Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư

Chương 15: Thiết bị chiếu sáng (hạ)


Đọc truyện Mô Kim Quyết – Quỷ Môn Thiên Sư – Chương 15: Thiết bị chiếu sáng (hạ)

Dịch: Đặng Nam

Tôi quan sát hồi lâu, trong hang động lộ ra một cái vỏ sắt đã gỉ sét lâu ngày, giống như một cái cửa khoang, thứ mà đáng ra chỉ có ở trên những chiếc chiến hạm, tàu chiến ngoài biển.

Tuyền béo nói: “Trong rừng sâu núi thẳm như này tàu chiến vào thế quái nào được?”

Tôi đáp: “Tôi làm sao mà biết được thứ này là từ nơi nào tới, đã thế đại bộ phận lại còn chìm trong nước nữa chứ.”

Tiêm Quả nói: “Có lẽ bên trên khe nứt hồi trước có một con sông, thứ này là từ bên trên rơi xuống, giống như cái thôn kia vậy…” Lời còn chưa nói hết, Tuyết béo đã nóng lòng lắm rồi, lập tức nhảy lên muốn đem cửa khoang mở ra, khoá vô lăng xoay mặc dù đã bị gỉ sét nặng nề nhưng lại không bị khoá chết ở bên trong, xoay xoay mấy cái là có thể mở ra được, bên trong tối om như mực, một mùi ẩm mốc mục rữa xộc thẳng ra ngoài.

Ba người chui qua cửa khoang, đèn pha trong tay đã được bật sẵn, chỉ thấy trong khoang thuyền có vài chiếc rương gỗ cực lớn, mốc meo từ lâu, nhưng vẫn có thể lờ mờ nhận ra được bên trên mỗi chiếc rương đều có một đồ hình giống hệt nhau – hình một vòng tròn phía trên thiếu mất một góc, chính giữa là một chữ “Ánh”. Chúng tôi đoán rằng có lẽ đây chính là đồ hình của Mãn Châu Ánh Họa thời kỳ quân Nhật chiếm đóng vùng Đông Bắc, giống như việc đường sắt Mãn Châu hay được gọi tắt là “Mãn Thiết”, “Mãn Ánh” là một đơn vị chuyên về quay phim chụp ảnh, có nhiệm vụ quay phim tài liệu dạng nhật ký chiến trường cho quân đội Nhật lúc bấy giờ.

Nghe nói năm đó quân Nhật chiếm lĩnh được vùng Đông Bắc, từng thành lập một đơn vị Mãn Châu Ánh Họa như vậy, sản xuất ra một số bộ phim tài liệu chiến trường, trong lứa thanh niên chúng tôi bấy giờ, không ít người đã được xem qua. Bất quá đồ đạc bên trong rương gỗ đã bị ẩm mốc làm cho hư hại, cũng chẳng phải thứ gì quý giá, chỉ là một ít máy quay phim lỗi thời cùng giá đỡ, đèn chụp. Rương gỗ bên cạnh có một bộ xương khô đang đeo một chiếc túi vải, tôi từ trong túi tìm được một chiếc la bàn hành quân, phía dưới đáy có một cái nắp, mở ra mới thấy bên trong trang bị hơn mười mấy cây diêm loại có thể chống được nước, trên đầu bọc một lớp phốt-pho, thiết kế vô cùng xảo diệu. Ngoài ra còn có một cuốn sổ ghi chép cũng là loại chống nước, tôi mở ra thử đọc sơ qua một lượt, bên trong chi chít toàn chữ là chữ ghi lại nhật ký hành quân, tôi đem la bàn nhét vào trong ngực, đang muốn nhìn kỹ một chút nội dung trong cuốn nhật ký, nước trong khoang thuyền bỗng nhiên dâng lên rất nhanh. Tuyền béo vội vàng gọi tôi: “Đi mau, con thuyền này sắp chìm rồi!”

Tôi thế nhưng không hề cảm thấy bên trong khoang thuyền có một chút rung lắc cả, hẳn không phải do con thuyền này đang chìm xuống, mà là trên núi có mưa lớn như trút nước, khiến cho nước đọng bên trong khe nứt nhanh chóng dâng lên cao. Ba người không kịp tìm kiếm thêm thứ gì khác, vội vàng chui ra cửa khoang, trèo lên tầng nham thạch ở chỗ cao ráo, đi về phía trước lại thấy một khe nứt chật hẹp khác, tối mù không một chút ánh sáng. Chúng tôi thấy khe nứt này vừa sâu vừa dài, thật không biết có điểm cuối hay không, mặc dù ai cũng nóng lòng muốn thoát khỏi nơi đây, nhưng các cụ đã nói rồi: dục tốc thì bất đạt, cho nên mấy người bèn quyết định dừng chân ngay dưới vách đá, ngồi xuống nghỉ ngơi cho lại sức. Mỗi người chia nhau ăn hai cái bánh đậu, lại thắp sáng đèn bão, mở cuốn nhật ký ra, ghé vào dưới ánh đèn cẩn thật lật xem từng trang một.

Nhật ký mặc dù được viết bằng chữ Nhật, nhưng trong đó phần lớn lại là chữ Hán, chúng tôi có đoán mò cũng hiểu được hơn phân nửa nội dung. Thì ra tên quỷ tử viết cuốn nhật ký này là một ký giả kiêm nhiếp ảnh gia của Mãn Châu Ánh Họa, lúc ấy ngoài hắn ra Mãn Ánh còn có vài tên nhân viên nữa, tuân lệnh cấp trên quay một bộ phim tài liệu về quân đội và viết bản tin tuyên truyền về thắng lợi vẻ vang của chủ nghĩa đế quốc, mục đích không có gì khác ngoài việc che đậy sự thật rằng đế quốc Nhật Bản vĩ đại trên chiến trường Thái Bình Dương đã bị đánh cho tan tác, triệt để đầu hàng, nhiệm vụ hằng ngày của hắn chủ yếu là vác máy đi quay và viết truyền tin. Vào thời điểm đó, những bộ phim tài liệu như vậy đều phải được ưu tiên chiếu trước trong các rạp chiếu bóng, có phim khoe ra vùng đất thiên đường do Nhật hoàng cai trị, có phim kể lại cuộc thảo phạt mã hồ tử của hoàng quân, mã hồ tử chính là tên để gọi đám thổ phỉ của người dân Đông Bắc. Tên nhiếp ảnh gia này được phân công đến một đội thảo phạt quân, nghe nói trong núi sâu có một đám kim phỉ, dựa vào địa thế hiểm trở của núi rừng mà nhiều lần kháng cự lại hoàng quân. Thế nhưng sau khi vào núi, thảo phạt quân không hề tìm được thôn kim phỉ, núi cao trước kia không ngờ giờ lại biến thành một con sông lớn, cái thôn kia có lẽ đã bị chìm sâu dưới đáy nước.

Đội quân kia trên danh nghĩa là vào núi tiễu phỉ giúp dân, nhưng thực ra là vì muốn dòm ngó mạch vàng trong núi. Thế nên bèn điều tới con sông này không biết bao nhiêu là tàu chiến các loại, sục sạo tìm kiếm khắp mọi ngóc ngách, cứ thế liên tục ba ngày, cuối cùng đến một cọng rác cũng chẳng mò lên được, đã thế con sông lại còn bất chợt phát sinh biến cố, toàn bộ nước sông bị hút xuống một cái huyệt động lớn, đội thảo phạt quân cùng đám tàu chiến tất cả đều bị rơi vào  trong khe nứt. Thiêu thân đã lao vào lửa thì làm sao quay lại, đã rơi xuống đây cách nào mà trở ra? Trong cuốn nhật ký do tên ký giả kia để lại, có ghi chép khá đầy đủ và chi tiết những thông tin tình báo về đám kim phỉ, bao gồm việc kim phỉ cung phụng khôi đại tiên gia, ném người sống vào trong động vàng để hiến tế, ngay cả số lượng súng đạn trong thôn có bao nhiêu bọn chúng cũng biết, từ đó có thể thấy rằng đội thảo phạt quân này đã có chuẩn bị mà đến. Nhưng không một ai có thể nghĩ tới không chỉ không tìm được cái thôn đấy, mà ngược lại toàn bộ hạm đội tàu chiến lại bị rơi vào khe nứt trong núi. Khi đó vì bị dòng nước ngăn trở cho nên đội thảo phạt quân người Nhật chỉ có thể đi sâu tiếp vào bên trong, nhưng không hề tìm thấy thôn kim phỉ. Bọn chúng tình cờ phát hiện thấy trong khe nứt một bức bích nham, trên đó có vẽ đồ đằng mặt trời, tượng trưng cho một loài thực vật vô cùng to lớn. Những nhánh dây leo trải dài của nó có thể xuyên thủng đất đá, thông qua rừng rậm phía trên để hấp thụ ánh nắng mặt trời trong núi, rồi lại lần nữa nhờ vào những sợi dây leo đấy truyền dinh dưỡng vào lòng đất, từ đó khiến cho bên trong khe nứt xuất hiện cỏ cây, thậm chí mọc lên cả một cánh rừng rộng lớn.

Người cổ đại gọi chủng loại thực vật đặc biệt này là “thái dương toái phiến” (Trans: Mảnh vỡ của Mặt trời), chính là bảo tương hoa tương truyền trong kinh Phật, cho nên còn được gọi “Phật hoa”. Từ thời nhà Đường đến nay trong kinh Phật có ghi chép lại nhiều thông tin liên quan đến Phật hoa, trong đó nói rằng bảo tương hoa đứng thứ nhất trong 24 loại Phật hoa, là mảnh vỡ do Mặt trời tạo ra, có thể xuyên qua đại địa, vạn trượng quang minh, chiếu khắp thập phương thế giới, thường vẫn hay nói là bát phương nhưng thực ra còn phải kể đến hai phương trên và dưới nữa, trên chỉ trời, dưới chỉ đất. Truyền thuyết về bảo tương hoa đã từng theo các thuyền buôn vượt biển mà du nhập vào Nhật Bản, cho nên tên ký giả Mãn Ánh này cũng biết qua đôi chút. Lúc ấy đội thảo phạt quân đi phía trước để tìm lối ra cũng không trở lại nữa, những người còn sót lại hoặc chết hoặc bị thương nặng, tên ký giả này cũng nằm trong số những người bị thương, mắc kẹt lại bên trong chiến thuyền nửa chìm nửa nổi này, nhật ký đến đây là chấm hết. Tình huống về sau như nào không cần nói cũng hiểu, toàn bộ thảo phạt quân Nhật Bản đều chết hết, táng thân trong lòng đất.

Chúng tôi chợt như bừng tỉnh sau cơn mê dài, đồ hình được khắc trên bức bích họa chỗ cánh cửa đá không phải là nhãn cầu như mấy người vẫn lầm tưởng, mà là bảo tương hoa được ghi chép trong kinh Phật, những đạo quang mang tạo thành vòng xoáy xung quanh, chính là những sợi dây leo của bảo tương hoa vươn ra khắp bốn hướng tám phương. Mỗi sợi đều to khủng bố mấy chục người ôm không xuể thế kia, vậy không biết bảo tương hoa còn to lớn đến mức nào nữa?


Nếu như nói đồ hình nhãn cầu kia là để chỉ bảo tương hoa bên trong khe nứt,  vậy thì thứ mọc trên đầu người phụ nữ được miêu tả trong bức bích họa kia là có ý gì? Bảo tương hoa có thể phát sáng lại mọc ra từ trên đầu ả ta? Tôi nhớ trước kia từng có truyền thuyết kể về thiên nữ bạt, thiên nữ bạt cao chừng gần hai đến ba thước, mắt mọc ra ở trên đỉnh đầu, đi qua nơi nào thì nơi đấy mặt trời chói chang treo cao ba ngàn trượng, ngàn dặm không một bóng mây, là lão tổ của hạn bạt. Khi Hiên Viên Hoàng đế vẫn còn tại vị, trong đám thủ hạ xuất hiện một tên loạn thần tặc tử, tên là Xi Vưu, hắn chẳng những là người sáng tạo ra đao kích đại nỏ, mà còn giỏi sử dụng sương mù, ỷ mình là vô địch thiên hạ, xúi giục bách tính trăm họ đứng lên tạo phản, đoạt lấy giang sơn của Hiên Viên Hoàng đế. Hai người đại chiến một trận ở vùng hoang sơn dã lĩnh bên ngoài Trác Lộc, Xi Vưu cho thả ra một đoàn sương mù dày đặc, đại quân của Hiên Viên Hoàng đế toàn bộ đều bị sương mù làm cho mê muội đầu óc, không tài nào phân biệt nổi phương hướng xung quanh, suốt ba ngày ba đêm vẫn chưa thoát ra được khỏi trùng vây của quân địch. Lúc này vừa hay Cửu thiên Huyền nữ hạ phàm, liền truyền cho Hiên Viên Hoàng đế cuốn Âm Phù Bí Sách, giúp ngài chế tạo ra được một loại xe, gọi là Chỉ Nam Xa. Trên xe có đặt một hình nhân bằng gỗ, dù cho bánh xe có di chuyển theo hướng nào đi chăng nữa thì ngón tay của hình nhân vẫn sẽ chỉ chính xác về hướng Nam, nhờ có cỗ bảo xa này mà Hiên Viên Hoàng đế đã đại phá được âm mưu của Xi Vưu. Tuy thua trận này nhưng Xi Vưu vẫn chưa hề từ bỏ dã tâm của mình, dưới trướng của hắn còn có hai tên thủ hạ đắc lực là Phong Bá và Vũ Sư, có thể hô phong hoán vũ, khiến cho đại quân của Hiên Viên Hoàng đế trong nháy mắt chỉ còn lại là một đám tàn quân. Ngài lúc này đành phải lần nữa thỉnh Thiên Nữ Bạt hạ phàm, Thiên Nữ Bạt có một loại bản lĩnh thông thiên chính là tạo ra nguồn sáng với nhiệt lượng lớn kinh khủng, so với năng lượng Mặt Trời toả ra không biết mạnh hơn gấp bao nhiêu lần, quả nhiên là khắc tinh của mưa gió, một lần nữa âm mưu của Xi Vưu lại bị phá vỡ, bản thân thì bị truy đuổi chém giết gắt gao. Máu huyết của Xi Vưu chảy ra vương vãi khắp nơi, biến thành Diêm Trì (Trans: Hồ muối) ở thành Bắc Khánh Dương Phủ, nay thuộc tỉnh Thiểm Tây. Nội dung được mô tả lại trong bức thánh tung đồ kia có lẽ chính là để chỉ Thiên Nữ Bạt, với một con mắt làm từ thái dương toái phiến nằm ở trên đỉnh đầu. Thứ đồ mà tên chuột đất muốn tìm kiếm khả năng cao là một loại quả do bảo tương hoa kết thành. Hắn ta ban đầu vốn tưởng rằng bảo tương hoa sinh trưởng ở trong Liêu mộ, nhưng cuối cùng vẫn không thể ngờ được rằng toàn bộ toà Liêu mộ này chỉ là lối vào bên ngoài mà thôi. Mặc dù dựa theo những ghi chép còn sót lại của đám lính Nhật kia đã giúp chúng tôi giải đáp được thắc mắc về những lời trăn trối cuối cùng của Nhị Hổ, nhưng nó đồng thời cũng dập tắt hết hi vọng của mọi người: trong khe đất này không thể tìm được lối ra!

Tuyền béo nói đám lính Nhật kia chỉ là lũ bù nhìn của chủ nghĩa quân phiệt thối nát, làm sao có thể so sánh cùng với chúng ta được? Cái gì mà lên chín tầng trời hái ánh trăng rằm? Thế nào là vượt năm đại dương bắt con sóng lớn? Đường đường là đấng nam nhi đầu đội trời chân đạp đất, cơ hội hãy còn ở ngay trước mắt, không xông lên đoạt lấy há chăng lại làm con rùa đen rụt cổ đánh trống thu quân? Các cậu nghĩ xem, hồng quân năm xưa viễn chinh hơn hai mươi lăm ngàn cây số vất vả biết nhường nào, quân địch thì vây khốn tầng tầng lớp lớp không có lối thoát, phi cơ đại pháo thì dí ngay sát sau đít, đến vỏ cây cũng không có mà nhai, leo núi tuyết vượt thảo nguyên, gặp bao nhiêu khó khăn gian khổ, chẳng phải cuối cùng cũng chạm tay tới được thành công đấy ư? Hơn nữa, kiểu quái gì mà chẳng chết, vươn cổ ra thì cũng chỉ một đao là hẹo mà rụt cổ lại thì cũng từng ấy đao là lên đường mà thôi, trái phải đều là chết, sợ hãi thì có ích gì? Cho dù có thể chạy thoát, lương khô nước uống chẳng có, sống lâu thêm được mấy ngày hay chết sớm thêm được mấy bữa thì khác gì nhau? Không bằng liều mình một phen, thử xem bảo tương hoa kia rốt cuộc là thứ gì, dân gian có câu gì ý nhỉ? Chết ở Hoa Hạ, thành quỷ cũng phong lưu!

Tôi với Tuyền béo chưa bao giờ có suy nghĩ tham sống sợ chết cả, chỉ là không muốn Tiêm Quả vì chúng tôi mà mất mạng một cách oan uổng. Tiêm Quả dường như nhìn ra được nét lo lắng hiện lên trên khuôn mặt chúng tôi, liền nói: “Lần trước lúc hãy còn ở nông trường số 17, gặp phải đàn sói dữ trong bão tuyết, chúng ta vẫn có thể kiên trì đến cùng đó thôi, tôi tin rằng lần này cũng vậy, chỉ cần mọi người đoàn kết nhất trí một lòng, nhất định sẽ thoát được ra ngoài!” Suy nghĩ trong đầu khẽ động, tôi chợt nghĩ ra một cách, những sợi dây leo vươn ra từ bảo tương hoa có thể đâm thủng được cả núi đá, trong túi chúng tôi vẫn còn một vài khối thuốc nổ, nếu như vào được trong huyệt động rồi cho nổ tung bảo tương hoa, nói không chừng lại có thể mở ra được một lối thoát, bất quá bảo tương hoa quá lớn, từng này thuốc nổ chưa chắc đã đủ dùng, cách này của tôi liệu có khả thi hay không còn phải chờ xem thế nào đã. Nhưng trước mắt mà nói, đây có lẽ là giải pháp và lối thoát duy nhất!

Ba người thương lượng xong xuôi, quyết định sẽ đi tới cùng, nhưng mực nước dâng lên quá nhanh, thế nước cũng dần biến thành những dòng chảy xiết đứng, có thể thấy trận mưa trên núi quả thực không phải là nhỏ. Địa thế trong khe nứt cao dần về phía Đông, thấp về phía Tây, nước đọng lại càng ngày càng cao, chẳng mấy chốc đã tạo thành một dòng sông ngầm. Chúng tôi vội vàng tăng tốc, hai tay bám lấy những sợi dây leo rủ xuống từ trên vách đá, chân dẫm vào những khối nham thạch chưa bị nước nhấn chìm, dè dặt tiến về phía trước một cách hết sức cẩn thận, chỉ sợ chẳng may trượt chân rơi xuống một cái, sẽ bị dòng nước chảy xiết cuốn trôi đi đâu cũng không biết nữa.

Mặc dù cả ba chúng tôi đều biết bơi cả, nhưng chẳng may trong lúc hoảng loạn giữa dòng nước, không cẩn thận để đầu va phải nham thạch, thì thôi xác định đi gặp hai đồng chí Lê-nin Các-mác dần là vừa. Ước chừng đi được ba trăm bước, từ địa thế chật hẹp của khe nứt bỗng lộ ra một thạch quật vô cùng rộng lớn, trông hệt như một cái đấu lộn ngược vậy, hai bên vách động dốc thẳng tắp, cách nhau hơn ba mươi trượng, góc cạnh rõ ràng, khe nứt giống như từng tầng sóng biển, được sắp xếp ngay ngắn chỉnh tề theo thứ tự, khiến người ta nghĩ ngay tới đây là một tác phẩm nhân tạo do ai đó tạo nên. Chúng tôi leo lên một mỏm đá lớn, dùng đèn pha chiếu về phía trước, chỉ thấy một biển nước mênh mông đen kịt hiện ra, tiếng nước chảy “rào rào rào rào” vang dội không ngớt bên tai, xem ra đường đi đến đây thế là hết rồi.

Tuyền béo bèn thò chân xuống nước xem thử sâu cạn ra sao, nếu như không quá sâu, chúng tôi vẫn có thể men theo mép nước mà đi tiếp, nào ngờ biển nước trông rộng lớn như thế, nhưng lại chảy xiết vô cùng. Cậu ta vừa mới duỗi chân ra, suýt nữa đã bị cuốn trôi vào trong dòng nước. Tôi và Tiêm Quả vội vàng lôi cậu ta lên trên mỏm đá, Tuyền béo lè lưỡi một cái: “Cha tiên sư nhà nó, ai biết được dòng nước bỏ mẹ này lại vừa sâu vừa xiết như thế chứ, nặng như tôi cũng chịu chết!”

Tiêm Quả nói: “Nước đọng đang dâng lên rất nhanh, cứ đợi mãi ở chỗ này cũng không phải là an toàn, hay ba người chúng ta bám lấy nhau rồi men theo mép đá mà đi, hẳn sẽ không bị nước xiết cuốn trôi đâu.”

Tôi nói: “Tôi đuối lắm rồi không còn mấy sức nữa đâu, thằng cha Tuyền béo kia nặng như thế, chân lại còn đi đôi giày quân dụng chắc trình trịch, một khi xuống nước rất khó mà đứng vững, có thể thấy khe nứt này chênh lệch rất lớn, nước chảy xiết quá sức tưởng tượng của chúng ta, cũng không biết phải đi đến lúc nào nữa, chúng ta tốt nhất chớ nên cầm cái mạng nhỏ này đem ra đánh cược một cách mạo hiểm như vậy.”

Tiêm Quả nói: “Thế nước càng ngày càng lớn, cứ chôn chân ở đây thì chỉ có con đường chết mà thôi, phải mau nghĩ cách đi chứ!”

Tuyền béo gắt: “Trong lòng cô có coi tôi ra cái gì không thế? Nam nhi sức dài vai rộng để làm cái gì? Không dám nói mấy chuyện to tát như xuống biển lớn bắt ba ba này nọ, nhưng trèo đèo lội suối tuyệt không thành vấn đề.” Vừa dứt lời, cậu ta liền vứt khẩu súng săn trong tay sang một bên, lấy xẻng công binh cạo bỏ bùn đất bám trên vách đá, định bụng sẽ trèo lên vách khe nứt bò dần về phía trước, nào ngờ cậu ta chợt khựng lại, ngạc nhiên thốt lên: “Đây là cái thứ quái quỷ gì vậy?”

Tôi cùng Tiêm Quả tiến lên xem thử, thấy trên vách đá quả thật có rất nhiều nham bích cổ xưa, là từng khuôn mặt quái vật dữ tợn, nửa người nửa quỷ, vây quanh một cái đồ đằng bảo tương hoa, bốn phía còn có vài nham bích tả cảnh chim bay cá nhảy khác, nội dung sắp xếp lung tung không hề tuân theo một quy tắc nào cả. Những nham bích chim cá kia cũng hết sức quái dị, có lẽ chính là hình thái nguyên thuỷ của chúng, những giống loài này khéo đã sớm tuyệt diệt từ lâu mất rồi. Tiêm Quả từng được nghe những tay thợ săn trong thôn kể lại, hang đá sâu trong núi thường hay có sơn quỷ qua lại, không biết liệu có phải là đám quái vật được vẽ lại trên các bức nham bích này hay không? Tuyền béo nói: “Cô em lại toàn nghe mấy lão ấy nói phét rồi, rừng sâu núi thẳm đến một bóng người còn chẳng có, bới đâu ra quỷ?”


Tôi đáp: “Tôi trước kia cũng cho là khu vực Hắc Sơn Đầu này toàn bộ đều là rừng rậm nguyên thuỷ không dấu chân người, nhưng nào ai nghĩ tới nơi này ấy thế mà lại có hẳn cả một toàn Liêu mộ khổng lồ, còn có kim phỉ thôn, cho nên nói trong khe nứt vạn năm không thấy ánh sáng mặt trời này xuất hiện gì mà sơn quỷ này nọ cũng không hề kỳ quái.”

Tuyền béo nói: “Cậu thật đúng là, như thế mà còn bảo là không kỳ quái? Cậu không nghe đám thợ săn Ngạc Luân Xuân nói sao? Sơn quỷ chính là cương thi trong núi, còn được gọi là sơn bạt, người sống hay người chết đều là thức ăn của nó cả. Nói cương thi ăn thịt người sống thì còn nghe được, đằng này lại còn ăn thịt người chết nữa, cương thi không phải là đã chết rồi sao? Người chết ăn thịt người chết thì còn ra cái thể thống gì? Cậu cũng được sinh ra dưới lá cờ đỏ cách mạng, tắm ánh mặt trời mà lớn lên, tại sao trong đầu đặc toàn tư tưởng mê tín dị đoan vậy, lại đi tin mấy cái truyền thuyết ba láp ba lếu này là thật!”

Tôi bất đắc dĩ nói: “Tôi chỉ mới nói đúng có một câu mà cậu đã sồn sồn hết cả lên là thế nào?”

Tuyền béo vẫn gân cổ lên nói: “Tôi đây không phải là vì lo lắng cho cậu sao? Thân là chiến hữu cách mạng cùng kề vai sát cánh, thấy ý thức tư tưởng của cậu bắt đầu lệch lạc, nếu như tôi không giúp cậu ghìm cương trước bờ vực, biết sai mà quay đầu, thì làm sao xứng với hai từ chiến hữu?” Trong lúc hai thằng tôi nói chuyện, mực nước vẫn nhanh chóng dâng cao.

Tiêm Quả nói: “Nơi này sắp chìm trong biển nước rồi, hai người các anh có thể để lúc khác hãy thảo luận vấn đề này được không?”

Tuyền béo nói với tôi: “Cậu nghe xem Tiêm Quả người ta ăn nói thế nào kìa, người ta không giục hai chúng ta đi mau, mà là hỏi nhẹ nhàng tình cảm xem hai ta có thể chờ lúc khác thảo luận hay không, cái này gọi là chiến hữu đối đãi với nhau ấm áp như mùa xuân vậy! Còn cái thể loại nhà cậu, người khác vừa mới chỉ ra vấn đề hòng giúp đỡ, còn chưa thèm phê phán câu nào, thì cậu đã sưng cái mặt gân cái cổ lên, cãi lại như mấy con mụ hàng tôm hàng cá ngoài chợ…” Tuyền béo là loại người chỉ sợ thiên hạ không loạn, gặp ai cũng giở cái giọng giáo huấn, một khi có người tiếp chuyện, cậu ta liền ngoạc cái miệng ra bắn như súng máy liên thanh, nói thâu đêm suốt sáng cũng không thấy mệt. Giờ mà đợi đến khi nước dâng lên cao, súng săn, thuốc nổ, lương khô, mồi lửa chúng tôi mang theo đều có thể bị ẩm không dùng được nữa, cho nên tôi nào có tâm tư cùng cậu ta đốp chát, bảo Tiêm Quả bám sát sau lưng tôi, đem đèn bão treo lên đầu súng, dẫn đầu đoàn người leo lên vách đá, vừa mới bước được một chân ra đã bị Tuyền béo lôi xuống, tôi nghĩ thầm: Thằng cha này hôm nay bị dở chứng à mà còn dông dài như thế, còn không mau không đi nhanh, muốn thành ma chết trôi cả lũ hay sao?

Nào ngờ vừa quay đầu lại, liền thấy sắc mặt hai người Tuyền béo cùng Tiêm Quả có gì đó không ổn, bọn họ đang ngửa đầu nhìn lên, đèn pin trong tay chiếu tới bên trên vách đá. Tôi thấy vậy liền biết ngay có chuyện không hay, cũng đúng lúc này, một mùi xác thối tởm lợm xộc thẳng vào hai cánh mũi, tôi vội vàng quay đầu lại, lập tức phát hiện một thứ toàn thân lông lá, cao chừng ba thước, tứ chi bám chặt lấy vách động, đang nhanh chóng bò qua chỗ chúng tôi.

Tốc độ của nó rất nhanh, chớp mắt một cái đã tới trước mặt tôi, treo ngược trên vách động, thứ này tuy trông đầu không lớn lắm nhưng khi nó vừa ngửa mặt lên, một khuôn mặt to đùng liền hiện ra, không có lông, loang lổ chỗ trắng chỗ đỏ, răng nanh trong miệng cái nào cái nấy đều sắc nhọn như dao, đôi mắt quái dị bắn ra kim quang lấp lánh khắp bốn phía, móng vuốt vươn ra định cào vào mặt tôi. Tôi giật mình kinh hãi, thì ra truyền thuyết sơn bạt là có thật, tuy nhiên không phải là do cương thi biến thành, đây có lẽ là một giống vượn núi nguyên thủy nào đó còn sót lại, tướng mạo hết sức kinh khủng, lại thêm toàn thân bốc mùi hôi thối như xác chết, hay qua lại nơi hang cùng ngõ hẻm trong rừng sâu núi thẳm, nên rất dễ bị người ta nhận nhầm là sơn quỷ.

Trong lúc tôi hãy còn đờ đẫn vì sợ hãi, móng vuốt của sơn bạt đã vồ tới, khoảng cách giữa tôi và nó quá gần, không tài nào né kịp.  Móng vuốt của nó tựa như những cái móc sắt, ngay cả da thô thịt dày như lợn rừng cũng có thể một phát xé toạc. Tôi lúc ấy toàn thân run lên, xác định cái mặt này không giữ được nữa rồi, chưa hẳn là sẽ chết, nhưng mà đến mặt còn không còn thì sau này biết sống như nào đây? Nếu sớm biết sự tình sẽ thành ra như thế này, tôi đã dứt khoát cầm luôn cái mặt nạ bằng vàng ra khỏi địa cung, may ra còn chống đỡ được một nhát cào, nhưng ở đời làm gì có cái gọi là “sớm biết”! Mặc dù Tuyền béo phía sau còn có cây súng săn, nhưng khổ nỗi cậu ta lại đang đeo ở trên lưng, trong lúc vội vàng cấp bách cũng không kịp lấy xuống, cậu ta phồng mồm trợn má hét to làm bộ hăm dọa, cho rằng có thể khiến cho sơn bạt sợ chạy, tuy nhiên lại chẳng có tí tác dụng nào.

Lòng tôi cảm thấy tuyệt vọng vô cùng, đành chỉ biết nhắm mắt chờ chết, trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, Tiêm Quả bỗng nhanh trí bật ngọn đèn pha trong tay, một luồng ánh sáng chói lòa rọi thẳng vào mặt sơn bạt. Nó rú lên một tiếng quái dị, suốt bao năm qua nó đã quen sống trong huyệt động tối tăm u ám, thị lực phát triển khác thường, cực kỳ nhạy cảm đối với ánh sáng, trong khi đó luồng sáng cực mạnh từ đèn pha lại chiếu tới ở khoảng cách quá gần, khiến nó nhất thời không thể mở nổi mắt, vội vàng thu móng vuốt lại che ở trước mắt. Tôi thầm kêu một tiếng: Hú vía! Tiêm Quả mặc dù cũng từng được học qua các khóa huấn luyện quân sự ở binh đoàn, nhưng tính cách cô ấy vốn như thuận, từ trước tới giờ mỗi khi gặp chuyện gì nguy hiểm thì đều có tôi cùng Tuyền béo, Lục Quân, ba người sẵn sàng che chở ở phía trước, không nghĩ tới lần này chính cô ấy lại cứu tôi một mạng trông thấy!


Nói thì chậm nhưng mọi chuyện diễn ra rất nhanh, nhân lúc sơn bạt rút tay về che mắt, tôi liền chớp thời cơ rút thanh quân đao ra, nhưng còn chưa kịp động thủ, Tuyền béo đã xông lên tấn công trước, cây xẻng công binh trong tay vung lên đập mạnh vào đầu, khiến cho sơn bạt phải hét lên một tiếng thảm thiết, rơi ùm xuống nước, chớp mắt đã bị dòng nước xiết cuốn đi nơi nào không rõ. Nước sông vẫn dâng lên không ngừng, mới đó mà đã ngập qúa bàn chân ba người. Chúng tôi đành trèo lên mỏm đá lớn hơn, cách mặt nước một khoảng chừng năm, ba trượng, chẳng mấy mà cũng sẽ bị ngập trong nước, không có lấy một chỗ dung chân.

Tuyền béo thấy dòng nước chảy xiết kinh người, lúc này mới hiểu được tình cảnh hung hiểm biết nhường nào, liên tục hối thúc: “Đi mau! Đi mau! Nước sắp ngập cả núi rồi!” Chúng tôi sau khi tiến vào trong khe nứt, vẫn luôn một mực đi về hướng Tây, mặc dù không biết đã đi được bao xa, nhưng tôi đoán chừng bên trên đã không phải là Hắc Sơn Đầu nữa rồi. Khe nứt kéo dài bên dưới lòng đất từ Đại Hưng An Lĩnh đến tận thảo nguyên hoang mạc phía Tây, vùng này địa thế trũng xuống, hết thảy bốn phía đều là đầm lầy ẩm thấp, phù sa hôi thối sâu không thấy đáy, một khi gặp phải trận mưa kéo dài liên tục mấy ngày liền sẽ biến thành một cái phễu lớn. Chúng tôi lại vừa vặn đứng ở nơi tương đối chật hẹp giữa các tầng đá nứt, từ trên vách động dù cho có đi nhanh hơn chăng nữa, cũng không nhanh bằng tốc độ chảy của sông ngầm, không thể không dính chút nước, nhưng nước sông lại chảy xiết vô cùng, tài bơi lội dù cho có khá đến mấy một khi rơi vào trong nước cũng đành bó tay. Tình hình lúc này vô cùng khẩn cấp, không còn thời gian để nghĩ ra một biện pháp nào khác hay hơn, chỉ có thể đi thêm được bước nào thì hay bước đó!

Tôi vẫy tay ra hiệu, gọi Tuyền béo cùng Tiêm Quả mau trèo lên, nào ngờ đèn pha vừa lia qua một cái, liền phát hiện vô số cặp mắt quái dị toả ra kim quang lấp lánh, thì ra quanh đây không chỉ có duy nhất một con sơn bạt, đếm sơ sơ trong tầm mắt cũng phải có ít nhất hơn chục con. Sơn bạt giống như vượn cổ, không thích sống ở những nơi bằng phẳng, quanh năm suốt tháng chỉ sống dưới lòng đất âm u ẩm thấp, rất sợ ánh sáng, có thể bò qua bò lại trên vách đá cheo leo hiểm trở tựa như giẫm trên đất bằng vậy, do thường ăn xác chết cho nên trên người lúc nào cũng bốc lên một mùi hôi thối kinh người. Bảo tương hoa sinh trưởng ở sâu trong địa mạch, không phải lúc nào cũng phát sáng, mà dựa vào chu kỳ ngày đêm, tuỳ theo dương khí hay âm khí mạnh nhẹ mà luân phiên chớp tắt. Lúc này bên ngoài mưa như trút nước, bảo tương hoa không thể phát sáng, khe nứt lại rơi vào một mảnh đen nhánh, khiến cho sơn bạt vốn trốn trong núi bây giờ đồng loạt đi ra! Ba người chúng tôi bị vây lại trên tảng đá, một bên là vách đá thẳng đứng, ba mặt là nước sông chảy xiết, căn bản không còn đường nào để lui, đành phải liều mạng chiến đấu với đám quái vật kia vậy.

Tuyền béo thì dùng súng săn của cậu ta, còn tôi cùng Tiêm Quả thì mỗi người một khẩu súng lục, bắn loạn xạ lên vách đá. Có mấy con sơn bạt bị trúng đạn, trực tiếp rơi thẳng xuống nước, lại thêm vài con mon men tiến gần cũng bị chúng tôi dùng xẻng công binh đập bay vào trong nước, đám sơn bạt còn lại rú lên những tiếng quái dị để gọi đồng bạn tới, tiếng sơn bạt gào thét tới lui bị vách đá phản lại hệt như tiếng ma kêu quỷ khóc, khiến con người ta không rét mà run. Nước sông càng ngày càng dâng cao, chớp mắt đã nhấn chìm tảng đá dưới chân, nếu không phải chúng tôi cố gắng bám víu lấy nhau thì đã sớm bị dòng nước xiết cuốn vào sông ngầm.

Cả ba vô cùng tuyệt vọng, thà bị sơn bạt ăn tươi nuốt sống còn hơn là bị nước sông cuốn đi, trong lúc nguy khốn bản năng cầu sinh trôi dậy, giãy giụa một hồi cũng chưa chắc đã bị chết chìm, bất quá đồ đeo trên người lại quá nặng, không bỏ xuống thì bơi giỏi đến mấy đi nữa cũng vô dụng! Nếu muốn không bị chết chìm, mấy thứ như mũ quân dụng, giày lính, xẻng công binh, vũ khí đạn dược, còn có bi-đông nước, thuốc nổ tự chế, thậm chí ngay cả lương khô cũng đều phải vứt bỏ. Không có những thứ này, nếu may mắn không bị chết chìm trong lòng sông thì cũng đừng hy vọng có thể sống sót mà thoát ra. Cũng chẳng phải là do tiếc rẻ cái gì, chỉ là ba chúng tôi nãy giờ vẫn còn đang phải lo đối phó với đám sơn bạt từ trên vách động kéo tới, căn bản không có thời gian mà tháo bỏ trang bị.

Trong lúc hỗn loạn, đèn pha trong tay đung đưa lên xuống vô tình chiếu tới mặt nước, tôi liền liếc thấy  từ phía thượng du sông ngầm có một vật màu đen thùi lui trôi tới. Thì ra đó là một gốc cổ thụ trong cánh rừng nguyên sinh dưới lòng đất kia, ước chừng phải mấy người ôm mới xuể, chính giữa thân cây đã bị mục ruỗng khiến cho nó cứ lơ lửng trên mặt nước không thể chìm xuống được. Cơ hội trời cho như vậy không thể để vuột mất, thời gian lúc này là vàng là bạc, tôi không kịp do dự, vội gọi Tuyền béo một tiếng, đưa tay kéo lấy Tiêm Quả rồi cả ba cùng nhảy tới ôm lấy thân cây, sóng nước dập dềnh đẩy thân cây đi, nhanh chóng tiến sâu vào trong khe nứt, quay đầu lại nhìn chỉ thấy đám sơn bạt đã sớm bị bỏ lại tít phía sau. Ba người chúng tôi ai nấy đều cảm thấy kiệt sức, hổn hà hổn hền thở lấy từng hơi dài, toàn thân trên dưới ướt sũng như chuột lột, chẳng buồn nhúc nhích lấy một cái, đến nỗi tiếp theo là sống hay là chết, hết thảy đều giao phó cho ông trời mà thôi.

Đầu óc tôi mơ mơ màng màng, nhưng tay vẫn ôm chặt lấy khúc gỗ không dám buông, trong lúc mông lung rối bời chợt nhớ tới lúc tổ phụ truyền thụ lại quyển “Lượng Kim Xích” cho tôi như thế nào, nhớ tới khi hưởng ứng lời hiệu triệu thanh niên của Mao Chủ tịch lên núi về quê đến biên cương tham gia sản xuất, nhớ những ngày ở nông trường số 17 đào đất đắp hào gặm bánh ngô, cùng đồng đội gói sủi cảo, ngồi trên kháng đất nghe kể truyện “Biển tuyết mênh mông”, nhớ lại trận chiến với bầy sói hoang giữa cơn bão tuyết, để rồi bị một con hồ ly dẫn theo vào trong toà Liêu mộ này, nhớ cảnh tôi và Tuyền béo ở Hắc Thuỷ Giang trông ruộng dưa cùng tán phét,… Khúc gỗ trôi nổi bập bềnh trên dòng nước xiết đen ngòm lúc cao lúc thấp, cả người dường như bị ai đó tung lên không trung rồi lại lập tức ném xuống vực thẳm vật, ký ức trong đầu hết thảy đều trở nên hỗn loạn mơ hồ, tựa như tất cả đều chỉ là chuyện của kiếp trước, đã quá xa xôi.

Tôi cứ thế chìm dần vào trạng thái vô tri vô giác lúc nào không hay, phải qua một hồi lâu tinh thần mới bình tĩnh trở lại, tốc độ chảy của sông ngầm đã dần dần chậm lại, không còn mãnh liệt như trước. Tôi kêu Tuyền béo cùng Tiêm Quả ở phía trước mau mở đèn pha quan sát tình hình xung quanh, bốn phía đều là biển nước mờ mịt, hai bên vách đá cũng biến mất không thấy đâu nữa, dòng chảy tuy đã chậm hơn nhưng vẫn không ngừng đổ về phía trước. Tôi lấy la bàn ra xem xét phương vị, chỉ thấy kim la bàn vẫn luôn chỉ thẳng về hướng Tây. Trước mắt tạm có thể nói ba chúng tôi đã tìm được đường sống giữa vạn lối chết, chuyện trên đời trước giờ đều là trong cát có hung, trong hung có cát, người tuy có lúc nghịch thiên, nhưng thiên không tuyệt đường người, nếu nước sông không chảy mạnh, chưa chắc chúng tôi đã có thế vượt qua nơi sơn bạt trú ẩn. Đám quân Nhật năm đó, có lẽ toàn bộ đều bỏ mạng tại chỗ đấy.

Tôi nói với Tiêm Quả: “Lúc ấy thật đúng là nguy hiểm, may mà có cô nhanh trí dùng đèn pha chiếu vào mặt sơn bạt, nếu không giờ này tôi đã phải đi gặp đồng chí Mao Chủ tịch rồi!”

Tiêm Quả trong lòng vẫn còn sợ hãi: “Cũng may mà thoát nạn, tôi chỉ sợ vạn nhất…”

Tuyền béo chen cái miệng vào, nói: “Cô yên tâm đi, cậu ta thì có cái gì mà vạn nhất chứ, cái bản mặt tiểu nhân kia đến chó còn chê chẳng thèm liếc một cái, nói gì đến chuyện được Mao Chủ tịch gọi tới gặp mặt?”

Nói rồi cậu ta quay sang nói với tôi: “Nếu như dòng sông ngầm này chảy thông tới huyệt động nơi bảo tương hoa sinh trưởng, chúng ta bám lấy cây gỗ này xuôi dòng, vậy chẳng phải là không tốn công tốn sức cuốc bộ nữa rồi? Cậu bảo nếu cho nổ tung gốc rễ của bảo tương hoa thì thật sự có thể mở ra khe nứt phía trên ư?”

Tôi sợ cậu ta đắc ý quá mà đâm ra lơ là mất cảnh giác, liền nói: “Tôi không dám đảm bảo khe nứt này sâu đến chừng nào, cũng chẳng biết chính xác vị trí nơi bảo tương hoa sinh trưởng là ở đâu, huống chi một khi cho nổ nơi này, chúng ta chưa chắc đã có thể toàn mạng thoát ra.”


Tuyền béo ai oán nói: “Con bà cậu sao không nói sớm từ trước, biết thế tôi đã vứt mẹ đống thuốc nổ đi rồi, cậu có phải đeo một mả đồ đạc như tôi đâu mà biết nó nặng như thế nào, suýt nữa bị nó kéo chìm xuống đáy rồi, con mẹ nó chứ không chết đuối thì cũng chết chìm!” Tôi nghe lời này của cậu ta thật là ngứa tai, vài khối thuốc nổ kia thì nặng được bao nhiêu cơ chứ? Có chết chìm thì cũng là do khối vàng tổ ong mà cậu ta lúc trước sống chết phải mang theo!

Trên người Tuyền béo chính là chiếc balo quân dụng, phần lớn thợ săn ở vùng Đại Hưng An Lĩnh này đều sử dụng những trang bị do quân Nhật hoặc quân Liên Xô bỏ lại, chẳng hạn như giày lính, bi-đông nước, thậm chí còn có cả súng ống quân đao, vô cùng bền chắc hữu dụng, người Đông Bắc hay gọi là “kháng tạo”! Trang bị của quân Nhật đều được đặt tên theo niên hiệu, balo sản xuất năm Chiêu Hoà thứ mười ba thì được gọi là balo Chiêu Hoà mười ba, rất đơn giản và trực quan. Chiếc balo này của Tuyền béo không lớn lắm, sức chứa có hạn, cho dù có nhét đầy đồ thì cũng nặng được bao nhiêu cơ chứ? Huống chi bên trong balo lúc này cũng chẳng đựng gì nhiều, chỉ có vài băng đạn súng lục, mấy viên pin dự phòng dùng cho đèn pha, dăm ba miếng lương khô cứng hơn cả đá, chục viên đạn súng săn, một khối vàng tổ ong lớn, tất cả đều do Tuyền béo dọc đường nhặt đường, cũng đã tiêu hao không ít, lúc trước còn chẳng thấy cậu ta há miệng ra than lấy một chữ “nặng”. Cậu ta một lần có thể ăn hơn ba mươi cái bánh bột ngô, một cái balo nhỏ như vậy làm sao có thể khiến cậu ta cảm thấy nặng quá được chứ? Khi nước sông ngầm cuốn tới, thì lúc cậu ta nhảy từ trên mỏm đá xuống khúc gỗ mục, đã sớm phải bị sức nặng của balo kéo xuống đáy sông.

Tôi không thể không thừa nhận, đúng như Tuyền béo từ trước tới nay vẫn nói, tôi vốn là một người đa nghi. Thật đúng với câu: “Người nói vô tâm, người nghe hữu ý”, cậu ta chỉ thuận miệng nói một câu như vậy, cũng đủ khiến tôi suy nghĩ rất nhiều, chẳng hiểu sao tôi cứ cảm thấy như có gì đó không đúng! Tôi quay đầu lại nhìn, chiếc balo đã bị Tuyền béo ném lại đằng sau, tôi muốn kiểm tra xem chiếc balo ấy có thực sự nặng như lời cậu ta nói hay không, nếu đúng là quá nặng thì có thể đem khối vàng kia vứt bỏ, bị vây khốn trong khe nứt tối tăm không có lấy một tia sáng mặt trời này, một khối vàng thì có tác dụng gì chứ, so ra còn chẳng bằng một khối lương khô! Nào ngờ tôi vừa đưa tay ra nhặt lấy chiếc balo, cự nhiên không thể nhấc nổi. Tôi nghĩ thầm, thế này chẳng phải kỳ quái quá rồi hay sao? Sao chiếc balo này lại nặng đến thế được cơ chứ? Bên trong rốt cuộc có chứa vật gì? Những thứ tôi có thể nghĩ tới đều không thể nặng như vậy, Tuyền béo nửa đường lại nhặt được thêm thứ gì sao? Hay là cậu ta “tiện tay” đem toàn bộ mấy khối vàng tổ ong trong thôn nhét vào trong balo? Đã nói với cậu ta biết bao nhiêu lần rồi – phải đấu tranh với bản thân, loại bỏ tư tưởng tham tài tham lợi ngay từ trong trứng nước, tại sao cậu ta vẫn không chịu nghe, tôi mà không ném hết đồ của cậu ta xuống nước, cậu ta hãy còn chưa biết cái gì gọi là kỷ luật kỷ cương! Nghĩ đến đây, tôi liền gia tăng thêm chút khí lực vào cánh tay, một lần nữa nhặt chiếc balo lên, thế nhưng nó vẫn không chịu nhúc nhích. Tôi cảm giác được không phải là do balo quá nặng, mà là có ai đó ở phía sau cũng đang túm chặt lấy nó, không muốn để tôi mang nó đi.

Số người tiến vào Liêu mộ quả thật không ít, Lục Quân bỏ mạng oan uổng dưới bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly, tay thợ săn Đại Hổ thì biến thành hủ thi bên trong địa cung, đám thanh niên tri thức từ Hắc Thuỷ Giang chạy tới cứu viện cũng đều bị lưu sa chôn sống, Trăn Tử mạng lớn có lẽ đã chạy thoát được ra ngoài, tên chuột đất Nhị Hổ thì ngã gãy cổ mà chết trong hang động tuẫn táng, đầu lìa khỏi xác, chỉ còn tôi cùng Tuyền béo, Tiêm Quả, ba người một đường chạy được đến đây, làm gì còn ai sống sót nữa, vậy thì kẻ nào đang trốn đằng sau chiếc balo kia? Người đầu tiên tôi nghĩ tới chính là sơn bạt, nhưng ngẫm lại cũng không đúng, sơn bạt không thể nào nằm im bất động như vậy được! Lúc này tim tôi đập thình thịch, nhưng ngoài mặt vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh như không, vạn nhất chỉ là quai đeo bị vướng vào đâu đó thì chẳng phải có cớ cho Tuyền béo cười tôi thối mũi à, tôi cũng không muốn cho cậu ta cơ hội lên giọng chỉ bảo. Nhưng nghĩ lại, không phải là do tôi khẩn trương nóng lòng quá mà nghi thần nghi quỷ, trông gà hoá cuốc, chẳng phải Tuyền béo cũng kêu rằng chiếc balo bỗng nhiên trở nên quá nặng? Lúc chúng tôi nhảy lên khúc gỗ mục, nhất định đã có thêm thứ gì đó bám theo!

Sau khi nguồn sáng duy nhất là “bảo tương hoa” biến mất, khắp nơi đều chìm trong bóng tối đen kịt như hũ nút, chỉ dựa vào ánh đèn pha rất khó để nhận ra có người bám theo phía sau hay không, từ khi con hồ ly giở trò ở nông trường số 17, chuyện lạ chúng tôi bắt gặp còn chưa đủ sao? Nghĩ đến đây, tôi liền bảo Tiêm Quả mau hướng đèn pha chiếu lại về phía sau, một tay nắm chặt thanh quân đao, một tay dùng sức mở chiếc balo ra, hai người kia không biết tôi muốn làm gì, còn chưa kịp để họ lên tiếng tôi đã giật toạc chiếc khoá kéo, ba người vừa nhìn thấy thứ lẫn trong balo, lập tức phát hoảng, sắc mặt ai nấy đều xám ngoét, không phải người sống cũng chẳng phải là sơn bạt, mà là đồng nữ tuẫn táng bên trong quan tài của chủ mộ!

Trong quan tài của Thái hậu nước Liêu kia có bốn đồng nữ tuẫn táng, đặt ở giữa quách đá bên ngoài và quan tài bên trong, hai bên mỗi bên một người, một người tay nâng bảo kính bằng đồng thau, một người tay cầm chuỷ thủ, trên nắp quan tài có một người bưng trường minh đăng, phía dưới còn có một đồng nữ khác nằm ngay dưới chân, trên cổ đeo một cái ngân bài, bên trên có ghi bốn chữ “tiếp tiên dẫn thánh”. Bốn đồng nữ tuẫn táng này bất quá chỉ mới bảy, tám tuổi, trên người đều mặc trang phục của cung nữ. Nếu mà để nói kỹ thì rất là dài dòng, cho nên tạm không nhắc đến ba đồng nữ kia mà chỉ quan tâm đến người được đặt ở dưới chân chủ mộ này, theo như trong táng chế xưa thì được gọi là tiếp dẫn đồng nữ, là người dẫn đường cho chủ mộ, hai gò má cùng đôi tai đều được tô son đỏ chót, phục sức trên người có thêu hình vẽ hoa sen, đỏ xanh rõ ràng, chân nhỏ xỏ trong đôi hài như ý vân đầu lũ, phần lớn đã bị mục rữa chuyển thành màu đen. Tên chuột đất kia là vì một thứ kêu là “trái cây” mà tới, nhưng trong mộ thất cũng không hề có thứ này, biết bao kỳ trân dị bảo, vàng bạc châu báu hắn cũng chẳng thèm ngó ngàng tới, cũng không động đến ba đồng nữ kia, chỉ có đồng nữ tiếp dẫn này là được hắn mang theo ra ngoài, tôi hoàn toàn không nghĩ ra mục đích cuối cùng của tên chuột đất là cái gì.

Bên trong huyền cung, hai gian bảo điện Đông Tây đều có đồng nam đồng nữ tuẫn táng, là một nghi thức mở đường cho chủ mộ, số đồng nam đồng nữ tuẫn táng ấy không dưới mấy chục người, xung quanh quan tài cũng có bốn vị, vậy cái vị nằm dười chân chủ mộ kia có gì khác thường so với những người còn lại? Cái nghề trộm mộ này chuyên lấy đồ cổ bên trong hầm mộ, từ thứ lớn như tượng ngọc đến thứ nhỏ như tiền đồng ngậm trong miệng xác chết, ngay cả ván đóng quan tài cũng đáng giá chút tiền, nhưng lại chưa có ai dở hơi đi móc lấy xác chết mang về nhà làm gì cả, thắp hương thờ cúng cho vui à? Lui mười nghìn bước mà nói, nếu như quả thật có quỷ, chẳng lẽ lại chỉ có mỗi một tên tiểu quỷ này thôi sao, sau đó tên chuột đất rơi xuống hố tuẫn táng mà bỏ mạng, cái xác đồng nữ này bị hắn bỏ lại bên trên thạch đài, chúng tôi mặc dù đã mở cái bao tải ấy ra, nhưng mọi thứ vẫn không có gì khác lạ cả. Đến khi xuống được hang đá bên dưới, ánh sáng đèn pha vô tình lướt qua một cái, tôi rõ ràng đã thấy cái xác đồng nữ này xuất hiện ngay trước mặt tôi, nhưng lúc soi cho kỹ thì lại chẳng thấy đâu nữa. Mà cũng phải nói, nếu như khi ấy tôi không bước lại chỗ cái xác vừa mới xuất hiện để kiểm tra, chưa chắc tôi đã tìm được đường thoát ra ngoài. Trước tôi cũng không dám nói vị đồng nữ này âm hồn bất tán, chỉ cho chúng tôi một con đường sống, thậm chí không có cách nào để xác định liệu có phải là tôi nhìn nhầm hay không nữa. Lúc này xem ra, nó vẫn một mực bám theo sát phía sau chúng tôi!

Lúc Tuyền béo nhảy lên khúc gỗ mục, cái xác đồng nữ này từ phía sau níu lấy chiếc balo đeo trên lưng cậu ta, cho nên mới khiến cho nó bỗng nhiên trở nên nặng đến như thế! Tuyền béo lúc ấy nóng lòng chạy thoát thân, căn bản không có thời gian để suy nghĩ nhiều, sau đó thuận miệng nói một câu, mới khiến tôi chú ý tới. Khúc gỗ mục trôi nổi giữa dòng nước ngầm, chỉ có chiếc balo này là có thể trốn vào, nếu như không phải do tôi suy nghĩ cẩn thận, dứt khoát mở tung chiếc túi ra kiểm tra, sợ rằng đến giờ chúng tôi cũng không biết đến sự tồn tại của nó! Thật khiến cho người ta càng nghĩ lại càng cảm thấy đáng sợ, một cơn rùng mình truyền từ lòng bàn chân thẳng lên tận đỉnh đầu – tại sao đồng nữ kia lại muốn cùng chúng tôi thoát ra ngoài?

Tuyền béo giật mình, nói: “Con bà nhà nó, tại sao tôi lại đem tên tiểu quỷ ra theo thế này?” Tiêm Quả cũng bị doạ cho sợ tái mét mặt, đem đèn pha cầm trong tay ném ra. Tôi vội vàng nhặt lấy, chiếu thẳng từ đầu tới chân cái xác một lượt, ánh sáng từ đèn pha chiếu lên có để lại vết bóng phản chiếu lại đằng sau, chứng tỏ đây không phải là quỷ. Dáng dấp hình dạng của quỷ ra sao tôi cũng chưa từng được thấy qua, nhưng nghe nói ở dưới ánh đèn sẽ không để lại bóng, thường nói bên trên suy nghĩ là một tầng hữu hình vô chất, do oán khí cùng sát khí hoá thành, trước kia dân gian mê tín đều truyền miệng nhau như vậy. Mà cái xác đồng nữ trước mặt chúng tôi lúc này có thể nhìn thấy sờ được, nói như vậy hẳn không phải là quỷ. Bất quá nó đã chết được hơn nghìn năm rồi, hình hài đã sớm mục rữa, mặt mũi méo mó không thể nhìn ra, làm sao lại có thể cử động được? Thứ khiến cho tôi có cảm giác sợ hãi nhất chính là – đồng nữ tuẫn táng này vẫn còn có ý thức, ít nhất tôi thấy nó là cố ý trốn ở sau lưng chúng tôi, có quỷ mới biết nó muốn làm cái gì!

Tôi ngẫm nghĩ một lúc, tên chuột đất kia là truyền nhân của quỷ môn thiên sư, đôi mắt cú mèo tầm kim đoạt bảo đã sớm luyện thành thục, từ trong địa cung mang ra theo cái xác đồng nữ này chắc chắn phải có một nguyên nhân đó, người trong đạo môn phần lớn đều rất mê tín – muốn đắc đạo thành tiên thì phải trải qua cửu tử thập tam tai (Trans: 9 cái chết, 13 cái nạn), cái xác đồng nữ đã chết hơn nghìn năm này có phải hay không hấp thụ tinh hoa của long mạch, có thể thể tránh tai thoát nạn? Nếu như quả thật có chuyện như vậy, cớ sao tên chuột đất vẫn phải bỏ mạng một cách thảm thiết như vậy? Lại nói cái gì mà bị lừa, phải chăng là nói đến cái xác này?

Nghĩ tới đây, trong lòng càng cảm thấy sợ hết hồn hết vía, có phải hay không là do tên tiểu quỷ này giở trò gì đó, khiến cho tên chuột đất không thể tìm thấy thứ gọi là “trái cây” bên trong địa cung, hơn nữa còn chết oan uổng? Chúng tôi từ trong động tuẫn táng thoát được tới đấy, cũng không phải là do chưa đến lúc tận số, mà là tên tiểu quỷ này chỉ cho chúng tôi một con đường sống. Trong lúc nhất thời trong đầu tôi vô số ý niệm dồn dập kéo tới, Tuyền béo và Tiêm Quả cũng không suy nghĩ nhiều đến như vậy, chỉ thấy cái xác đồng nữ này trốn trong balo cũng đã đủ giật mình, đáng sợ nhất là không thể biết được ý đồ thực sự của tên tiểu quỷ này là gì? Nếu như nói nó cố ý hại người, trên đường nãy giờ không hề thấy nó quấy phá gì cả; nếu như nói nó muốn núp ở phía sau cùng chúng tôi chạy ra ngoài, vậy cũng không đúng, theo như dân gian mê tín – người chết không nên thấy tam quang, tam quang là từ để chỉ ba thứ sau: một là ánh nắng mặt trời, hai là ánh trăng và ba là ánh sao, thấy ánh nắng thì hồn phi phách tán, còn ánh trăng ánh sao thì là âm quang, thấy vào liền sẽ biến thành phi cương. Một cái xác đồng nữ tuẫn táng đã chết hơn nghìn năm bên trong mộ cổ, muốn mượn hơi ba người sống chúng tôi chạy ra ngoài,  rốt cuộc nó muốn đi đâu? Người sau khi chết nhập thổ vi an, gặp phải đất dữ tức thành cương thi, đều bởi vì người ta có ba hồn bảy vía, hồn thiện mà vía ác, nhập thổ bất an là bởi vì phách vía hãy còn chưa siêu thoát, khiến cho thi thể không bị thối rữa, trăm năm thành hung, nghìn năm thành sát. Sống trên nghìn năm thì càng trở nên hung ác, ban ngày trốn trong huyệt mộ ban đêm mới lò dò bò ra, có thể nuốt mây giết rồng, chỗ nó đi qua nghìn dặm cỏ cây khô héo, đất đai khô cằn, có giăng thiên la địa võng cũng không cách nào tận diệt, chỉ có Phật tổ giáng thế mới có thể đem nó hàng phục.

Tuyền béo luôn miệng nói hắn không tin ma quỷ thần phật, nhưng lúc lên núi tham gia sản xuất, mấy loại chuyện mê tín này cũng đã được nghe không ít lần, huống chi cái xác đồng nữ kia lại đang ở ngay trước mặt hắn, khiến cho cậu ta muốn không tin cũng không được, cho dù lá gan có lớn đến mấy thì trong lòng vẫn không khỏi sợ hãi. Cái xác mặc dù không hề nhúc nhích cử động, nhưng mà cóc ghẻ nhảy đến chân không cắn cũng đủ khiến cho người ta giật mình rồi! Cậu ta trừng mắt một cái, lấy khẩu súng săn trên lưng xuống, xem ra là muốn cho tên tiểu quỷ này ăn no một băng kẹo đồng, rồi sau đó một cước đạp thẳng xuống sông!

Mời các bạn đón đọc chương tiếp theo “Thuỷ Quỷ Dưới Lòng Sông” đăng tại page Hội những người nghiện truyện của Thiên Hạ Bá Xướng & https://truyenfull.vn


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.