Mê Thần Ký

Chương 4


Đọc truyện Mê Thần Ký – Chương 4

Gió đêm
hè trong mát mà hiền dịu, mấy vì sao trên bầu trời mờ mờ nhạt nhạt dưới vầng
sáng ràng rạng của mặt trăng. Lúc Tử Hân bước ra khỏi Trúc Ngô viện, Lưu Tuấn
đã đứng đợi ngoài cửa rất lâu rồi.

Chẳng
có gì khiến cho tâm tình người ta trở nên thoải mái sau khi bị phạt đứng hơn là
nhìn thấy bằng hữu tốt. Tử Hân dừng bước, cười hỏi: “A Tuấn, ngươi đang đợi ta
à?”.

Lưu
Tuấn nói: “Có rắc rối rồi”.

“Rắc
rối gì?”

“Tối
nay là ngày Giang đại thúc mở quán thu nhận đồ đệ. Cha ta muốn ta tới đó thử
một lần, xem liệu có thể theo Giang sư phụ học võ không?”, không cần phải giải
thích, giống như tất cả bậc làm cha làm mẹ trên đời, Lưu Gia Quý tuyệt đối sẽ
không để con trai của mình bỏ lỡ một cơ hội tốt nào. Có điều, bọn trẻ con trong
cốc đều biết, Giang sư phụ tên thật là Giang Thiên Tiếu, học võ ở Thiếu Lâm,
năm xưa cũng là một nhân vật có tiếng trong võ lâm, hiện nay được Tạ Đình Vân
mời về mở quán thu nhận đồ đệ, học trò tiến vào trụ lại được thì ít mà bị đuổi
ra thì nhiều. Ấy đều bởi vị này tuyển chọn đồ đệ cực kỳ nghiêm khắc, dạy võ
luyện công cũng vô cùng cực khổ. Một năm nay, đã có quá nửa số đệ tử không chịu
nổi sự mắng mỏ với chì chiết của Giang Thiên Tiếu nên đã lũ lượt đi tìm sư phụ
khác ngoài cốc.

Tử Hân
cười khổ: “Thế thì ngươi tới đây đợi ta làm gì? Ta chẳng giúp gì được ngươi”.

Luyện
võ công là thứ vô cùng xa cách với Tử Hân, mà Tử Hân trước giờ cũng chẳng bén
mảng đến thứ đó. Các học trò của võ quán, ai ai cũng được Giang Thiên Tiếu dạy
tuân thủ nghiêm ngặt quy củ võ lâm, không dễ dàng động thủ với người khác, càng
không được gây chiến làm loạn.

“Nghe
bảo năm nay trong võ quán chỉ có một chỗ trống nhưng lại có tới mười lăm người
muốn tiến vào. Cha ta nói, nếu Giang sư phụ không chọn ta, tức là thể hiện rõ
ta không phải… không phải là thứ đào tạo được. Ta… ta… có chút sợ hãi. Nếu
ngươi tới đứng một bên cổ vũ, ta sẽ không sợ nữa”, Lưu Tuấn lắp ba lắp bắp nói,
bởi vì đang cuống, đầu lưỡi líu cả lại.

Tử Hân
mỉm cười: “Vậy cùng đi nào”.

Hai đứa
thong thả đi tới võ quán, trông thấy khoảng đất trống trước võ quán sớm đã lác
đác mười mấy người mình mặc đồ gọn nhẹ đứng rải rác. Cũng có mấy người sang một
bên tập đá tập đấm như thật, phô ra bộ dạng đã luyện võ công gia truyền.

“Ngươi
xem”, Lưu Tuấn kéo tay Tử Hân nói: “Chân của A Tả có thể xoạc ra thành một
đường thẳng! Tiểu Đậu Tử lại có thể nhào lộn không dùng tay!”. Trong mười mấy
người, có đến non nửa là học sinh trong học đường. Ngày thường trông bọn chúng
nho nhã lịch thiệp, chẳng ngờ tới chỗ này, bỗng trở nên có vài phần bản lĩnh.

Tử Hân
tựa vào một cây ngô đồng, thấy Lưu Tuấn thiếu lòng tin như thế mới an ủi rằng:
“Nhưng ta thấy bọn họ đều ngốc hơn ngươi. Nếu ngươi có người chỉ giáo, nhào lộn
có là cái gì?”.

Đang
nhỏ tiếng thì thầm, chợt thấy Giang Thiên Tiếu sải bước đi ra khỏi võ quán
nhanh như sao băng, lớn tiếng hỏi: “Mọi người đều đến rồi chứ?”.

Giọng
của ông ta vang khỏe, âm thanh mạnh mẽ làm lỗ tai bọn trẻ chấn động mà nghe ung
ung. Tất cả đồng thanh hô: “Ra mắt Giang sư phụ!”.

“Không
cần khách khí”, Giang Thiên Tiếu đi tới chính giữa võ trường, người đứng thẳng
như cây thương, nói: “Thịnh tình của mọi người, lão Giang thật không dám nhận.
Năm nay ta chỉ có thể thu nhận một đồ đệ, là đi hay ở, chỉ có thể trông vào
duyên phận thầy trò mà thôi. Bây giờ ta sẽ đi một bộ quyền ở đây, chỉ làm một
lần, mọi người cố gắng nhìn cho kỹ, sau đó tự mình vào trong rừng luyện tập một
canh giờ rồi quay lại múa cho ta xem, ai học được nhiều nhất sẽ là đồ đệ của
ta”.

Dứt
lời, mọi người đứng thành hàng ngang, toàn bộ mở to mắt nhìn Giang Thiên Tiếu.

“Đều
chuẩn bị xong cả rồi chứ?”

“Chuẩn
bị xong rồi!”

Giang
Thiên Tiếu cười nhạt, sau khi từ từ bày ra khởi thức, thân thể bỗng nhoáng lên
như chớp giật, song quyền chợt tóm chợt móc, song thoái lúc đá lúc vung, đánh
ra một bài Thiếu Lâm La Hán quyền thân pháp cực nhanh, biến hóa cực nhiều, mấy
chục chiêu đó chỉ trong chớp mắt đã diễn từ đầu tới cuối. Đa số mọi người còn
chưa kịp nhớ nổi bộ pháp của mấy chiêu mào đầu, tới lúc hoàn hồn lại, Giang
Thiên Tiếu đã múa tới thu thức. Nhất thời, toàn bộ đều đần mặt ra.

Giang
Thiên Tiếu chắp tay nói: “Mọi người thong thả luyện tập, ta đi uống tách trà,
một canh giờ sau gặp lại”.

Nói rồi
thong dong đi vào võ quán.

Thời
gian có hạn, mọi người đều lập tức tản vào rừng, người nào người nấy tìm chỗ
vắng vẻ, cật lực nhớ lại từng chiêu từng thức vừa rồi Giang Thiên Tiếu diễn
qua. Lưu Tuấn đau khổ nói với Tử Hân: “Chẳng phải ông ấy múa quá nhanh sao? Ta
chỉ mang máng nhớ được tám chín chiêu đầu. Ta múa cho ngươi coi, xem có đúng
không nhé?”.

Nói
xong, thằng bé bắt chước theo mà múa một lượt sáu chiêu đầu, cũng ra hình ra
dáng.

Tử Hân
vừa nhìn vừa nói: “Bộ pháp chiêu thứ ba không đúng, chân trái phải bước về phía
trước một bước, thân thể quay qua phải, quyền phải đánh ra”.

Lưu
Tuấn y lời làm theo rồi cười nói: “Quả nhiên là như thế này, thuận tay hơn
nhiều rồi”. Nói rồi ngồi thụp xuống vắt óc suy nghĩ hết một tuần hương mới nhớ
ra thêm được hai chiêu, sợ bản thân quên mất vội vàng nói: “Ta lại nhớ ra hai
chiêu, múa cho ngươi coi”.

Dứt
lời, múa lại một lượt liền mạch mấy chiêu đầu cùng với hai chiêu vừa mới nhớ
lại, hỏi: “Ngươi xem đúng chưa?”.


“Chiêu
cuối cùng hình như không đúng, đáng ra phải là chân đá trước rồi tay mới xuất
quyền chứ?”, Tử Hân đứng có chút mệt liền đặt mông ngồi xuống cỏ.

Lưu
Tuấn tung hai chân đá lên không trung, quyền trái một chém một đẩy, hỏi: “Là
thế này sao?”.

Tử Hân
gật đầu.

“Làm
sao đây, ta chỉ nhớ được có bây nhiêu”, Lưu Tuấn cúi đầu ủ rũ nói.

“Có lẽ
những người khác còn không nhớ được nhiều như ngươi”, Tử Hân ngắt một ngọn cỏ,
bỏ vào miệng nhai. Một lúc sau, lại đưa móng tay lên miệng cắn.

“Ngươi
cũng chỉ nhớ có bấy nhiêu sao, Tử Hân?… Trước giờ ngươi vẫn luôn thông minh
hơn ta”, Lưu Tuấn mặt mày khổ não nói.

“Ta còn
nhớ được mấy chiêu khác, nhưng không cách nào múa cho ngươi xem được”, Tử Hân
nhẹ giọng nói.

Lưu
Tuấn mừng rỡ: “Không sao cả, ngươi nói ra là được!”.

Tử Hân
nói: “Được rồi. Chiêu sau, trước tiên ngươi đánh ra quyền trái, chân phải cung
bộ tiến lên, chân trái đá một cái, xoay người đánh ra một chưởng, eo trái ngả
về bên phải một chút”.

Lưu
Tuấn y lời múa lại hai lần, nhớ kỹ vào lòng. Tử Hân lại tả cho nó thế tay, chỉ
từng chiêu, từng chiêu cho Lưu Tuấn đánh về phía sau thế nào. Thấy bộ pháp của
nó không đúng, Tử Hân bèn dùng trượng điểm vào chân nó. Hai đứa người tả người
luyện, bất tri bất giác đã hết già nửa canh giờ. Tử Hân nói: “Chiêu kế tiếp,
hai chân khép lại, song quyền thu về vị trí cũ, hít sâu một hơi. Đây là thu
thức”. Lưu Tuấn vò đầu, hỏi: “Thế là múa xong rồi?”.

“Múa
xong rồi. Tổng cộng bốn mươi hai chiêu. Còn dư chút thời gian, ngươi tự mình
luyện tập lại từ đầu tới cuối hai lượt là được.”

“Tử
Hân, mọi người đều nói phụ thân ngươi là thiên tài. Ta thấy ngươi cũng vậy!”,
bội phục tới đi đầu xuống đất, Lưu Tuấn không khỏi giơ ngón tay cái tán tụng.

“Ta chỉ
là một đứa què mà thôi”, Tử Hân cười tự trào.

Lưu
Tuấn thấy trong mắt nó tựa như chất chứa nỗi ưu sầu khó nói, trong lòng thương
cảm, nhưng lại không dám nhiều lời, chỉ nói: “Đợi ta có võ công rồi, ai dám bắt
nạt ngươi, ta nhất định sẽ không bỏ qua cho hắn!”.

Tử Hân
từ từ đứng dậy, cười khẽ: “Giờ là lúc nào mà ngươi còn ở đấy vỗ ngực”.

Tiếp đó
Lưu Tuấn đánh lại bộ quyền một lượt từ đầu tới cuối. Trí nhớ của bản thân nó
cũng không kém, Tử Hân dạy qua một lần thì không cần phải chỉnh sửa lại nữa, nó
đã có thể múa đâu ra đấy.

Đến giờ
hẹn, Giang Thiên Tiếu tách mọi người ra, gọi từng người một vào trong quán biểu
diễn. Lúc này Lưu Tuấn mới biết, đại đa số đệ tử chỉ nhớ được năm, sáu chiêu
đầu, còn như có thể nhớ được mười chiêu, một người cũng không có. Cuối cùng,
Giang Thiên Tiếu vỗ vỗ vai Lưu Tuấn: “Ngày mai giờ này ngươi tới đây. Đầu tiên
ta sẽ dạy ngươi mã bộ”.

Lưu
Tuấn mừng rỡ nói: “Đa tạ sư phụ!”.

Ra khỏi
cửa, thấy Tử Hân đang đứng tựa gốc cây đợi mình, nó liền nắm lấy tay Tử Hân,
mừng khấp khởi nói: “Tử Hân! Sư phụ đồng ý nhận ta làm đệ tử rồi!”.

Tử Hân
cười nói: “Ta nói có sai đâu? Ngươi cứ không tin. Lần sau chớ có bắt ta đi cùng
ngươi nữa”.

Lưu
Tuần vui mừng nói: “Ngươi có nhớ lần trước chúng ta đọc truyện ghi trong Giang
hồ kỳ văn không? Sau này nếu có thể trở thành một đại hiệp, sống
những ngày tháng đầu đao mũi kiếm, sảng khoái yêu ghét, thế thì tốt biết bao
nhiêu!”.

Tử Hân
nghe thế vừa ước ao vừa buồn tủi, đáp như không có chuyện gì: “Đúng thế”.

Lưu
Tuấn nói: “Không còn sớm nữa, ta đưa ngươi về”.

Tử Hân
lắc đầu: “Ta tự về, ngươi không cần tiễn đâu”.

Lưu
Tuấn vội nói: “Đường xa như thế, một mình ngươi đi, ta không yên tâm”.

Tử Hân
nhìn nó một cái, Lưu Tuấn vội vàng sửa: “Được rồi, ta về đây, ngươi đi cẩn thận
nhé!”.

“Ngày
mai gặp lại.”

“Mai
gặp lại.”

Sau khi
hai đứa chia tay, Tử Hân một mình chống trượng đi về. Con đường này nó không
quen thuộc, dưới bóng cây hòe có tiếng cóc kêu. Dưới ánh trăng, lửa đèn trong
Vân Mộng cốc nhấp nhoáng, mấy hành lang dài sáng như trên phố. Tâm tình nó lại
không biết vì sao trở nên buồn bực cực độ. Đi được mấy bước, nước mắt bất tri
bất giác đã dâng đầy hốc mắt, nó cắn răng, gồng mình ép nước mắt quay vào.
Trong đầu nó là một mảng hỗn loạn, hít vào một hơi, phăng phăng đi khoảng một
tuần hương, chỉ cảm thấy mặt hồng tai đỏ, mồ hôi đẫm lưng. Trong ngực như chứa
một ngọn lửa, thiêu đốt khắp nơi, bất tri bất giác chân đã rời khỏi lối chính,
càng đi càng xa, tới một nơi hoang vu lạnh lẽo, dấn bước tiến tiếp thì đã là
đầu cuối của hành lang. Trước mắt con đường lát đá vụn, cỏ hoang che kín lối,
đưa mắt trông ra, thấy phía xa là những hàng bia đá khin khít như rừng, sương
đêm dần đậm, giờ nó mới sực nhớ ra nơi đây là nghĩa trang trong cốc. Trong lòng
nó buồn bực, không muốn về nhà, liền ngồi xuống dọc hành lang, chăm chăm nhìn
bia mộ tới xuất thần.

Ngồi

một mình rất lâu, sau lưng bỗng vang lên tiếng thở dài nhè nhẹ.

Nó quay
đầu nhìn lại, thấy mẫu thân.

“Muốn
học võ công?”

Nó gật
đầu.

“Sau
này dậy sớm, ta sẽ dạy con.”

“Có thể
dạy con cưỡi ngựa trước không?”, Tử Hân không nén được niềm vui trong lòng.

“Không
được”, mẫu thân có chút do dự, kế đó không do dự nữa, trả lời chắc như đinh
đóng cột: “Con có bệnh suyễn, cha con tuyệt đối sẽ không đồng ý”.

Người
trong Vân Mộng cốc tuyệt đối không hiểu được lòng thiết tha vội vã học cưỡi
ngựa của Tử Hân.

Trong
cốc có những chiếc xe ngựa tiện nghi nhất vùng này, có mã phu hạng nhất bất cứ
lúc nào cũng có thể tùy ý gọi. Bất kể nó muốn đi tới đâu cũng đều không nhất
thiết phải cưỡi ngựa.

Huống
chi trên người nó còn bao nhiêu bệnh tật, bao nhiêu điều phải kiêng kỵ.

Cho nên
trong mấy năm sau đó, mẫu thân dạy nó võ công, phụ thân dạy nó y thuật, nó vẫn
không thể được như ý nguyện.

Thật
ra, Tử Hân thích là thích cái cảm giác cưỡi trên lưng ngựa tự do bay nhảy.

Thậm
chí, kể cả sau khi nó đã học được khinh công, có thể chống trượng phi thân, nó
vẫn khát khao cưỡi ngựa.

Bởi vì
nó cho rằng bộ dạng đi lại của mình rất xấu.

Nó đã
lựa lúc tâm tình Lưu Tuấn tốt mà thỉnh cầu mấy lần, nhưng không lần nào có hiệu
quả.

“Ta có
thể đồng ý với ngươi bất cứ chuyện gì, chỉ trừ một chuyện này”, Lưu Tuấn vội
vàng xua tay: “Lúc trước cha ta chỉ dùng tay đánh ta, hiện giờ thấy ta đã rắn
rỏi rồi, sớm đã đổi sang dùng roi ngựa. Ngươi phải tha cho ta!”.

Bởi thế
cả năm ấy Tử Hân không dám xin Lưu Tuấn nữa, quyết định đợi nó lớn thêm một
chút, có cái gan đôi co với phụ thân rồi hẵng nói.

Nhưng
sau năm năm hai đứa quen biết, vào một đêm tuyết buốt giá, cả gia đình Lưu Tuấn
đột nhiên biến mất không còn trong cốc nữa.

Nghe
nói, trước lúc đi Lưu Gia Quý chỉ ở trước cửa lớn trao đổi ngắn gọn nguyên nhân
với Tạ tổng quản, nói là phụ thân của mình lâm trọng bệnh, cả nhà phải trở về
tây bắc thăm nom.

Vân
Mộng cốc có mấy chục mã phu, thêm một người không gọi là nhiều mà bớt đi một
cũng chẳng ít bao nhiêu, Tạ Đình Vân không hề bận tâm, còn đặc biệt chi thêm
cho Lưu Gia Quý hai tháng tiền lương phòng khi cần dùng gấp. Mọi người đều cho
rằng hai tháng sau cả nhà bọn họ sẽ quay lại.

Nhưng,
bọn họ không hề quay trở lại nữa.

Không
ai biết được tung tích của bọn họ, kể cả người trung gian giới thiệu họ vào cốc
cũng biến mất theo.

Đương
nhiên, cũng chẳng có ai chịu bỏ công sức ra truy cứu tới cùng. Lưu Gia Quý
chẳng qua chỉ là một mã phu, với lại đứa con gái điên điên dở dở của hắn cũng
đem lại quá nhiều phiền phức trong cốc rồi. Thực ra, sau khi Tiên Nhi làm hai
đứa trẻ bị thương, người trong cốc đều hy vọng gia đình này nhanh nhanh chuyển
đi, thậm chí có người còn ngầm đề nghị với các tổng quản, thà phải bỏ ra nhiều
ngân lượng cũng muốn nhà họ Lưu chuyển tới chỗ khác.

Bọn họ
còn nói, thật ra đánh xe đi hôm đó tuyệt không phải là Lưu Gia Quý, mà là một
vị mã phu khác. Một người xa lạ, thân thủ linh hoạt, cao to, trầm lặng.

Lưu Gia
Quý nói, người ấy là cháu mình.

Nhưng
trong năm năm Lưu gia ở trong cốc, chưa ai từng trông thấy cháu đó. Ngày hôm
sau, khi nghe được tin đó, Tử Hân như người mất hồn, bồi hồi đứng trong ngôi
nhà nhỏ của Lưu gia. Ngay đêm hôm đó, nó còn đội tuyết lớn lén ra khỏi cốc, ý
muốn tìm tung tích Lưu Tuấn.


không biết cưỡi ngựa, không có sự đồng ý của Mộ Dung Vô Phong, chẳng xe ngựa
nào dám đưa nó ra khỏi cốc.


chống trượng đi trong cái lạnh căm căm, một mình đi bộ tới Thần Nông trấn.

Ở nơi
đó, nó trông thấy vô số bóng người đi trong gió tuyết. Bên bờ sông mênh mông
sương giá, mấy chiếc thuyền khách đang cởi thừng viễn hành.

Nó đi
đi lại lại trên bến thuyền cạnh sông, thất thần nhìn mênh mông khói sóng cho
tới sáng hôm sau.

Lưu
Tuấn cứ thế mà biến mất.


Sau khi
Lưu Tuấn mất tích một năm, Tử Hân cũng không nhắc tới chuyện học cưỡi ngựa nữa.

Năm
sau, nó gặp được Tiểu Mi.

Nó vĩnh
viễn không quên được đôi mắt màu bích sâu thẳm, yên tĩnh tựa mặt hồ trong Trúc
Ngô viện của cô bé, cũng không quên được khuôn mặt trắng trẻo xinh xắn, mái tóc
màu hạt dẻ mềm mại, xoăn xoăn ấy, và cả khuôn mặt đỏ hồng lúc cười nữa.

Mẫu
thân của Tiểu Mi là người Ba Tư, là muội muội của tổng quản Ô Lý Nha Đa.

Nhiều
năm học y không thành, cuối cùng Ô Lý Nha Đa cũng đổi nghề, sau khi Triệu Khiêm
Hòa về nghỉ lão, bèn tiếp quản làm một tổng quản trong Vân Mộng cốc.

Mọi
người nói Mộ Dung Vô Phong có thiện cảm với người Ba Tư là vì nó khiến chàng
nhớ tới những ngày tháng bản thân ở Tuyết Sơn. Trên con đường tơ lụa cổ có thể
gặp được thương nhân Ba Tư kết thành thương đoàn, đem theo châu ngọc kỳ lạ và
những đồ vật sáng lấp lánh, lặn lội đường xa tới trung thổ đổi lấy tài phú.

Ô Lý
Nha Đa sống trong cảnh sung túc bèn nhờ người đưa thư về cho vợ chồng muội muội
nơi phương xa, bảo cả nhà bọn họ tới làm khách ở Vân Mộng cốc, còn nói khắp
trung nguyên là vàng bạc, đến đâu cũng có cơ hội phát tài. Vợ chồng muội muội
bị mê hoặc liền thu gom của cải, mang cả nhà theo thương đoàn tham gia cuộc lữ
hành. Ai ngờ mộng phát tài còn chưa kịp bắt đầu thì nửa đường đã gặp phải mã
tặc. Vợ chồng hai người cùng nhau bỏ mạng, chỉ còn lại đứa con gái mười tuổi
được đám thương nhân chạy trốn mang theo. Ô Lý Nha Đa cảm thấy vô cùng cắn rứt
trong lòng cho nên xem cô bé là bảo bối, đặt cho cô bé một cái tên tiếng Hán là
Tiểu Mi.

Mọi
người trong cốc đều cho rằng đứa bé gái Ba Tư này có phần hơi ngây thơ. Lòng
hiếu kỳ của cô bé đối với vùng đất mới mẻ vượt xa nỗi đau cha mẹ qua đời, cả
ngày chạy nhảy khắp nơi, đùa nghịch vui vẻ.

Mọi
người thường trông thấy nó trò chuyện với đám con gái khác trong cốc bằng thứ
tiếng Hán vụng về, mọi người nghe mà thấy mơ mơ hồ hồ, hiểu mà như không hiểu. Còn
may là ngoài nói năng, biểu cảm trên mặt cũng như động tác chân tay của cô bé
cũng rất phong phú, gần như có thể coi là một thứ ngôn ngữ thứ hai. Nếu vẫn
không đủ dùng, cô bé còn lấy cành cây vẽ lên mặt đất. Tóm lại, bọn con gái
trong cốc đều cảm động bởi tính kiên trì của cô bé, chúng hăng hái dạy cô bé
tiếng địa phương. Chưa đầy một năm, cô bé đã nói được không ít, cùng với thời
gian, cô bé càng nói càng trôi chảy.

Tử Hân
sớm đã nghe qua về cô bé này từ miệng Tử Duyệt, bởi tính nó cả thẹn, hay ngượng
ngùng, cho nên cứ thấy cô bé là tránh ra thật xa.

Lần thứ
nhất nói chuyện với Tiểu Mi chính là ở nghĩa địa của Vân Mộng cốc.

Hôm đó,
gió nhẹ thoang thoảng, đem mùi hương hoa vương vất từ sâu trong cốc thổi tới.
Tử Hân xử lý xong y vụ của mình liền men theo hành lang chống trượng đi một
mình, bất tri bất giác lại đi tới khu nghĩa địa nọ.


không hề đặc biệt ưa thích gì nghĩa địa, chỉ là thích tản bộ ở những nơi vắng
người như thế này.

Liền kề
với nghĩa địa là một vùng bằng phẳng rộng thoáng, đi xuống phía dưới là vườn
thuốc, khắp núi trồng cỏ long đảm.

Sơn cốc
đầu xuân yên tĩnh đến độ khiến lòng người thoải mái, ánh nắng tà tà, hương hoa
đườm đượm.

Đưa mắt
nhìn xung quanh, xa xa là rừng sâu tĩnh mịch, cây cối nhấp nhô, tiếng chim lảnh
lót.

Nó vừa
đi vừa suy nghĩ, chợt nghe thấy sau lưng có tiếng vó ngựa vọng tới.

Quay
đầu nhìn lại, chỉ thấy một bóng người áo màu bích nhạt trên lưng ngựa ở phía
xa. Con ngựa kia tung bốn vó, chạy một vòng trong cốc rồi chạy về phía nó.

Lúc tới
gần, người trên lưng ngựa kéo dây cương, dừng trước mặt nó, ngồi trên lưng ngựa
ngọt ngào nói: “Tử Hân ca ca!”.

Mặt Tử
Hân lập tức đỏ bừng lên.

Trừ Tử
Duyệt, nó rất ít nói chuyện với con gái, càng chưa bao giờ có ai gọi nó thân
thiết như thế.

Tử Hân
đương nhiên biết cô bé là ai, ngẩng đầu nhìn cô bé, rõ ràng là ngượng ngùng
nhưng vẫn cố làm ra vẻ tự nhiên: “Xin chào”.

Tử Hân
phát hiện tuy tuổi tác Tiểu Mi còn nhỏ nhưng thân thể lại tương đối nở nang, so
với các cô bé cùng lứa rõ ràng là lớn hơn. Vả lại, đôi mắt màu bích chẳng có
nửa phần ngượng ngùng kia cứ nhìn nó không chớp mắt, quả thật mang một thần
thái hiếu kỳ ngây thơ. Không biết do đâu, nó không dám nhìn vào mắt cô bé, lại
cũng không muốn tỏ ra nhút nhát, bèn vờ như đang nhìn một gốc cỏ long đảm dưới
đất, len lén giấu cây trượng trong tay ra sau lưng.

“Tử
Duyệt tỷ tỷ nói, cha huynh không cho huynh cưỡi ngựa, tỷ ấy cũng không dám dạy
huynh”, Tiểu Mi vươn thẳng người, oang oang hỏi.

Tử Hân
nghẹn họng, không biết phải trả lời thế nào. Hình như có trả lời thế nào cũng
tỏ ra bản thân rất kém cỏi. Cuối cùng, nó đành thật thà đáp: “Ừm, đúng là ta
không được cưỡi ngựa”.

“Để muội
dạy huynh.”

“Muội
còn nhỏ quá, cứ cưỡi ngựa như vậy là rất nguy hiểm”, nó già dặn khuyên nhủ.

“Không
nguy hiểm, từ hồi còn rất nhỏ, muội đã bắt đầu cưỡi ngựa rồi, cưỡi ngựa không
khó chút nào!”, cô bé lớn tiếng sửa lại rồi vươn tay về phía Tử Hân: “Bây giờ
học luôn, muội kéo huynh lên!”.

Lúc
này, Tử Hân đã rất cao rồi, thân thể tuy hơi gầy nhưng vẫn nặng hơn nhiều so
với một cô bé mười một tuổi.

“Không,
không, không”, nó xua tay lia lịa: “Muội đi đi, ta còn có việc, cáo từ nhé”.

“Không
được cáo từ! Có muội ở đây, huynh nhất định phải học!”

Rành
rành nhỏ hơn nó ba tuổi, vậy mà khẩu khí của cô bé ấy lại có phần ngang tàng.

Cứ như
thế, mỗi khi hoàng hôn, nó lại tới khu đất cạnh nghĩa trang đợi Tiểu Mi, theo
Tiểu Mi học cưỡi ngựa. Tiểu Mi dạy gì, nó học nấy, rất chăm chỉ. Có điều, trong
lòng nó, học cưỡi ngựa chỉ là thứ yếu thôi.

Tới
ngày thứ năm, Tử Hân đã có thể một mình cưỡi trên lưng ngựa. Hôm ấy, Tiểu Mi
dẫn nó cưỡi ngựa đi ba vòng trong cốc, sau đó nhảy xuống, cầm dây cương dắt

ngựa đi.

“Trượng
của ta rơi mất rồi”, Tử Hân ngồi trên ngựa chợt nói.

Nó vẫn
luôn dắt cây trượng ở chỗ để roi ngựa, không biết đã rơi mất tự lúc nào.

“Đợi
chút nữa rồi tìm”, Tiểu Mi quay đầu lại, khẽ mỉm cười với nó.

Kỳ
thực, cây trượng đó chính là chân của nó, không có cây trượng, Tử Hân không thể
đi lại. Trong lòng Tử Hân có chút bất an nhưng biết rõ bản thân không nên lo
lắng như thế.

Xét cho
cùng, nó đã có thể cưỡi ngựa.

“Cho
muội này!”, Tử Hân dùng cỏ bện cho cô bé một con rồng nho nhỏ, cô bé hớn hở
nhận lấy, đưa lên miệng khe khẽ ngâm nga, tiếp tục đi về phía trước.

“Muội
đang hát bài gì thế?”, Tử Hân hỏi.

“Là bài
hát của quê muội, huynh nghe không hiểu đâu”, cô bé cười.

Giọng
Tiểu Mi mềm mại mà mới lạ, khúc chiết mà hòa quyện, nó nghe bỗng thấy động
lòng.

“Hát to
lên đi, ta nghe hiểu mà”, nó nhẹ giọng bảo.

“Huynh
hiểu à?”, Tiểu Mi quay người lại, hiếu kỳ nhìn nó: “Ý huynh là, huynh biết nói
tiếng Ba Tư?”.

Tử Hân
đã từng theo phụ thân học qua rồi.

Phụ
thân tinh thông văn tự Ba Tư và chữ Phạn, có rất nhiều thương nhân Ba Tư qua
lại làm ăn với Vân Mộng cốc.

Tử Hân
đang tuổi ham học hỏi, cái gì cũng muốn học, học cũng rất chuyên tâm.

Sau đó,
hai người bô lô ba la nói tiếng Ba Tư.

“Muội
nghe có hiểu không?”, sợ mình đã nói sai, Tử Hân gập người xuống, thì thầm hỏi.

“Muội
hiểu!”, cô bé cười khanh khách: “Huynh đúng là thiên tài”.

Một lát
sau, cô bé lại nói: “Vậy muội sẽ hát thật to nhé! Muội thích chỗ này bởi vì ở
đây không có ai, muội có thể thoải mái hát to”.

Ngựa
chàng sắc vàng óng, ngựa thiếp lại trắng phau.

Sắc
ngựa tuy có khác, trong lòng chẳng cách nhau.

Cùng
nhau rong chơi mãi, song hành miền Lạc Dương…[1]

[1]
Bài Quân mã hoàng của thi nhân Lý Bạch thời Thịnh Đường.

“Đây
không phải là bài hát quê muội đấy chứ?”, Tử Hân mỉm cười.

“Tử
Duyệt tỷ tỷ dạy muội đấy, hát có hay không?”

“Hay.”

Lúc ấy,
trời bỗng nổi cơn mưa nhỏ rồi dần rơi nặng hạt, ướt hết y phục Tử Hân, nó bèn
nói: “Chúng ta quay về thôi”.

“Cưỡi
ngựa trong mưa mới hay chứ!”, Tiểu Mi vẫn cứ cầm cương dắt ngựa đi tới.

“Vậy
muội lên ngựa đi.”

“Không,
muội thích làm mã phu cho huynh”, cô bé quay người lại, thè lưỡi, tinh quái
cười với nó.

Vừa dứt
lời, không ngờ trên trời vang lên tiếng sấm lớn. Con ngựa đột ngột sợ hãi, vươn
người hý to rồi nâng hai chân đạp mạnh về phía trước!

“Cẩn
thận!”, Tử Hân kinh hoàng gào lên một tiếng, nhảy từ lưng ngựa xuống, con ngựa
bỏ lại hai người, phóng vào sâu trong cốc.

Nghe
thấy Tiểu Mi rên lên một tiếng ngã xuống đất, Tử Hân biết cô bé đã bị ngựa đạp
trúng. Nhưng lúc nó bò tới trước mặt cô bé lại thấy cô bé đang cố sức lật
người, nằm ngẩng mặt nhìn trời, cố gắng mở to đôi mắt.

“Chớ có
cử động!”, nó nhào tới, giữ lấy người cô bé, đang định tìm vết thương thì thấy
máu hòa với nước loang ra từ sau đầu Tiểu Mi.

Cô bé
mở to đôi mắt nhìn nó, đôi môi khẽ động nhưng không nói gì.

Tử Hân
gào lên gọi người tới cứu.

Nơi
đồng hoang vắng, ngoài tiếng mưa rơi chẳng còn tiếng gì khác.

Nó định
ôm cô bé lên, nhưng rơi mất cây trượng, không cách nào đứng vững nổi.

Bất kể
có làm thế nào cũng không có cách gì cứu được tính mệnh cô bé. Tử Hân nắm lấy
tay Tiểu Mi, nhìn vào khuôn mặt đang mất dần huyết sắc.

Tiểu Mi
miễn cưỡng mở mắt, tựa như không biết đã xảy ra chuyện gì, lại còn lo lắng về
con ngựa kia: “Ngựa chạy mất rồi… làm sao đây?”.

Tử Hân
không dám rơi nước mắt, lo cô bé sợ hãi nhưng không sao nhịn được tiếng nghẹn
ngào.

“Muội
buồn ngủ rồi, mai lại dạy huynh…”

Tiểu Mi
khép đôi mắt lại.

Bắt đầu
ở nghĩa địa, kết thúc ở nghĩa địa, nó quen biết cô bé tổng cộng được năm ngày.

Lần sau
cùng gặp Tiểu Mi, cô bé đã biến thành một ngôi mộ nho nhỏ.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.