật Bản kia nói chuyện. Cô nhớ tới bài hát tiếng Nhật Nhược Thủy hát tặng cô lần đó, nghĩ lẽ nào Bạch Phỉ Lệ nghe hiểu được tiếng Nhật sao?
Sau đó liền thấy ba Bạch Phỉ Lệ nghiêng đầu qua, Bạch Phỉ Lệ lấy tay che miệng, hạ giọng nói gì đó bên tai ba anh. Ba anh gật đầu, lại nói với anh hai câu.
Bạch Phỉ Lệ ngồi thẳng trở lại, mở miệng nói với người kia.
Có câu “mở miệng là quỳ” (*), chính là để nói đến trường hợp này.
(*) Ngôn ngữ mạng Trung Quốc, tóm gọn của “Vừa nghe anh ta/cô ta nói, tôi liền quỳ”.
Cần phải so sánh thế này. Nghe mấy câu phiên dịch sang tiếng Nhật của Bạch Phỉ Lệ, Dư Phi bỗng hiểu vì sao ba Bạch lại không dẫn theo phiên dịch.
Người ta thường sẽ nảy sinh cảm giác choáng ngợp với một thứ giọng xa lạ, có thể là tiếng hát, cũng có thể là ngôn ngữ thanh vận, tựa như người bình thường nghe vần điệu Trung Châu trong kinh kịch vậy, đều sẽ nảy sinh cảm giác thưởng thức một cách tự nhiên.
Dư Phi vốn được rèn luyện về giọng nói, tất nhiên là có thể hiểu được cái chất trong đó. Kể cả có là một ngôn ngữ cô không biết, cô vẫn có thể cảm nhận được nhịp điệu và tiết tấu, hơi thở và khí chất có phù hợp tự nhiên hay không.
Cô biết Bạch Phỉ Lệ nói rất tốt, anh thậm chí còn xóa bỏ âm điệu líu ríu vốn có trong giọng nói của người Nhật, mang một vẻ êm tai rất chuyên nghiệp.
Bạch Phỉ Lệ vẫn đang tranh luận về một vấn đề với người Nhật nọ, giữa chừng liên tục truyền đạt lại cho ba Bạch, giữa hai cha con thậm chí còn xảy ra bất đồng. Giọng Bạch Phỉ Lệ tuy trong trẻo mềm mại, nhưng đôi lúc lại có sự cứng rắn cô chưa từng nghe thấy.
Dư Phi bất giác chăm chú lắng tai, chợt nghe Tần Phong ngồi đối diện như biết cô đang nghĩ gì, cười nói: “Phỉ Lệ học kinh tế ở đại học Keio Nhật Bản, tiếng Nhật đương nhiên là nói rất tốt rồi. Chắc cô chưa từng nghe đến đại học Keio đâu nhỉ, đó là trường đại học số một của Nhật Bản, khoa Kinh tế lại vô cùng tốt, đứng top thế giới đấy.”
Bà lại bồi thêm một câu: “Bạch Phỉ Lệ rất ít khi nói với người khác, chắc cô là lần đầu biết nhỉ?”
Dư Phi cúi đầu không nói gì. Cô thò tay ra sau lưng sờ sờ hộp bánh ga-tô, hộp bánh đã hết lạnh rồi, không biết cái bánh bên trong đã bị chảy chưa nữa.
Bữa cơm này ăn đến tận hơn mười một giờ mới tan cuộc. Giữa chừng đám người Nhật dường như cũng biết hôm nay là sinh nhật Bạch Phỉ Lệ, đã dặn nhà hàng đem một cái bánh ga-tô mật ong kiểu Nhật nặng mười pounds qua, một cái bánh rất lớn, được tạo hình nghệ thuật vô cùng hiện đại, sôi nổi chúc mừng sinh nhật Bạch Phỉ Lệ.
Họ cắt cho Dư Phi một miếng lớn, Dư Phi không ăn.
Sau cùng, Bạch Phỉ Lệ nói muốn đưa Dư Phi trở về, bảo Dư Phi chờ anh một chút. Anh đi từ toilet ra, tới một khúc quanh thì thấy Tần Phong đang tựa người bên cửa sổ. Ánh đèn lồng ngoài cửa hắt vào, châu ngọc trên cổ bà tỏa sáng lấp lánh.
Tần Phong gọi anh lại: “Phỉ Lệ.”
Bạch Phỉ Lệ dừng bước: “Dì Phong tìm cháu có chuyện gì ạ?”
Tần Phong nói: “Cô bé Dư Uyển Nghi kia, cháu biết được bao nhiêu về nó?”
Bạch Phỉ Lệ nhìn bà, không đáp.
Tần Phong nói: “Cháu có biết nó còn có một nghệ danh là Dư Phi không?”
Ánh mắt Bạch Phỉ Lệ chợt lóe lên, “Dư Phi của Thiện Đăng Đĩnh?”
Tần Phong cười: “Cháu cũng biết đến Thiện Đăng Đĩnh à. Vậy chắc cháu cũng biết nó giờ đã không còn ở Thiện Đăng Đĩnh nữa nhỉ.”
Bạch Phỉ Lệ nhíu mày, không nói gì.
“Nó là bị Thiện Đăng Đĩnh đánh rồi đuổi đi đấy. Cháu có biết không? Dùng roi da, đánh nó suýt chết.” Tần Phong nói, “Cháu có biết vì sao nó lại bị đánh không?”
“Chen chân vào hôn nhân của sư thúc, vợ sư thúc nó vừa có bầu đã bị sẩy thai. Đó là một mạng người đấy!”
“Nó và mẹ nó, bản chất đều là cùng một loại người. Phỉ Lệ, mẹ cháu vì sao mà mất? Đó chẳng phải là loại người cháu căm hận nhất sao?”
***
Dư Phi đứng ngoài cửa Chẩm Thảo Cư đợi Bạch Phỉ Lệ.
Bên ngoài trời vẫn mưa ào ào như thác đổ, khách ăn đến cửa vừa đi giày, vừa bá vai bá cổ nói chuyện nốt trước khi chia tay, sau khi nhất trí được gì rồi thì cười ha hả rồi rời đi. Bên ngoài rất nhiều xe cộ sang trọng đang chờ họ, cô chủ của nhà hàng khom người tạm biệt họ.
Lối ra cửa của Chẩm Thảo Cư thực sự rất hẹp, Dư Phi đã nép sát sang một bên rồi mà vẫn bị những người này sượt qua người. Hương áo dáng tóc, mưa bụi mênh mang, tay vừa chạm tới, đã là một thế giới khác.
Trong lúc buồn chán, Dư Phi xuất thần nhìn tủ kính thủy tinh khảm vào tường, bên trong trưng bày những món thủ công mỹ nghệ của Nhật Bản, có vẻ như là được chủ nhân Chẩm Thảo Cư sưu tập.
Con búp bê thủ công lớn bằng lòng bàn tay đặt trên tầng cao nhất hấp dẫn sự chú ý của Dư Phi. Con búp bê mặc kimono truyền thống màu đỏ, thắt đai lưng vàng, đôi mắt long lanh có thần, tựa như một linh hồn in hằn thương tích, tơ tằm màu đen dệt thành tóc mái và mái tóc vừa dày vừa nặng, xõa tung, trông hơi giống dáng vẻ của cô trước đây.
Dư Phi đang ngắm con búp bê thì chợt thấy một thân hình cao lớn đi tới, vươn tay đẩy cửa tủ kính, lấy con búp bê kia ra.
Dư Phi không khỏi kinh hãi, cái người mặc gi-lê kiểu Tây hoa văn thiên điểu, vắt áo vest trên tay, dáng vẻ phong lưu hào hoa này, không phải là ba Bạch Phỉ Lệ thì còn là ai vào đây?
Ông cầm con búp bê, thấp giọng nói vài câu với cô chủ nhà hàng. Cô chủ nhà hàng tỏ vẻ khó xử, Dư Phi miễn cưỡng nghe được hai từ: “quý hiếm”, “không bán”. Ba Bạch mỉm cười, lại ghé vào gần hơn, không biết là nói cái gì, khóe miệng nhếch lên thành một nụ cười mê hồn. Vẻ mặt cô chủ thẹn thùng, cúi đầu, lát sau khẽ khàng gật đầu một cái.
Ba Bạch lập tức đi qua, kéo tay Dư Phi, nhìn cô một cái, đặt con búp bê vào lòng bàn tay cô.
Cầm trong tay mới biết được không giống với những gì mình tưởng tượng. Thân mình con búp bê này được làm bằng sứ, trơn lạnh bóng loáng, mang theo một cảm giác mong manh, rất giống với cảm giác mịn màng trơn láng của làn da con gái. Bộ kimono trên người được cắt may phức tạp, đường thêu tinh xảo, chất liệu rất tốt. Dư Phi bất giác vê một cái, dưới lớp trang phục dường như còn có đường vân tinh vi khôn cùng.
Dư Phi nhất thời không biết phải làm sao. Nhưng ba Bạch thì lại chẳng dừng lại thêm một giây nào, một lời cũng không nói, khoác áo vest rồi lập tức ra ngoài, có người che ô cho ông bước lên một chiếc xe sang trọng.
Cảm giác của Dư Phi vào thời khắc này thật khó có thể diễn tả nên lời.
Cô cùng lắm chỉ ngắm hơi chăm chú một chút thôi, vậy mà đã vô duyên vô cớ lấy được món đồ dường như đã được người ta quý trọng nâng niu từ lâu.
Cảm giác này cô chưa từng thể nghiệm. Cô chỉ từng biết rằng, cô bỏ ra bao nhiêu thì sẽ nhận hồi báo bấy nhiêu, không thứ gì là cô có thể có được chỉ bằng việc nhìn nhiều thêm đôi chút cả.
Cô từ từ đi sang, trả lại con búp bê cho cô chủ, cô chủ lia lịa xua tay: “Không không không!”
Cô bèn đặt con búp bê lên cái bàn bên cạnh cô chủ rồi đi ra ngoài, cô chủ cầm con búp bê lên chạy theo, đặt con búp bê lại vào tay cô, vô cùng thành khẩn cúi người chào cô:
“Xin cô nhận lấy cho! Nó giờ đã là của cô rồi!”
Dư Phi gắng sức giải thích với cô ấy, cô chủ dù nghe hiểu tiếng Trung, nhưng khả năng nói lại chỉ giới hạn trong mấy câu giao tiếp đơn giản. Cô chỉ biết liên tục nói “Không không không”, Dư Phi cũng không biết phải làm sao.
Bạch Phỉ Lệ đi ra, kéo Dư Phi ra ngoài, nói là xe đã tới. Dư Phi nhìn anh, cũng không biết phải nói sao với anh về việc này, chỉ đành nhận lấy con búp bê trước đã.
Tay phải Bạch Phỉ Lệ nắm lấy tay cô, đi lên phía trước. Trên người anh thoang thoảng mùi rượu, Dư Phi nhớ là anh uống không ít rượu sake với đám người Nhật kia, có đôi khi là uống thay ba anh. Người ta nói loại rượu sake này rất mạnh, cũng chẳng biết anh có say hay không nữa.
Tới cạnh xe, Dư Phi chần chừ chốc lát, nói: “A Phỉ, hay là anh đưa tôi về nhà đi.”
Tay phải anh chợt buông cô ra, bỗng nhiên xoay người, đôi mắt tối tăm đen kịt.
Anh nói: “Hử?”
Dư Phi nói: “Hay là tôi về nhà đi thôi, tối nay tôi cũng không ổn lắm.”
Tay trái anh mở cửa xe, nhướng mày nhìn cô bén nhọn hiếm thấy, nói: “Lên xe đi.”
Trong lòng Dư Phi có tâm sự, ngồi trên xe nhìn ra cửa sổ ngẩn ngơ, không ngó gì đến Bạch Phỉ Lệ. Ngoài cửa sổ mưa trắng xóa, nhìn không rõ được cái gì với cái gì. Bạch Phỉ Lệ cũng không nói gì, tay phải nắm lấy tay cô, đầu ngón trỏ chầm chậm xoa xoa trên mu bàn tay cô.
Gần mười phút sau, xe dừng. Dư Phi nghĩ bụng sao nhanh vậy đã tới rồi, xuống xe vừa nhìn lại, hóa ra lại là khách sạn năm sao mà Bạch Phỉ Lệ trọ.
Dư Phi ngạc nhiên, bị Bạch Phỉ Lệ dẫn vào trong khách sạn. Cô gọi anh: “A Phỉ, sao anh lại đưa tôi tới đây!”
Giọng Bạch Phỉ Lệ nhẹ mà hư ảo, không giống với giọng nói bình thường của anh mà giống như trong kịch truyền thanh: “Không phải em đến tổ chức sinh nhật cho tôi sao?”
Trong lòng Dư Phi nảy sinh cảm giác khác thường, hỏi: “Ban nãy không phải mọi người đã tổ chức rồi à?”
Anh quay đầu lại, ánh mắt vừa sáng vừa sâu, trong vắt như hai dòng xuân thủy, anh nói: “Tôi chỉ muốn một mình em tổ chức sinh nhật cho tôi thôi.”
Ánh mắt như vậy, trong ấn tượng của cô ngoại trừ đêm đó ở “Chiếc bè” ra, về sau chưa từng gặp lại. Nhưng ánh mắt này đã khắc sâu nơi đáy lòng cô, lúc này rõ ràng anh không cười, nhưng lại khiến cô có cảm giác như đang cười. Dư Phi đột nhiên cảm thấy anh giống như một con yêu tinh, mà cô là người bị đầu độc, cứ như vậy mà đi theo anh về phía trước. Dù cô đi thang máy có sợ độ cao đến muốn ngất xỉu, cô cũng dằn lại.
Rất nhanh đã tới trước cửa phòng anh, trên hành lang có một cái thềm ba bậc. Dư Phi nhớ ra nơi này, đột nhiên ngừng lại.
Cô nói: “A Phỉ, tôi…” Lòng cô rối như tơ vò, cứ cảm thấy muốn nói gì đó, nhưng mở miệng ra rồi lại chẳng biết nên nói gì.
Bạch Phỉ Lệ đứng trên bậc thềm phía trước quay người lại, nói: “Em còn nhớ không? Đêm đó, em cũng đi đến đây thì bỗng không chịu đi nữa.”
Dư Phi kinh ngạc ngước mắt.
Bạch Phỉ Lệ cong môi nở nụ cười, không cười ra tiếng, “Em nói em không thể đi theo tôi tiếp nữa, bởi vì tôi chỉ là có ngoại hình đẹp thôi chứ không phải là sư tử của em.”
Dư Phi ngơ ngác, cô hoàn toàn không nhớ rằng đêm đó sau khi say rượu cô lại có lời nói, hành động như vậy.
Cô hỏi: “Sau đó thì sao?”
“Tôi bèn hỏi, sư tử của em là ai? Em không ngừng lắc đầu. Tôi lại hỏi, sư tử của em là kiểu nào? Em suy nghĩ hồi lâu, nói, Sư tử của tôi à, cường tráng mạnh mẽ, một tay che trời, chỉ cần một tay là có thể nhấc được tôi lên.”
Dư Phi nghe xong xấu hổ giận dữ muốn chết, nghĩ bụng cô mà lại từng nói ra một câu ngu xuẩn nực cười đến vậy sao! Nhưng lời về “sư tử” đó chỉ có Thứ Cơ và cô biết, Bạch Phỉ Lệ sao có thể bịa ra được.
Cô cố nén lại cảm giác mất mặt, hỏi tiếp: “Sau đó thì sao?”
“Thì tôi một tay bế em vào chứ sao.”
Hai tay Dư Phi bưng kín mặt.
Bạch Phỉ Lệ hỏi: “Lần này còn muốn bế nữa không?”
***
Dư Phi tất nhiên là tự mình bước vào.
Căn phòng này vẫn hệt như trong trí nhớ của cô, một phòng cửa đóng chặt, những món đồ bày trí khác không hề thay đổi. Chỉ là lần này, Bạch Phỉ Lệ không mang hành lý tới đây, tất cả đồ đều là anh mới mua.
Sau khi vào cửa, đèn ngủ trong phòng tự động bật sáng, sắc đèn mông lung, mờ mờ ảo ảo, miễn cưỡng có thể thấy người.
Dư Phi nhìn hồi lâu vẫn không biết công tắc đèn ở đâu, chỉ thấy Bạch Phỉ Lệ đặt bánh ga-tô xuống bàn, mở đèn bàn lên, hơi ngẩng đầu, vươn tay lên cởi cravat.
Yết hầu anh đẻ ra đã không rõ ràng, chỉ khi ngẩng đầu mới nổi lên một khối thanh tú. Nhưng đàn ông làm cái chuyện cởi áo nới dây lưng này, trời sinh đã mang một cảm giác mê hoặc. Dư Phi ngắm anh, tâm trạng dần tốt lên.
Cởi cravat, anh lại vươn tay lên thả tóc xuống. Anh như biết cô đang thưởng thức mình, ngậm một chiếc cặp tóc đánh mắt nhìn về phía cô, khóe miệng cong lên nhoẻn cười.
Môi hồng răng trắng, mắt sáng liếc nhìn.
Nụ cười này sao mà rung động lòng người, trong ánh sáng trầm mờ nơi đây, tạo nên một vẻ đẹp tĩnh lặng như tranh vẽ.
Dư Phi chợt bừng tỉnh trong chớp mắt, chân đạp trăng, mắt mơ màng, nào ai phân được gái trai? (*)
(*) Lấy ý từ câu “Thỏ đực chân đạp vành trăng, thỏ cái ánh mắt mơ màng; đôi thỏ song song mà đi, nào ai phân được đực cái.” – Nghe nói khi xách tai thỏ lên treo giữa không trung, hai chân trước của thỏ đực sẽ luôn động đậy không ngừng, còn thỏ cái thì thường xuyên híp mắt, vậy nên có thể phân biệt rõ ràng được đực cái; vậy nhưng khi thả xuống đất, hai con thỏ song song cùng chạy, lại chẳng thể phân biệt được đâu là con đực đâu là con cái.
Ngón tay anh vuốt lại tóc, trông vừa có chút rối lại vừa vô cùng tự nhiên. Anh liếc nhìn đồng hồ báo thức ở đầu giường, nói: “Còn mười phút.”
Ý anh là khoảng thời gian cho đến khi sinh nhật anh kết thúc.
Anh mở hộp bánh ga-tô ra, kem đá, sữa và phôi kem bên trong đã chảy thành một đống nhão nhoét, nhìn thậm chí còn có chút phát gớm. Trong hộp còn có một bó cúc nhỏ, cũng đã hoàn toàn héo rũ.
Dư Phi vội vàng đậy nắp hộp lại: “Đừng ăn.”
Bạch Phỉ Lệ không để ý tới cô, anh giũ cái khăn thủ công màu trắng ngà trong hộp bánh ra, lót lên bàn rồi đặt khay bánh và bó hoa cúc ngay ngắn lên trên.
Anh nhấc nắp hộp bánh lên, nắp hộp buộc một sợi đai, bên trên in một dòng chữ màu vàng kim:
Birthday is real rebirth.
Sinh nhật là một lần tái sinh.
Anh ngây người nhìn dòng chữ đó hồi lâu, nở nụ cười.
Nhưng Dư Phi thấy rõ nơi khóe mắt anh có thứ gì sáng lấp lánh chảy xuống. Lúc anh cúi đầu thì không thấy đâu nữa.
Anh lẩm bẩm cười nói một câu:
“Đã nhiều năm không có sinh nhật rồi.”
Anh rút từ bên hông hộp ra một cái thìa kim loại có tạo hình mới lạ, từng miếng từng miếng, ăn hết sạch cái bánh ga-tô nhão nhoét.
Hai người đều yên lặng.
Lúc kim đồng hồ báo thức trên đầu giường chỉ chỉ còn hai phút, anh chợt hỏi: “Quà của tôi đâu?”
Dư Phi vẫn còn một thứ nữa muốn tặng, cô chính là món quà.
Lớp son bóng trên môi cô đã sớm trôi sạch lúc ăn cơm. Bạch Phỉ Lệ đè cô lên giường, lấy thỏi son bóng cô mang theo bên người thoa lên, lại lấy ngón tay tỉ mỉ kĩ càng lau đi cho cô.
Khi anh làm điều này, anh cách cô rất gần, vẻ mặt và ánh mắt đều rất chăm chú, cô chỉ nhìn thôi cũng sinh tình động ý. Lúc ngón tay trái anh lau lên môi cô, cô cắn lấy đầu ngón tay anh, anh liền nhoẻn cười, tay phải vuốt ve gáy cô, nâng gáy cô lên, ngón trỏ tay trái thò vào trong miệng cô, chọc vào cổ họng cô. Cô nôn khan theo phản xạ, anh liền cười xấu xa, thu ngón trỏ về, đầu ngón tay men theo lưỡi cô rờ tới đầu lưỡi.
Ánh mắt anh mê ly đến vậy, bất kể anh làm gì cô cô cũng nguyện lòng cam chịu. Ngón tay anh trêu chọc đầu lưỡi cô, lần sờ từng chiếc răng đều tăm tắp của cô. Ngón tay trắng nõn lướt qua lướt lại giữa đôi môi đỏ thắm của cô, nhìn sao cũng muôn vẻ trữ tình, đầy tính ẩn dụ.
Ngón tay anh rút ra khỏi môi cô, dính một sợi chất lỏng trong suốt, lướt qua trước mắt cô. Trên mặt cô ửng đỏ vẻ động tình, anh luồn tay xuống dưới vạt xường xám của cô, cởi đồ lót cô ra. Đầu ngón tay dính dịch nhờn tìm được một điểm, Dư Phi “á” lên một tiếng, cả người co lại như bị điện giật.
Anh vân vê cô, cô lập tức gần như suýt khóc, vùng vẫy như sắp chết chìm trong nước: “A Phỉ!”
Cô như một con cá giãy giụa trong đống bùn, vật lộn hồi lâu, anh liền xông vào từ sau lưng cô. Tư thế này là tư thế Dư Phi sợ nhất, cô luôn không chống đỡ được lâu. Nhưng đêm nay anh hăng say một cách khác thường, lật qua lật lại, khiến Dư Phi cuối cùng tắt cả tiếng. Giữa chừng anh bật đèn trần bên mép giường lên, Dư Phi cũng có thể cảm nhận được ánh đèn nóng rẫy chiếu trên lưng cô. Cô biết anh đang nhìn ngắm cơ thể cô, thậm chí còn nhìn cả nơi họ giao hợp, cảm giác này khiến cô thấy thẹn thùng khôn cùng. Cô rốt cuộc cũng biết công tắc đèn ở đâu, vùng vẫy nhoài người ra muốn tắt đèn đi, lại bị anh ôm chặt lấy đè ở đầu giường, vừa chậm vừa nặng đâm hai cái. Dư Phi rên rỉ thành tiếng, rốt cuộc chịu thua, bám lấy đầu giường gục xuống, tiện cho anh càng vào sâu hơn, nửa người trên lại ưỡn cao lên.
Trên lưng cô vẫn còn in dấu hai lằn roi. Ban đầu hai roi này thực sự hằn vào thịt quá sâu, thuốc Thứ Cơ cho dù tốt cũng không xóa bỏ được hai lằn này.
Đầu lưỡi ướt át liếm lên vết tích dài hẹp thô ráp, cô run lên từng hồi.
Giọng anh mơ hồ như tiếng bước chân trong sơn cốc vắng lặng. Anh hỏi: “Còn đau không?”
Giọng Dư Phi mềm nhũn: “Đã sớm không đau nữa rồi.”
“Trước đây bị thương nhiều như vậy, là ai đánh em thành ra thế?”
Đầu óc Dư Phi mơ màng, nghĩ bụng anh thế mà vẫn nhớ được những chuyện hồi trước xa xôi đến vậy, cả người cô bủn rủn không chống đỡ nổi, gục xuống gối.
“Phường kịch đánh.” Cô đáp.
“Em làm sai chuyện gì, sao họ lại đánh em?”
“Không, tôi không sai. Tôi chưa từng sai.” Cô nhắm mắt lại, thì thào.
Anh liền tắt đèn, lật người cô lại, khi nông khi sâu hôn cô.
***
Hai ngày sau, Dư Phi ngồi tàu hỏa trở lại Bắc Kinh.
Cũng không phải có việc gì gấp, mà là có tin mừng – Cô được học viện hí khúc gửi thư thông báo trúng tuyển, kèm theo đó còn là một niềm vui lớn hơn, cô chẳng những lấy được học bổng mà thầy hướng dẫn cô xin học còn vui vẻ thu nhận cô, bảo cô khi nào rảnh thì cùng nhau gặp mặt một chút, ông đang có khóa học mới, nếu cô có hứng thú thì có thể tham gia học sớm.
Khu vườn nhỏ hoang vu của cô bỗng chốc được một luồng sáng nhỏ rọi vào.
Suốt hơn một năm nay, cô nhận thức được rất rõ mình là kẻ chỉ có hai bàn tay trắng. Cô hoảng hốt bước đi trên mảnh đất cằn cỗi sỏi đá, mây đen nặng nề, cô bị đạp xuống ao đầm đầy băng vụn rồi lại chật vật bò ra ngoài, hiện giờ cuối cùng cô cũng nhìn thấy được một tia sáng.
Trong lòng cô vui mừng mà có phần lúng túng, lảo đảo chực ngã, ngồi trên tàu ngắm phong cảnh một đường hướng bắc, cô cảm thấy có chút mê mang.
Trong lòng cô luôn ẩn giấu một cái đáy, đó mới là thế giới thuộc về riêng cô. Cô nhớ đến một câu Thứ Cơ từng nói, “Cá nhảy khắp biển rộng, bỉ ngạn nở rợp trời”, cô cảm thấy câu này thật giống với tâm trạng của cô thời khắc này.
Bạch Phỉ Lệ vốn cũng định về Bắc Kinh, nhưng khi họ đang cùng nhau đến ga tàu thì anh lại nhận được một cuộc điện thoại, đưa Dư Phi đến đó rồi, lại vội vội vàng vàng vòng xe quay trở lại.Dư Phi không hỏi anh có chuyện gì, cô cảm thấy chuyện cô đã không hiểu thì không việc gì phải hỏi nhiều.
Hạ tuần tháng Sáu ở Bắc Kinh đã hoàn toàn bước vào mùa hè nóng bức, vừa khô vừa nóng. Phòng trọ hơn một tuần không có người ở, tuy đã đóng cửa sổ nhưng bụi bặm tích lại vẫn rất dày.
Dư Phi quét dọn xong một lượt thì Tiểu Phất Điệp tới. Con bé vừa mới thi xong cuối kỳ, sắp phải về nhà. Đợt trước con bé say mê nuôi thực vật mọng nước, Mã Phóng Nam Sơn thấy nó cực cực nhọc nhọc nuôi ất nữ tâm (*), hai ba tệ một cây nhỏ bằng đầu ngón tay, nuôi một chậu chết một chậu, nhìn mà sốt ruột, bèn mua cho con bé một chậu ất nữ tâm đã lớn, coi như giao cho nó nuôi hộ. Lần này con bé phải về nhà, bèn đem chậu ất nữ tâm đã lớn này đưa qua cho Dư Phi chăm sóc.
(*) Thực vật mọng nước là những loại cây tích trữ rất nhiều nước trong thân, lá, rễ, ví dụ như cây lô hội, sen đá,… Ất nữ tâm là một trong những loài cây mọng nước, tớ không biết tên tiếng Việt của nó là gì, nghe đồn là cây thạch đậu, nhưng có vẻ cũng không đúng lắm, ai biết là tên thông dụng của nó là gì thì cmt cho tớ biết với nha.
Nhìn nó thế này này:
– Đọc nhiều truyện hơn tại website ngontinhplus.com –
Tiểu Phất Điệp liên miên không dứt dặn dò Dư Phi cách nuôi chậu ất nữ tâm, có gì cần chú ý, sau cùng bồi một câu: “Chậu cây lớn này nuôi mất nhiều năm lắm đó, giá cả cao cực kỳ, trên thị trường phải một hai ngàn ấy, chị họ, chị mà nuôi chết nó thì chị chết với em!”
Dư Phi liếc xéo con bé: “Mã Phóng Nam Sơn tặng em cây hoa đắt vậy cơ à?”
Tiểu Phất Điệp đáp lại cô bằng một nụ cười khẩy: “Chị đừng nghĩ anh ấy có ý gì với em. Hơn một ngàn tệ đối với anh ấy chỉ là nước rửa tay thôi.” Thấy vẻ mặt Dư Phi không có vẻ gì là bị thuyết phục, bèn nói tiếp: “Thực ra chơi cosplay là chơi sang lắm đấy, ngoại trừ em là có sẵn nhà làm xưởng may ra thì hoàn cảnh gia đình của đa số những người khác đều không tệ. Đương nhiên lợi hại nhất thì vẫn là lão gia Quan Sơn của chị rồi, ban đầu Cưu Bạch không có ai đầu tư cũng không có thu được lợi nhuận, nguồn vốn khởi động đều là của anh ấy cả. Vừa ra tay đã chơi ngay quả kịch sân khấu 2D lớn như vậy, chị nói xem có lợi hại không chứ?”
Dư Phi nhướng mày, nói: “Chị ở Cưu Bạch lâu vậy rồi, sao chưa từng nghe ai nói qua nhỉ?”
Tiểu Phất Điệp le lưỡi, đáp: “Người trong Cưu Bạch cũng không biết đâu. Thực ra em cũng chỉ là phát hiện được trong lúc vô tình thôi. Hai ngày trước Cửu ca ra ngoài họp với người bên SE, trên đường phát hiện ra có tài liệu quên đem theo nên gọi điện thoại bảo em mang sang. Lúc đi em lén xem trộm một chút, vãi thật chứ, hồi trước em hay bị mẹ bắt xem báo cáo tài vụ á, nên thực ra em đọc hiểu được.” Con bé chột dạ liếc Dư Phi: “Em không có nói với ai khác đâu, vì chị là vợ Quan Sơn nên em mới nói đó, em cứ tưởng chị biết sẵn rồi chứ.”
Tiểu Phất Điệp đi rồi, Dư Phi lấy con búp bê mặc kimono từ trong vali ra, ngay ngắn đặt lên cái bàn đối diện giường.
Cô ngồi xếp bằng trên giường, tóc tai bù xù, nhìn ngắm con búp bê kia hồi lâu, chợt hiểu rõ ra một điều.
Nửa năm nay, Bạch Phỉ Lệ chưa từng tặng cô bất kỳ cái gì.
Tiền công cô diễn “Công tử trong hồ” anh cũng chưa đưa cho cô, cũng không hề nhắc nhỏm gì đến.
Chẳng những không cho cô thứ gì, anh lại còn luôn đến chỗ cô ăn chực, chẳng qua là có mang theo nguyên liệu nấu ăn, mà bữa sáng thì lại nhất định ỷ cô mua cho.
Anh chỉ thỉnh thoảng hỏi cô có muốn xem vở kịch gì không, giúp cô mua vé mà thôi.
Anh chưa từng che giấu thân phận “con nhà giàu” của mình, đồ anh mặc, tai nghe anh đeo, đều là đồ tốt. Nhưng những thứ này tựa như một thứ vầng sáng ngời ngời mà không nhức mắt, một âm thanh êm dịu mà không ồn ào, bạn có thể cảm nhận được khí chất và tu dưỡng của anh, mà không cảm thấy bất an và kích thích.
Những thứ này đều là do anh tận lực khống chế. Kỳ thực cô có thể nhìn được rất rõ ràng, nhìn đến thấu tỏ.
Chỉ là thế cân bằng vi diệu anh tạo ra khi ở bên cô, đã bị vài câu nói bâng quơ của Tần Phong, và con búp bê mà người cha không biết chút gì về tất thảy những chuyện này, phá vỡ mất.
Buổi tối đó là một cái ngẫu nhiên, nhưng cũng có lẽ là một điều tất nhiên.
Cô nghĩ, Bạch Phỉ Lệ khi ở trên bờ Phật Hải nhặt mấy thứ giấy tờ chứng nhận học vị của cô, đã có cảm giác gì?
Lúc ngồi trên tàu hỏa đến thành phố Y, cô cười giễu anh là đồ ngốc chưa từng đi tàu hỏa, anh đã có cảm giác gì?
Cô chầm chậm cúi người. Cơ thể cô dẻo dai là vậy, hai tay cô đặt lên đùi, đầu vùi vào giữa hai tay.
***
Vài ngày sau, Dư Phi hẹn Lan Đình và một vài sư huynh đệ tỷ muội khác ở Thiện Đăng Đĩnh mà cô quen thân đi ăn, chúc mừng cô thi đỗ học viện hí khúc.
Chỗ ăn cơm được chọn là một quán bao tử bung Bắc Kinh lâu đời trên bờ Phật Hải. Quán này ăn ngon, giá cả phải chăng, lại được nhiều, trước đây ở Thiện Đăng Đĩnh, họ thường xuyên tới ăn, ông chủ rất quen mặt họ.
Hôm nay Dư Phi vừa đi gặp thầy hướng dẫn nên rất cao hứng, dùng tiền học bổng mới nhận bao một phòng nhỏ mời mọi người vào ăn. Một năm nay Dư Phi quanh quẩn nhiều nhất trong phạm vi Phật Hải, nhưng lại chưa từng trở lại Thiện Đăng Đĩnh, đêm nay gặp lại mọi người, tất cả đều cảm thấy thân thiết. Lúc ăn cơm nhắc lại chuyện Dư Phi gây vạ cho đám tiểu sư đệ Lan Đình, mọi người đều cười nghiêng ngả. Đến khúc vui, Dư Phi đập bàn:
“Vừa hay mấy ngày nay Thiện Đăng Đĩnh nghỉ diễn trùng tu, cả nhà có dám uống rượu không!”
Cả đám nhìn nhau, không biết là ai đầu têu, phun ra một tiếng “Uống!”
Thế thì náo nhiệt thật rồi. Dư Phi gọi ông chủ mang rượu lên, bia bủng rượu đế đều có, cho mọi người chọn lựa. Ông chủ híp mắt cười nói với Dư Phi: “Con nhóc hư hỏng này chỉ biết đầu têu xúi giục người khác làm chuyện xấu thôi!”
Dư Phi không thèm quan tâm mà cười xán lạn, vỗ một cái sau ót mình: “Còn không phải à? Chủ thuyền chỉ hận không thể dỡ luôn cái tính phản nghịch này ra khỏi gáy cháu ấy chứ.”
Ông chủ chỉ có thể lắc đầu: “Sợ rồi sợ rồi, để bác đóng cửa lại cho chúng mày, mấy đứa trộm trộm mà uống, chủ thuyền của mấy đứa tính tình nóng nảy, bác không đắc tội nổi đâu.” Nói đoạn, bảo người tặng thêm vài đĩa đậu bung và củ cải bào nhắm rượu lên rồi đóng cửa phòng bao lại.
Vừa có rượu vào, bầu không khí của cả bàn lập tức bốc lên. Vung quyền, đấu rượu, sắm vai chọc cười, nhất định phải đóng vai mình không rành mới chịu, tỷ như Lan Đình vốn chuyên đóng khuê môn đán (*) thì phải hát vai hoa kiểm (**) hùng hổ như Trương Phi, mà kiểu món nào cũng hát được như Dư Phi thì cũng chỉ có thể bắt cô diễn vai tiểu hoa đán thẹn thùng.
(*) Nguyên văn là 闺门旦, chỉ những vai tiểu thư khuê các hoặc những vai nữ hoạt bát ngây thơ.
(**) Nguyên văn là 花脸, chỉ những vai có tính cách mạnh mẽ thô bạo.
Cả đám đều uống say đến nóng hết cả đầu, một sư tỷ cười nói: “Phi sư muội, đêm nay em uống nhiều vậy, về nhà kiểu gì? Em đâu có giống bọn chị, đi hai bước là có thể về Thiện Đăng Đĩnh ngủ.”
Lan Đình nói: “Lư sư tỷ, chị không cần phải lo đâu, Phi sư tỷ của chúng ta hiện giờ nhìn giống người độc thân à?”
Cả đám đồng loạt “Áaaa” một tiếng dài, trong mắt lóe ra đủ thứ ánh sáng tràn ngập hứng thú.
Lan Đình kỳ thực cũng chỉ nói dò thử chơi, Dư Phi là người ngay thẳng, chỉ cười, không nói phải cũng không nói không phải. Mọi người đều nhìn ra được đầu mối, Lư sư tỷ rèn sắt khi còn nóng: “Người Phi sư muội nhìn trúng, chắc chắn là đẹp trai đến độ trời phạt đất diệt rồi, hay là mang tới cho mọi người xem chút đi!” Bà chị nhìn mọi người trên bàn, hai tay giơ lên, ý bảo mọi người hưởng ứng cùng: “Cả nhà chịu không nào?”
Cả đám tất nhiên là trăm miệng một lời: “Được!”
Dư Phi xoay xoay cái di động trong lòng bàn tay, buổi sáng khi cô đặt chỗ đã nhận được một tin nhắn của Bạch Phỉ Lệ, báo là là hôm nay trở lại Bắc Kinh. Cô nói Sao đột ngột thế, tối nay tôi hẹn bạn đi ăn mất rồi, cả nửa ngày sau mới thấy anh nhắn lại: Muốn gặp em.
Khi đó cô rất cảm động, không biết phải nhắn đáp lại anh thế nào, luôn cảm thấy những lời thân mật này, nói trực tiếp vẫn tốt hơn.
Điện thoại trong tay xoay vài vòng, cô gửi cho Bạch Phỉ Lệ một tin nhắn: Đã tới chưa?
Anh trả lời lại rất mau: Vừa mới hạ cánh.
Dư Phi nghĩ một chốc, gửi định vị quán ăn cho anh, nói: Tôi ăn ở đây, anh tới được không?
Anh đáp: Được.
Dư Phi ngẩng đầu lên nhìn mọi người, thẳng thắn thản nhiên cười: “Chút nữa anh ấy sẽ tới.”
Cả đám mừng rơn, nhao nhao chúc mừng cô. Ý nghĩa đằng sau lời chúc mừng này, trong lòng mọi người đều rõ cả, Dư Phi cũng hiểu, nhưng không nói thẳng ra.
Lại uống thêm mấy tuần, sư huynh nhiều tuổi nhất trong đám ngà ngà say, nói: “Dư Phi, thực ra mọi người đều rất hâm mộ em đó.”
Dư Phi thoáng sửng sốt, hỏi: “Em bị đuổi ra ngoài, ba năm không được lên sân khấu đó, có gì mà hâm mộ chứ?”
Sư huynh kia nói: “Em không biết đấy thôi, Thiện Đăng Đĩnh dạo này càng ngày càng khó làm ăn. Người tới xem kịch càng ngày càng ít đi, chủ thuyền tuy chưa từng nói gì, nhưng anh tự thấy, năm nay nhất định là hòa vốn rồi. Cứ tiếp tục thế này, cũng không biết còn có thể chống đỡ được bao lâu nữa.”
Lời sư huynh vừa nói ra, tất cả đều rơi vào im lặng. Lan Đình cúi đầu nói: “Phường kịch dân doanh vốn rất khó duy trì. Nghe nói những người có chút danh tiếng trong thuyền đều đang âm thầm tìm lối đi khác, bọn em cũng không biết còn có thể ở lại bao lâu. Phi sư tỷ, chị ra ngoài sớm, giờ lại là người có nơi có bến nhất đấy.”
Dư Phi hơi giật mình, hỏi: “Chủ thuyền không nghĩ được biện pháp nào sao?”
Lư sư tỷ nói: “Phi sư muội, giờ chị cảm thấy khi đó em nói đúng. Diễn kịch cổ nhiều như vậy, quá cũ kỹ, căn bản không hợp với gu người trẻ bây giờ, ví dụ như “Du long hí phượng” em hát đó, xem từ quan điểm thời nay, không phải chính là một tay hoàng đế lăng nhăng cưỡng đoạt dân nữ sao? Chiếm được trong trắng rồi lại còn lừa gạt con gái người ta, nói là sẽ đưa nàng về làm hoàng hậu. Giờ còn cô gái trẻ tuổi nào dính chiêu này nữa chứ! Nhưng chủ thuyền lại cứ cứng đầu cứng cổ không chịu thay đổi, nói là ông tổ Nghê Khả năm đó chính là diễn như vậy hát như vậy, cái chúng ta phải làm là truyền thừa, không phải là sáng tạo.”
Lời nói thấm thía như vậy, mọi người đều im lặng. Mắt thấy bầu không khí dần trở nên nặng nề, Lan Đình nói chen vào: “Đừng nói chuyện này nữa, nói cái khác đi! Phi sư tỷ, nghe nói cuối năm ngoái chị đánh Lưu Quân trên bờ Phật Hải phải không?”
Dư Phi ngạc nhiên hỏi: “Sao em biết?”
Một sư đệ khác ngồi bên cạnh nói: “Phi sư tỷ, chị đi qua đi lại ở đó mấy tháng, lúc nào mà chẳng có người thấy chứ? Chị cũng thật là, loanh quanh ở Phật Hải suốt mà chẳng chịu qua thăm chúng em lần nào cả.”
Trong đầu Dư Phi ù ù: Nếu đám Lan Đình đều biết khoảng thời gian đó cô tới đây đuổi đánh Lưu Quân thì liệu Nghê Lân và Sư Mi Khanh có phải cũng biết không? Có khi nào lại gây nên hiểu lầm gì không?
Sư đệ nọ chợt ý thức được mình lỡ lời, Dư Phi không đến Thiện Đăng Đĩnh, còn có thể là vì ai? Nhất thời chỉ hận không thể tát cho mình một phát. Vẫn là đại sư huynh kia giải vây: “Không phải hôm nay Dư Phi đã tới rồi sao! Nào nào! Uống đi, uống đi!”
Cả đám ầm ĩ “Uống uống uống!”, rượu nhanh chóng lại cạn sạch. Lan Đình ra ngoài đẩy cửa gọi ông chủ mang rượu lên, xoay người khép cửa lại, trở lại chỗ ngồi xoa bụng nói: “Hây dà, uống rượu sảng khoái thật!”
Dư Phi dạy dỗ cậu: “Chỉ hôm nay thôi đấy, sau này không được uống nữa!”
Lan Đình có chút rượu vào, lá gan cũng lớn lên, vặc lại Dư Phi: “Phi sư tỷ, nhìn chị giờ nốc rượu sảng khoái thế này, hơn một năm nay khẳng định là uống không ít đâu nhỉ, chị còn lên lớp em nữa à!”
Dư Phi: “Ôi cái thằng cọng giá nhà bây, giờ thẳng lưng thẳng eo rồi thì không thèm coi chị ra gì nữa đúng không? Năm đó là chính chị tay hốt phân tay đổ nước tiểu nuôi mày lớn đấy nhé.”
Lan Đình tức điên: “Lúc đó em đã mười một rồi, ai ị đùn tè dầm bắt chị dọn chứ?!”
Cả đám cười phá lên ầm ĩ, một hồi lâu không thấy ông chủ mang rượu lên cho, Lan Đình lại lầu bầu đứng dậy đi giục. Vừa mở cửa hô một tiếng “Ông chủ”, nhất thời bị người trước mắt dọa sợ đến thất hồn lạc phách, lùi về sau hai bước, nơm nớp nép bên tường, thân mình gầy nhỏ còn khẽ run lên.
Toàn bộ phòng bao đều chìm vào tĩnh mịch.
Ông chủ đi phía sau người kia, còn nghĩ tới nghĩ lui muốn khuyên nhủ vài câu, nhưng thấy người nọ mặt lạnh như tiền, đành thở dài hai cái rồi ỉu xìu bỏ đi.
Nghê Lân mặc trường sam bằng lụa mỏng, đứng ngoài cửa phòng bao. Trong phòng mùi rượu nồng nặc, khắp bàn chỉ toàn chai bia rỗng và chén cốc ngập rượu.
Y lạnh lùng lên tiếng: “Ai nói uống rượu?”
Mọi người đều im lặng.
Dư Phi ngồi đó, cùi chỏ chống lên tường, ngón tay chống đầu, vẻ mặt đầy phản nghịch và ngạo mạn, đáp: “Tôi.”
Nghê Lân quét mắt nhìn cả đám, nói: “Mấy đứa về hết đi.”
Cả đám nhìn nhau, chần chừ lưỡng lự.
Nghê Lân nói: “Không muốn tôi nói với chủ thuyền thì mau về đi.”
Dư Phi nói: “Mọi người đi trước đi, nếu để chủ thuyền biết thì thành ra tôi làm liên lụy đến mọi người mất rồi. Sư thúc cùng lắm chỉ mắng tôi một trận thôi chứ làm gì được tôi nữa đâu?” Cô phất tay với cả đám, dáng vẻ như chẳng sao cả: “Đi nhanh đi, gặp lại sau!”
Mọi người ra sau lưng Nghê Lân, dùng khẩu hình nói với cô “Bảo trọng” “Cẩn thận” “Nhịn một chút” các kiểu rồi nối đuôi nhau ra ngoài.
Dư Phi dựa lưng vào tường, ngón tay cầm đũa chọc chọc, lười biếng đảo đảo hát đậu bung trong bát, hỏi: “Sư thúc ăn chưa? Chưa thì ngồi xuống ăn chút đi.”
Nghê Lân chắp tay sau lưng: “Rượu vào rồi còn nhớ ra tôi là sư thúc của em cơ à?”
Dư Phi ngước mắt lên nhìn y: “Tôi không coi thầy là sư thúc thì coi thầy là gì?”
Trời sinh cô từ trong xương đã mang ba phần xinh đẹp phóng túng, uống rượu vào lại càng không giấu được. Cô ngồi trên băng ghế, ghế kê sát bàn, vai cô lại ngả ra sau tựa lên tường, tư thế ngồi nửa thẳng nửa nghiêng đó phô bày toàn bộ dáng người thon thả.
Nghê Lân không nói không rằng đi tới, một cước đá bay cái ghế cô đang ngồi ra ngoài một mét.
Eo Dư Phi được luyện tập rất khá, ghế bay ra ngoài rồi mà người vẫn không đổ, vai lưng chống lên tường, thu chân ưỡn hông một cái, người đã đứng lên.
Nghê Lân lạnh lùng hỏi cô: “Hơn một năm nay em đã làm những gì?”
Dư Phi đáp: “Thầy đã sớm không phải là sư thúc của tôi nữa thì lấy tư cách gì mà dạy dỗ tôi.”
Cô còn chẳng thèm kiêng nể gì mà ợ rượu một cái.
Nghê Lân cười lạnh: “Tôi không có tư cách, vậy còn ai có tư cách?”
Dư Phi căm hận thấu xương nhìn y chòng chọc, cất cao giọng gào lên: “Kể từ lúc tôi bị đuổi khỏi Thiện Đăng Đĩnh, thầy không thèm giữ tôi lại, thầy đã không còn tư cách nữa rồi!”
Nghê Lân chợt cầm cốc nước lạnh trên bàn lên, hắt toàn bộ vào mặt cô!
Y trách mắng: “Em tỉnh táo lại được chưa hả! Tôi giữ em lại làm gì? Nghê phái trước nay chưa từng chuyên vai lão sinh, là vai đán, sư phụ em muốn tuyển em vào là vì muốn em làm nền cho tôi, em ở lại Thiện Đăng Đĩnh thì có tiền đồ gì chứ?!”
Trong đầu Dư Phi “đoàng” một tiếng nổ tung.
Cô nhất thời không nghĩ ngợi được gì nữa.
Có quá nhiều thứ bỗng chốc ầm ầm xông vào đầu cô, đạp đổ hết mọi ký ức của cô, đánh thẳng vào tất cả căn cơ cảm xúc của cô.
Người cô lảo đảo hai cái, chống tay lên bàn mới miễn cưỡng đứng vững được.
Cô nhớ lại, phải rồi, Nghê Khả giỏi nhất là vai đán, Nghê Lân là truyền nhân của Nghê gia, từ nhỏ cũng là luyện vai đán. Trong hàng đệ tử nhỏ tuổi cùng lứa với cô, chỉ có Lan Đình được Nghê Lân tự mình chọn lựa dạy dỗ, cũng là chuyên hát vai đán.
Còn cô thì sao, lúc nhỏ sau khi luyện chắc kiến thức cơ bản rồi thì lập tức được sắp xếp hát với Nghê Lân. Khi đó cô vui mừng nhường nào, lập chí nhất định phải hát tốt nhất, như vậy mới xứng với Nghê Lân. Vậy nên bên cạnh việc học hát với sư phụ, cô đã đổ không biết bao nhiêu công sức, rèn luyện học tập đủ kiểu hát vai lão sinh, mài giũa ngón giọng của mình.
Vậy nhưng cô lại chưa từng nghĩ đến, Thiện Đăng Đĩnh trước nay không hề muốn cho cô trở thành một đóa hoa mà chỉ cần cô làm một tán lá xanh.
Mà cô thì lại luôn nhiệt tình muốn nở thành một đóa hoa rực rỡ.
“Tôi cứ cho rằng với tính cách của em, rời khỏi Thiện Đăng Đĩnh rồi cũng có thể tự mình vạch ra được một con đường. Em muốn vào học viện hí khúc, được, bên thầy giáo hướng dẫn của em, tôi đã đề cử em với ông ấy, nói căn cốt của em rất tốt. Nhưng sau đó thì em lại làm cái gì?”
Y “bốp” một tiếng, ném cái điện thoại bao ốp hình gấu màu hồng lên bàn, trong điện thoại phát ra một đoạn ghi âm, “Lan hoa chỉ vê hồng trần tựa nước…” mê mê hoặc hoặc, chính là khúc “Diễn rối dây” cô hát đêm đó trên kênh voice!
“Đây là thứ mà em hát đấy à!”
Nghê Lân chưa từng nổi giận như vậy.
Dáng vẻ của y vẫn luôn tao nhã ẩn chứa lạnh lùng, Dư Phi chưa từng thấy y giận dữ như vậy.
Cô bị dọa đến độ lùi về sau một bước, nhìn y, không dám hó hé gì.
“Tôi ở Thiện Đăng Đĩnh nghe một cô bé giúp việc bật cái này, người khác nghe không ra, nhưng tôi chẳng lẽ lại nghe không ra?! Em hát cái thứ gì đây! Tôi dạy em hát hí khúc mười năm, là để em đi hát cái thứ rác rưởi rắm chó này sao?!”
Y chưa từng xẵng giọng như vậy.
Y chưa từng độc miệng như vậy.
Câu này, từng tiếng từng tiếng, so với những lằn roi thép vụt vào cô năm đó còn đau buốt hơn, khiến cô khổ sở, khiến cô xấu hổ mà quằn quại!
Y vẫn đang nói tiếp!
“Em là một cái cây rụng tiền – nếu suy nghĩ cho Thiện Đăng Đĩnh, tôi đã chẳng để em đi. Nhưng em là người có thể hóa rồng hóa phượng, tôi không thể để vũng nước cạn Thiện Đăng Đĩnh này giam giữ em được. Dư Phi em, là người muốn được giang rộng cánh bay cao, không phải là người cả đời chỉ biết ê ê a a hát hoa hải đường phong lưu. Tôi muốn thấy em rời khỏi đó hát Thất Không Trảm, cũng muốn thấy em hát Văn Chiêu Quan! Nhưng em thì lại ở đây mà hát cái gì hả! Phong Hà à? Cái tên Phong Hà này xứng với em sao!”
Dư Phi cúi đầu thật thấp trước mặt Nghê Lân.
Mái tóc dài dày dặn của cô rủ xuống, che mất gần hết khuôn mặt. Mười ngón tay của cô nắm chặt lấy khăn trải bàn, khớp xướng ngón tay nhô lên cao, tái nhợt không chút huyết sắc. Khăn trải bàn của quán là một lớp vải nylon, bị cô nắm đến dúm dó.
Nghê Lân nhìn cô, tay hơi giơ ra, rồi lại thu về sau lưng.
Y lạnh giọng nói: “Nếu em dám khóc trước mặt tôi, tôi coi như không biết em.”
Y còn nói: “Em tự giải quyết cho tử tế đi.”
Y phất tay áo bỏ đi.
Dư Phi gọi với sau lưng y: “Sư thúc.”
Nghê Lân dừng bước.
Dư Phi nói sau lưng y: “Chuyện tôi đánh đuổi Lưu Quân trên bờ Phật Hải hồi cuối năm, thầy và sư thúc mẫu đều biết cả rồi phải không?”
Nghê Lân thoáng khựng lại, không quay đầu, nói: “Biết, về sau em bớt làm mấy chuyện ngớ ngẩn đó đi.”
Dư Phi hỏi: “Sư thúc mẫu có khó chịu không ạ?”
Nghê Lân nói: “Cô ấy không sao.”
Dư Phi phân trần: “Tôi là sợ hắn làm hại sư thúc mẫu, không có ý gì khác.”
Nghê Lân xoay người lại, nói: “Chuyện đứa bé kia và em không liên quan gì tới nhau, em không cần phải để trong lòng.”
Dư Phi cúi đầu, không hé răng nửa lời.
“Em lo cho mình trước ấy…” Nghê Lân nói, “Cái tên Nhược Thủy gì gì hôm trước tỏ tình trước mặt mấy vạn người với em đó, tôi tìm xem hình của nó, nhớ ra cuối tháng Mười hai năm ngoái, nó có tới Thiện Đăng Đĩnh tìm tôi, hỏi em đi đâu.”
“Nhược Thủy? Anh ấy năm ngoái tới tìm tôi?” Dư Phi kinh ngạc nói, “Sao anh ấy biết được tôi là Dư Phi?”
Nghê Lân lạnh lùng đáp: “Sao tôi biết? Nó đầy mồm dối trá, em tốt nhất đừng có qua lại với cái loại bất nam bất nữ không đứng đắn này nữa, nó chỉ biết phá hủy em thôi! Nhìn em giờ xem, đã suy đồi đến mức nào rồi hả? Mặt mũi phong trần làm sao!”
Nghê Lân rời đi.
Dư Phi một mình ngồi lặng trong phòng bao hồi lâu, rốt cuộc cũng ngẩng đầu lên, chậm rãi đi ra ngoài.
Cô ra quầy thu ngân thanh toán rồi ra khỏi quán, thấy xe Bạch Phỉ Lệ đỗ bên ngoài, Bạch Phỉ Lệ khoanh tay dựa người vào đầu xe, nhìn bóng đêm mênh mang xa xa, cũng không biết là đang suy nghĩ cái gì.
Dư Phi gọi anh: “Bạch Phỉ Lệ.”
Anh quay đầu lại thấy cô thì đi tới. Anh vẫn mặc trang phục như trước, chỉ là dưới ánh đèn, lại mang theo một cảm giác mệt mỏi tái nhợt.
Cô hỏi: “Anh tới từ bao giờ?”
Anh đáp: “Mới nãy.”
“Sao không nói cho tôi biết?”
“Không phải em phát hiện ra rồi à?” Anh mở cửa xe bên ghế cạnh ghế lái ra cho cô.
Dư Phi ngồi vào. Cô quả thực uống hơi nhiều rượu, vừa rồi bị Nghê Lân tạt cho một cốc nước, đã tỉnh táo được đôi chút, nhưng giờ hơi rượu lại bốc lên, khiến cô buồn ngủ.
Bạch Phỉ Lệ lái xe đưa cô về dưới tòa chung cư, cô đã ngủ rất say. Bạch Phỉ Lệ lay gọi cô dậy, gần như là nửa tha nửa bế cô lên tầng ba.
Vào phòng trọ rồi, cô lập tức sán lại, ôm lấy cổ anh hôn anh.
Cô nói: “Tôi cũng nhớ anh…”
Anh không nói lời nào đứng đó, mím chặt môi, để mặc cô nôn nóng hôn bờ môi anh, hôn lên cằm, lên cổ anh.
Anh nhìn cô từng khuy từng khuy cởi áo sơ mi của mình ra, cởi đến khuy thứ ba, anh đột nhiên hỏi:
“Dư Phi, tôi là sư tử của em phải không?”
Cô mông lung mở to đôi mắt phượng hơi xếch lên nhìn anh, trông ngây thơ vô tội hết sức.
Anh lại hỏi: “Phải không?”
Cô “ha” một tiếng, không trả lời, lại hôn lên xương quai xanh tinh xảo và chỗ lõm giữa hai xương quai xanh của anh, lại cởi một khuy áo nữa của anh ra.
“Vậy em có coi tôi là bạn trai của em không?”
Cô vẫn không trả lời, hai tay luồn vào dưới áo anh, ôm chặt lấy eo anh, vùi đầu vào ngực anh, hít thật sâu hương thơm lành lạnh thanh sạch trên người anh.
Hai bàn tay anh dần nắm lại.
Ngay khi cô định tiến thêm bước nữa, anh chợt đẩy cô ra, khiến cô ngã ngồi lên giường.
“Em cứ nhất định phải thẳng thắn như vậy sao, đến cả một câu nói dối cho tôi vừa lòng cũng không chịu nói?”
Anh rời khỏi phòng trọ của cô.
Dư Phi mù mờ ngồi bên giường, như thể không hiểu nổi vì sao anh lại đột nhiên đối với cô như vậy. Nhưng cơn buồn ngủ đặc quánh ập tới, cô nhanh chóng ngã xuống giường, nặng nề thiếp đi.
***
Hôm sau, Dư Phi tỉnh lại, nhớ mang máng là đêm qua Bạch Phỉ Lệ đưa cô về nhà rồi rời đi, lại nhớ loáng thoáng anh có hỏi cô chuyện “sư tử” gì đó, cô mơ hồ cảm thấy Bạch Phỉ Lệ có chỗ nào đó không đúng, bèn gửi tin nhắn cho anh, hỏi anh rảnh lúc nào, cô muốn nói chuyện với anh một chút.
Đợi cả ngày anh mới trả lời:
Gần đây nhiều việc, để sau đi.
Dư Phi nhìn chằm chằm tám chữ này hồi lâu, ngón tay cái chợt ấn lên tin nhắn Bạch Phỉ Lệ gửi tới kéo sang trái một cái, nhấn “xóa”.
Nhắm mắt làm ngơ.
Cả ngày nay cô cứ nghĩ lại những lời Nghê Lân nói. Nghê Lân không muốn cô và Bạch Phỉ Lệ bên nhau, lời này cô chắc chắn sẽ không nghe theo. Trước đây những gì sư phụ và Nghê Lân nói, cô cũng không phải là bảo gì nghe nấy, nếu không đã chẳng bị chủ thuyền đánh đến nỗi phải sang Văn Thù Viện lấy thuốc.
Nhưng không nghe cũng không có nghĩa là cô không bị áp lực. Cô hi vọng Bạch Phỉ Lệ có thể cho cô chút ít lòng tin – dù cho cân bằng đã bị phá vỡ hay là bị Nghê Lân phản đối – cô hi vọng có thể chứng minh cô đúng, Nghê Lân đã sai.
Nhưng thái độ của Bạch Phỉ Lệ lại khiến cô thất vọng.
Cô lạc quan nghĩ một thời gian nữa Bạch Phỉ Lệ sẽ ổn lại thôi. Tính anh khi nóng khi lạnh, cô quen rồi cũng chẳng cảm thấy có gì lạ lùng. Hoặc có lẽ, anh thật sự bận rộn nhiều việc thật, chuyện của cả studio Cưu Bạch lẫn bên ba anh, có vẻ như anh đều phải gánh, chỉ hận không thể chia thành hai người mà làm.
Trước khi ngủ, cô nhận được tin nhắn WeChat của ngài Lâu, chúc mừng cô thi đỗ vào học viện hí khúc, cũng báo cho cô biết rằng hôm nay y đến Bắc Kinh, sẽ lưu lại đây một khoảng thời gian, khi nào rảnh có thể ăn chung một bữa cơm.
Cô lễ phép tỏ ý cảm ơn, lại hỏi ngài Lâu làm sao biết được cô thi đỗ, ngài Lâu nói là có người bạn quen thầy hướng dẫn của cô đề cập là học viên mới vào năm nay có một viên ngọc để sót của Lê viên.
Lời mời ăn cơm của ngài Lâu, Dư Phi không mấy để tâm. Nhưng vài ngày sau, lúc cô đi tìm thầy hướng dẫn bàn về khóa học mới của ông thì gặp được một vài bạn học trong tương lai khác. Trong lúc vô tình, cô nghe một người bạn học nói đến hiện trạng sinh tồn hiện giờ của các phường kịch dân gian đều rất khó khăn, đến cả Thiện Đăng Đĩnh từng một mình một ngọn cờ giờ cũng đầy mối nguy cơ.
Lúc này cô mới ý thức được rằng Thiện Đăng Đĩnh có lẽ thực sự xảy ra vấn đề rồi. Xế chiều hồm đó, cô đi một chuyến tới Phật Hải, hẹn bà chị ở phòng bán vé của Thiện Đăng Đĩnh đi uống trà, lựa lời hỏi thăm, mới biết được hơn một năm qua sau khi cô đi, thu nhập của Thiện Đăng Đĩnh đều dựa cả vào một mình Nghê Lân diễn xướng, những vở kịch khác đều không thu được lợi nhuận như mong muốn. Giữa chừng Thiện Đăng Đĩnh có cho tu sửa lầu hí kịch cổ, may lại trang phục diễn, làm đạo cụ mới, quảng cáo tuyên truyền, chi ra một khoản tiền lớn, hiệu quả rốt lại vẫn không có gì lý tưởng. Bà chị kia uống hết một ấm trà, nói: “Còn tiếp tục thế này, tiền công cũng chẳng phát nổi mất, Thiện Đăng Đĩnh còn mở làm gì, bán lầu đi giải tán cho rồi.”
Dư Phi suy đi nghĩ lại cả đêm, cuối cùng, hẹn ngài Lâu ngày kế đi ăn. Ngài Lâu vui vẻ nhận lời, nhưng nói với cô là y có một hội nghị quan trọng, đoán chừng phải ở đó cả ngày, bảo cô buổi trưa tới hội trường tìm y.
Dư Phi đúng hẹn tới. Nơi ngài Lâu họp là tòa nhà nổi bật nhất trong khu CBD (*), hẹn cô ăn ở một nhà hàng kiểu Quảng Đông dưới tầng một. Hàn huyên đôi lát, ngài Lâu hỏi: “Sao hôm nay lại chủ động tìm tôi mời ăn thế?”
(*) Viết tắt của Central business district, trung tâm thương mại và làm việc của một thành phố.
Dư Phi cũng không quanh co với ngài Lâu, đơn giản ngắn gọn nói rõ mục đích đến. Cô cảm thấy ngài Lâu là người va chạm xã hội nhiều, giỏi suy tính, hi vọng y có thể nghĩ cách cho Thiện Đăng Đĩnh.
Ngài Lâu cười cười, nói: “Cứ coi như tôi có cách đi, chủ thuyền của em liệu có nghe không?” Thấy Dư Phi im lặng, lại nói: “Tôi đã từng quyên tiền giúp đỡ Thiện Đăng Đĩnh, từng trò chuyện với chủ thuyền và cả sư phụ của em, ý nghĩa tồn tại của Thiện Đăng Đĩnh kỳ thực rất đơn giản, chính là để truyền thừa nghệ thuật Nghê phái. Nghê phái thực đúng là một trường phái vô cùng có giá trị di sản văn hóa, tỷ như khiêu công (*) vậy, tôi thích xem vô cùng, đó cũng là lý do tôi quyên tiền. Hiện giờ người biết khiêu công chỉ có mình sư thúc Nghê Lân của em thôi đúng không? Đáng tiếc là anh ta chẳng còn mấy khi diễn nữa.”
(*) Nguyên văn là 跷功, một trong những kỹ thuật diễn hí khúc, khi biểu diễn trên chân buộc một cái chân nhỏ bằng gỗ để bắt chước cách đi của những người phụ nữ bó chân, trở thành một trong những kỹ năng đặc biệt khi diễn vai hoa đán.
“Chuyện truyền thừa này, thực ra chỉ có nhà nước làm được thôi. Thiện Đăng Đĩnh của các em vừa muốn truyền thừa lại vừa muốn kiếm tiền, đó chính là một cái tự mâu thuẫn, tôi có thể nghĩ cách gì đây?”
Dư Phi ở Thiện Đăng Đĩnh nhiều năm như vậy, biết những lời này của ngài Lâu chính là điểm mấu chốt. Chủ thuyền vẫn luôn không cho phép cô tự mình cải biên, tất nhiên chính là để bảo tồn nguyên chất nguyên vị của Nghê phái, là để truyền thừa. Cô không thể nào phản biện, trầm tư rồi nói: “Thiện Đăng Đĩnh đã nhiều năm như vậy, ngoài dựa vào phòng bán vé độc lập, ít nhiều cũng là nhờ vào những người quyên giúp như ngài.”
Ngài Lâu nhìn ra được cân nhắc trong giọng cô, cười nói: “Em muốn thuyết phục tôi quyên một khoản tiền nữa để giúp Thiện Đăng Đĩnh vượt qua khó khăn phải không?”
Dư Phi cúi đầu, đáp: “Một khoản tiền đối với ngài có lẽ chẳng là gì, nhưng e rằng vậy cũng đủ để Nghê phái sống sót.”
Tiếng cười của ngài Lâu lớn hơn, cũng không trả lời ngay câu hỏi của cô mà đổi một tư thế ngồi khác, thân thể nghiêng về phía Dư Phi, nói: “Xem ra em giờ rốt cuộc cũng hiểu được một chuyện: Nghệ thuật cần được cung dưỡng. Giống như Theo với Van Gogh, như Eusebi Güell với Antoni Gaudí, như Charles Saatchi với Damien Hirst (*). Không có nguồn cung dưỡng, nghệ thuật sẽ rất khó có thể là nghệ thuật độc lập, thuần túy. Em có muốn làm nghệ thuật gia không?”
(*) Vincent van Gogh (1853 – 1890) là danh họa người Hà Lan thuộc trường phái hậu ấn tượng, có ảnh hưởng rất lớn tới nền mỹ thuật hiện đại, Theo tức Theodorus van Gogh là em trai của Vincent van Gogh, một người quan trọng trong sự nghiệp của Van Gogh, đã luôn quan tâm lo lắng và hỗ trợ tài chính cho ông; Antoni Gaudí (1852 – 1926) là nhà kiến trúc người Catalan, người đã phát triển trường phái kiến trúc Catalan Tân thời, Eusebi Güell (1846 – 1918) là nhà tư bản đã có đóng góp lớn lao cho cuộc cách mạng công nghiệp ở Catalonia vào cuối thế kỷ XIX, đồng thời là người đã hỗ trợ, đầu tư cho các công trình kiến trúc của Gaudí; Damien Hirst (sinh năm 1965) là một nghệ thuật gia người Anh, người đã đóng góp rất nhiều tác phẩm nghệ thuật cho nước Anh những năm 90s, Charles Saatchi (sinh năm 1943) là một doanh nhân, nhà sưu tầm Do Thái mang hai dòng máu Iraq – Anh, là người đóng góp vai trò quan trọng về mặt tài chính trong sự nghiệp của Hirst.
Dư Phi chần chừ đôi chút, nói: “Chuyện đó còn xa.”
Ngài Lâu buông đũa, nói: “Tôi sẽ nói rõ ràng với em, hiện giờ tôi không có ý định quyên giúp Thiện Đăng Đĩnh. Thiện Đăng Đĩnh vẫn chưa đến đường cùng, tôi cảm thấy họ phải chịu một bài học mới được…” Ánh mắt y nhìn sang Dư Phi, “Coi như tôi có lòng riêng, muốn báo thù cho em đi.” Y nở nụ cười, nếp nhăn trên mặt khi cười hằn rất sâu, trong ánh mắt lộ ra phần nào bông đùa của tuổi trẻ.
Dư Phi biết khó có thể thuyết phục được ngài Lâu, lời y nói cũng rất có lý, Thiện Đăng Đĩnh chưa đến mức cùng đường mạt lộ, một người ngoài thuyền như cô chưa gì đã lo sầu chuyện này, quả đúng là hơi nóng vội.
Ăn uống xong xuôi, ngài Lâu tiễn Dư Phi ra ngoài, tay trái lễ độ đỡ lấy eo Dư Phi, vừa đi vừa nói: “Tình cảm của em dành cho Thiện Đăng Đĩnh, tôi có thể hiểu được. Nhưng, hiện giờ không phải lúc để em bận tâm. Đợi đến khi họ thực sự không đi nổi nữa, chúng ta lại bàn tiếp, được không?”
Dư Phi gật đầu, nói tạm biệt với ngài Lâu. Đương lúc mau mau chóng chóng muốn rời khỏi tòa cao ốc này, chợt nghe có người gọi mình ở phía sau:
“Dư Phi.”
Là giọng Bạch Phỉ Lệ. Cô kinh ngạc quay đầu, quả nhiên là anh.
Anh ra hiệu bảo cô đi theo mình.
Tới một chỗ vắng người, anh hỏi cô: “Em quen Lâu Thích Đường?” Ngữ khí của anh chẳng lấy gì làm hiền hòa.
Thế giới này quả nhiên là rất nhỏ. Dư Phi sửng sốt một hồi rồi nhanh chóng khôi phục lại bình thường, Bạch Phỉ Lệ và ngài Lâu đều là người Lĩnh Nam, trên thương trường có biết nhau cũng chẳng phải chuyện gì kỳ lạ.
Cô đáp: “Quen, làm sao?”
Bạch Phỉ Lệ nhìn cô, chậm rãi nói: “Trước đây em nói với tôi, hi vọng không có bất kỳ ai khác chạm vào tôi. Tôi mong em cũng hiểu được, tôi đối với em cũng giống vậy.”
Trong lòng Dư Phi như bị gai nhọn đâm cho một cái. Chỉ bởi vì ngài Lâu đỡ eo cô thôi ư? Cô cảm thấy thật châm chọc, tính phản nghịch dậy lên trong lòng, cười lạnh nói: “Đúng vậy, cứ coi như ông ấy làm gì tôi rồi đi, đó cũng là do tôi muốn cầu cạnh ông ấy. À, không phải là anh đã biết tôi là Dư Phi của Thiện Đăng Đĩnh rồi sao? Không phải nhà anh có rất nhiều tiền, thuận tay vung một cái là có thể dựng kịch sân khấu sao? Thiện Đăng Đĩnh sắp toi tới nơi rồi, anh có thể giúp đôi chút không?”
Bạch Phỉ Lệ không có biểu cảm gì: “Tôi không giúp được em.”
“Vậy cũng phải, vốn tôi cũng chẳng trông cậy gì vào anh.”Dư Phi nói một cách lạnh lùng, xoay người rời đi.
“Em đứng lại.” Bạch Phỉ Lệ gọi cô lại.
“Anh còn muốn thế nào nữa?” Dư Phi dừng bước quay người lại, nói, “Từ đầu tới cuối anh đã biết tôi là Dư Phi, lại giả bộ không biết, tôi còn chưa tính toán gì, anh còn muốn thế nào nữa?”
Trái tim Bạch Phỉ Lệ như chìm vào băng giá, nói: “Lời sư thúc em nói, quả nhiên em đều nghe cả. Tôi sao biết được em là Dư Phi? Hai chữ Dư Phi này, là đêm đó Tần Phong nói cho tôi biết.”
Trong lòng Dư Phi nhất thời thông suốt vì sao mấy ngày nay anh lại tỏ ra quái đản như vậy. Cô trào phúng cười: “Tần Phong nói cho anh biết? Tần Phong còn nói gì cho anh biết nữa? Lời Tần Phong nói với anh, không phải anh cũng nghe hết, ghi tạc hết trong lòng đấy sao?”
Đột ngột nói toạc ra như vậy, lạnh lẽo thấm tận xương, cả hai người đều lập tức rùng mình.
Dư Phi cười nhạt: “Có phải Tần Phong còn nói với anh, tôi có gian tình với sư thúc, nói với anh, tôi và mẹ tôi đều trời sinh hèn hạ như nhau không?”
Bạch Phỉ Lệ bình tĩnh nhìn cô một lát, nói: “Quá khứ giữa em và sư thúc em, tôi không để tâm, có ai là không có quá khứ đâu?”
Dư Phi ngớ ra, lại nghe Bạch Phỉ Lệ nói tiếp:
“Điều tôi quan tâm là, trước giờ em chưa từng coi trọng tôi.”
Ngón tay anh cứng ngắc chọc lên ngực cô: “Chỗ này của em, chỉ sợ vẫn luôn cảm thấy, tôi chính là loại con nhà giàu có tiền thì tùy hứng chơi 2D, ngoại trừ khuôn mặt ra thì chẳng có gì nên hồn.”
Anh chỉ là có ngoại hình đẹp thôi chứ không phải là sư tử của tôi. – Trong lòng Dư Phi chợt hiện lên những lời anh từng nói lại với cô.
Anh lạnh lùng nhìn cô:
“Em không phải trời sinh hèn hạ, em là trời sinh kiêu ngạo.”
***
Ngày đó, trước khi rời đi, Bạch Phỉ Lệ nói với cô rằng hai người họ đều cần suy nghĩ thêm chút nữa, nghĩ rõ rồi hẵng gặp lại.
Suy nghĩ thêm chút nữa, nghĩ thẳng đến tận đầu tháng Chín.
Đầu tháng Chín, Dư Phi đi học.
Nhưng điều khiến cô bất ngờ nhất là, cô vậy mà lại nhận được lời mời diễn của một vở kịch mới biên – “Đỉnh thịnh xuân thu”.
Vở kịch này không phải một vở kịch bình thường. Giám chế phía sau nó là Nam Hoài Minh, một người rất nổi tiếng trong giới làm văn hóa, dành cả nửa cuộc đời tận sức gắn bó với công tác truyền thừa và bảo vệ văn hóa truyền thống.
Kịch bản “Đỉnh thịnh xuân thu” đã được viết xong từ lâu, hơn nửa thế kỷ qua không ai động tới. Nam Hoài Minh ấp ủ mười năm, muốn đào nó ra khỏi đống phế tích, cải biên làm mới. Ông vừa ra tay đã khiến toàn bộ giới hí kịch và mạng lưới giao thiệp của giới làm văn hóa chấn động, đạo diễn, biên kịch, cố vấn văn học, cố vấn biểu diễn và hí kịch, tất cả đều là những nghệ thuật gia thâm niên có tiếng có miếng.
Một vở kịch như vậy, ngàn năm khó gặp. Dư Phi dù thế nào cũng thật sự không thể ngờ được, cô vậy mà lại có cơ hội tham gia vở hí kịch này.
Phải biết rằng, có thể tham gia một vở kịch như vậy, cho dù chỉ là một vai long sáo (*) lái thuyền khua chèo, chỉ cần có thể tiếp xúc được với những người đó, học tập họ thôi, đối với cô cũng vô cùng có ích rồi.
(*) Nguyên văn là 龙套, chỉ những vai lính tốt, phu dịch trong hí kịch.
Cô tưởng chừng như vui đến độ sách vở mừng điên gấp vội vàng, ngày đẹp hát ngao thì chuốc rượu (*).
(*) Hai câu thơ trong bài Văn quan quân thu Hà Nam, Hà Bắc của Đỗ Phủ, bản dịch của Doãn Kế Thiện (nguồn: thivien.net)
Thầy hướng dẫn của cô cũng rất vui mừng, để cô toàn lực ứng phó. Đây mới chỉ là một cơ hội mà thôi, đến cùng có thể nhận được vai hay không, còn phải trải qua hơn một tháng hết vòng này tới vòng khác thẩm định tuyển chọn, huấn luyện và đấu loại, một cô gái đóng vai lão sinh như cô, quả thực không có mấy ưu thế.
Nhưng Dư Phi cảm thấy, cứ để cô đập nồi dìm thuyền, bất chấp tất cả đi, cô cam tâm tình nguyện. Người ở vào thời điểm này, ngoài việc dốc hết lợi thế ra toàn lực đánh một trận thì chẳng còn bất kỳ cách nào khác tốt hơn để thành toàn cho mình.
Tháng Mười, trời trong mây trắng, khi tất cả cây lá đều bắt đầu ngả đỏ ngả vàng, cô đến studio Cưu Bạch tìm Bạch Phỉ Lệ.
Quan Cửu nói anh ở trên sân thượng.
Dư Phi bèn lên sân thượng.
Trên sân thượng gió rất lớn, trông ra xa, Bạch Phỉ Lệ đang đứng bên mép sân thượng hóng gió.
Thoạt nhìn anh không có thay đổi gì, chỉ là lạnh lùng trầm tĩnh hơn đôi chút.
Dư Phi đi tới, anh cũng không quay đầu lại nhìn cô.
Cô lặng lẽ chìa tấm thẻ nhân viên studio Cưu Bạch ra. Tấm thẻ vào cửa thiết kế rất đơn giản, bên trên vẽ chân dung của cô theo phong cách manhua, bên dưới đề hai chữ “Phong Hà”.
Bạch Phỉ Lệ nhận lấy thẻ, vẫn không quay đầu nhìn cô.
Dư Phi nói: “Tôi đi đây.”
Cô xoay người, quay lưng về phía Bạch Phỉ Lệ mà đi.
“Tôi không để em diễn bất kỳ vai nào trong kịch sân khấu của tôi, đó là bởi vì tôi biết, sớm muộn cũng sẽ có ngày thế này. ” Anh chợt cất tiếng, “Kịch sân khấu của tôi, đã diễn là phải diễn một mạch, tôi không hi vọng có bất kỳ diễn viên nào nửa đường bỏ đi – tôi không muốn lại phải đi tìm một em như hồi đi tìm Lưu Hí Thiềm nữa.”
“Kịch sân khấu của tôi, tôi sẽ không để nó phải gặp bất kỳ nguy cơ nào, nhưng về mặt tình cảm thì tôi lại luôn cầu may.”
Dư Phi bỗng quay đầu lại, chỉ thấy anh vẫn đưa lưng về phía cô, đứng bên mép sân thượng.
Ngón tay anh buông lỏng, gió lớn lập tức cuốn tấm thẻ đề tên “Phong Hà” bay vào không trung, rất nhanh sau đó không còn thấy tăm hơi đâu nữa.
Anh nghiêm giọng, nói:
“Biến đi.”
– —–
Đến đây là đã hết phase 2 của truyện rồi đấy ạ, haizzz.
Chia sẻ một chút, từ lúc đọc, cho đến bây giờ dịch, tớ vẫn luôn rất khó chịu với Dư Phi. Cô nàng suy nghĩ quá nhiều, cân đo đong đếm quá tỉ mỉ, cái tôi quá cao mà lại hay tự ái, đúng chuẩn kiểu nhân vật, và cũng là kiểu người mà tớ thấy là muốn né ngay lập tức.
Nhưng tớ vẫn chọn dịch truyện này bởi, bên lề câu chuyện tình yêu, đây còn là hành trình của Dư Phi, một cô gái vừa kiêu ngạo vừa tự ti, học cách và chuyển hóa dần tự ái thành tự trọng. Đó cũng là điều tớ thật sự muốn gửi gắm đến các bạn độc giả của tớ. Ai cũng sẽ có những lúc ôm tâm tư như vậy, tớ cũng từng như thế. Vậy nên tớ mong tất cả mọi người đều có thể hóa tự ái thành tự trọng và thật sự ngẩng cao đầu mà sống trong đời.
Suy cho cùng, trên đời này, Dư Phi thì nhiều mà Bạch Phỉ Lệ thì hiếm, ai sẽ dung túng cho ta đây ngoài chính chúng ta ra, ai sẽ giúp ta cảnh tỉnh ngoài chính chúng ta ra.