Đọc truyện Mê Thần Ký – Chương 24: End
Từ sau
khi chia tay với Tử Hân, đối với Tô Phong Nghi mà nói, Tử Hân như đã biến mất
khỏi thế giới này.
Ngẫm
nghĩ kỹ ra, thời gian nàng ở cùng với người ấy quả thật rất hữu hạn, cho dù có
cộng thêm bốn ngày của sáu năm trước thì vẫn chưa tới hai chục ngày. Nàng và Tử
Hân, không thể coi là “Bạch đầu như tân[1]”, mà cũng chẳng thể xem
như “Khuynh cái như cố[2]”. Nàng chẳng biết tuổi tác quê quán chàng,
thậm chí tới cả cái tên “Diêu Nhân” kia là thật hay giả, nàng cũng không biết.
Giữa hai người họ có lẽ cũng có được một đôi lần mặn mà ấm áp nhưng đều là từ
những trận cãi vã mà ra.
[1]
Quen lâu rồi mà vẫn như mới quen.
[2]
Mới gặp mà như đã quen lâu.
Nàng
biết Tử Hân trước giờ không hay hoài niệm, cũng không định ghi nhớ những người
mình từng gặp mặt. Chuyện xảy ra trong hai mươi mấy ngày đó, đối với cuộc đời
lang bạt giang hồ của chàng, cũng chẳng thể kể là phong ba bão táp gì cho cam.
Còn
nàng, nàng chọn chia tay, chọn quên đi chàng. Và rồi, những ngày tháng sau đó
nàng một mình mưu sinh, cuộc sống trở nên rất bận rộn, những chuyện mệt óc
nhiều không kể xiết, cho nên khi lên giường đặt người xuống liền ngủ, nhớ lại
chuyện cũ chỉ sau bữa cơm trà, và dần dần còn thành một thứ xa xỉ.
Nàng ở
lại Gia Khánh, làm giám sư cho tiệm đồ cổ trong thành ba năm, tích lũy vốn
liếng rồi mở một tiệm đồ cổ nho nhỏ.
Trước
nay nàng luôn cho rằng bản thân không thể làm kinh doanh, chẳng ngờ chỉ mới làm
có một năm, danh tiếng trong giới đã nổi như cồn. Mọi người lúc giới thiệu nàng
đều nói: “Tô cô nương là thiên kim tiểu thư của Tô Khánh Phong lão gia”.
Thật ra
người quen biết nàng đều rõ, nàng với lão gia trước giờ không hề qua lại, chỉ
có cái ngày lão lâm chung thì nàng có tới gặp một lần.
Lão
tiên sinh cực kỳ bất mãn với đứa con gái này, nhưng lại biết trong cái nhà của
lão chỉ có mình nàng là chân chính có thể kế thừa nghiệp học gia truyền của
mình. Chỉ mình Tô Phong Nghi có thể tiếp tục kinh doanh số đồ cổ khổng lồ của
Tô Gia, kiếm cho bọn họ thật nhiều ngân lượng.
Tuy
rằng nàng đã học “trộm” nghiệp học gia truyền của lão, nhưng nói cho cùng nàng
vẫn là con gái lão.
“Phương
Gia Hoa, con trai của Phương tổng quản rất tốt, con người thật thà, rất có
triển vọng, nếu con nghe lời ta, vậy thì gả cho hắn đi”, lúc lâm chung, lão nắm
lấy tay con gái, phều phào nói: “Con đã lớn tuổi rồi, nếu không ta đã có thể
tìm cho con đối tượng tốt hơn”.
“Gả cho
hắn con sẽ vĩnh viễn lưu lại Tô gia, ý của người là thế phải không?”, nàng ngồi
bên giường, giọng nói bình đạm.
“Đúng
thế. Có con lo liệu Tàng Chân các, ta có thể hoàn toàn an tâm rồi. Mấy ca ca
của con, khụ khụ, chẳng đứa nào có khả năng ấy”, lão không ngừng ho hen, sau
cùng, đưa bàn tay khô héo, vỗ vỗ tay nàng.
Không
biết bao nhiêu lần, nàng đã hy vọng bàn tay ấy lúc nào cũng vỗ về an ủi nàng
như vậy. Trong ký ức của nàng, hai mươi mấy năm nay đây vẫn là lần đầu tiên phụ
thân ôn hòa, nhã nhặn với nàng đến thế.
Quá
muộn rồi.
Mỗi lần
định thử thuyết phục bản thân yêu thương người nhà, nàng lại cảm thấy bị tổn
thương bởi giọng nói hà khắc lạnh lẽo của lão cứ vang lên từ sau lưng. Khi muốn
lợi dụng nàng thì trần trụi đến thế, chẳng mảy may sợ nàng nhận ra, cứ như đang
nói, việc mày vì cái nhà này, vì mấy vị ca ca mày mà hy sinh là chuyện thiên
kinh địa nghĩa. Nàng với phụ thân như đang bàn bạc giá bán nàng.
“Nhận
lời ta, gả cho hắn, nếu không… ta không sao yên tâm nhắm mắt được”, sự đau đớn
trước lúc chết cuối cùng cũng không bỏ qua cho lão, khuôn mặt lão co rúm đáng
sợ, lão cố gượng nở nụ cười đáng thương.
Tô
Phong Nghi có chút đau lòng vì bản thân lại nhìn thấy thời khắc ấy. Vào thời
khắc cuối cùng của cuộc đời mình, phụ thân vẫn chẳng hề nghĩ tới việc buông tha
cho con gái mình.
Nàng
rụt tay lại, lạnh lùng nói: “Không, con không chấp nhận”.
Đêm hôm
đó, phụ thân nàng qua đời. Mấy vị ca ca vì tranh giành sản nghiệp mà quăng hết
nho nhã, đánh nhau loạn cả. Đằng sau vẻ bề ngoài lịch lãm thanh cao, linh hồn
dã man một lần nữa hung hãn lộ diện. Nàng thu dọn quần áo của mình, lẳng lặng
rời đi trong tiếng cãi và tranh cướp sau lưng.
Cái nhà
lớn là thế, chẳng ai chú ý tới chuyện nàng về rồi đi.
Cứ cách
mấy tháng, nàng sẽ lại tới thăm hỏi phụ mẫu Vương Lộc Xuyên, an ủi hai lão nhân
đau lòng muốn chết. Lần đầu tiên tới gặp họ, hai chân nàng mềm đi. Nếu không
phải vì nàng tùy tiện đào hôn, hẳn là bây giờ Lộc Xuyên vẫn đang sống tốt.
Nhưng, tâm tình của hai lão nhân hóa ra vẫn bình tĩnh, lúc cáo từ, bọn họ còn
đưa cho nàng một phong thư, bên trong có khế ước một căn nhà.
“Lộc
Xuyên từng nhờ người chuyển lời về, nói là muốn hai ta tìm khế ước nhà đất căn
nhà cổ ở huyện Di Xuân. Nó muốn coi đó là lễ vật tân hôn tặng cho con”, lão
nhân cười thê lương: “Nó nói trong ngôi nhà ấy có đồ con thích”.
Nàng
lại đau lòng.
Ta
có thể yêu muội.
Đúng
thế, hắn không có được tình yêu của nàng nhưng chí ít hắn có thể yêu, hắn đã
yêu hết mình.
Nàng
không nhận khế ước nhà đó, nhưng giúp phụ mẫu Vương Lộc Xuyên khai quật bảo
tàng bên dưới.
“Những
món đồ cổ quý giá này đều có thể làm của báu gia truyền”, nàng mang từng món đồ
đào được ra trước mặt họ, nào là đồ đồng, châu ngọc, hộp gấm, vàng ròng…
Vì
không muốn để nàng buồn, hai lão nhân chỉ không ngừng cười, nhưng nụ cười lại
rất gượng gạo.
Nàng
quên mất Vương Lộc Xuyên là đứa con duy nhất của gia đình bốn đời đơn truyền
này. Ừ thì có của báu gia truyền, nhưng chẳng thể truyền cho ai.
Mỗi
năm, đầu hè, vào ngày giỗ của Vương Lộc Xuyên, nàng đều tới Thanh Lĩnh Sơn một
lần.
Sáng
sớm lên đường, quá trưa thì tới. Từ chân núi đi bộ lên đỉnh, dọc đường hái theo
một đóa xuân cúc lớn. Lúc tới trước mộ, nàng bỗng phát hiện trên ngôi mộ đã đặt
một đóa xuân cúc vàng tươi. Cỏ hoang trước mộ cũng đã được nhổ hết, gạch lát bị
nước mưa xối đi được xếp lại ngay ngắn. Mộ đã được quét dọn cẩn thận rồi.
Dưới
đất hãy còn tro tiền tan tác.
Nàng
biết sáng hôm đó, Tử Hân đã tới đây.
Nàng
cảm thấy có chút an ủi.
Nàng
biết Tử Hân sẽ nhanh chóng quên nàng, giống như lần thứ hai nàng gặp chàng,
chàng đã hoàn toàn quên đi cô bé sáu năm trước gặp ở Đông Đường trấn. Giữa hai
người không hề phát sinh những chuyện khắc cốt ghi tâm, cho dù từng hôn nhau
nhưng cũng là nụ hôn sau trận cãi vã. Nàng biết bản thân không phải là một nữ
chân lý tưởng, với lại đối với nàng mà nói, nữ nhân lý tưởng và lý tưởng của nữ
nhân vĩnh viễn không phải là một chuyện.
Nhưng
dù sao chàng vẫn nhớ tới Lộc Xuyên.
Nàng
thắp hương, ngồi bên mộ, buồn bã nhớ lại chuyện một năm trước.
Ngày ấy
năm sau, nàng lại tới trước mộ. Trên mộ đã có một đóa xuân cúc. Hai người bọn
họ vẫn lỡ dịp gặp nhau.
Tới năm
thứ ba, nàng cố ý dậy thật sớm, lúc vội vàng chạy tới Thanh Lĩnh sơn mặt trời
chỉ vừa mới lên. Nàng bỏ ngựa lên núi, cảm thấy bước chân của mình không ngờ lại
mau như thế. Thật ra tối ngày hôm trước, nàng đã bắt đầu cảm thấy rất phấn
khởi, gần như thức trắng đêm. Liệu nàng có thể nhìn thấy Tử Hân không? Mấy năm
qua rồi, chàng sẽ thay đổi thế nào? Chàng còn nhận ra nàng chăng?
Khi lên
đến trước mộ trên đỉnh núi, nàng thất vọng. Nàng lại nhìn thấy một đóa xuân
cúc, thấy mộ phần được quét dọn tinh tươm như trước. Chàng vừa mới đi khỏi,
trên đóa xuân cúc còn lưu lại mấy giọt sương sớm.
Lúc bấy
giờ nàng mới ý thức được, Tử Hân không hề biết nàng cũng tới tảo mộ. Hoa và
tiền giấy chẳng được mấy ngày sẽ bị mưa mùa hè dữ dội gột đi sạch sẽ. Gạch lát
trên mộ sẽ bị nước mưa lật tung, cỏ dại trên mộ sẽ lại mọc đầy. Lần thứ hai Tử
Hân tới, nơi đây lại đã thành một nơi hoang sơ lạnh lẽo.
Tô Phong
Nghi chẳng rõ mình đang trông đợi điều gì. Nếu nàng mong đợi Tử Hân, sao năm
xưa lại phải cự tuyệt chàng? Nếu không mong đợi Tử Hân, sao bản thân lại vui
đến vậy, thất vọng nhường này?
Nàng
không hề biết lúc này Tử Hân đang theo quân doanh của Đinh tướng quân làm một
chức quân y ở miền tây bắc xa xôi. Nơi đó chiến sự liên miên, chàng chữa trị
cho thương binh trên chiến trường, được tiếp xúc với các kiểu các dạng thương
tật.
Mọi
người đều nói tay giang hồ lang trung này không chỉ y thuật cao minh mà còn có
tính ham mê trời sinh, khi trị thương hoặc làm phẫu thuật thì tập trung tinh
thần đến mức bao nhiêu lần bị quân địch bắt được, rồi lại được Đinh tướng quân
lúc thì lấy tù binh ra trao đổi, lúc thì tự mình đem quân tới cứu về.
Chẳng
ai hiểu sao Đinh tướng quân trời sinh tính tàn bạo lại thích cái tay quân y này
đến thế, lại còn cho phép hắn mỗi năm cứ tới tiết đầu hè một mình quay về
phương nam tảo mộ bằng hữu.
Vị quân
y này cực kỳ coi trọng chữ tín. Một mình hắn xuyên qua sa mạc mã tặc ẩn hiện,
vượt suối sâu sông lớn, lặn lội ngàn dặm tới trước mộ bằng hữu, chỉ lưu lại đó
chưa tới nửa canh giờ rồi lại quay ngựa lên đường trở về. Thời gian đi về đã
mất đứt hơn năm tháng trời.
Chàng
vẫn không ngừng viết sách, không ngừng tranh luận với phụ thân. Người trong
giới Hạnh Lâm đều công nhận, muốn hoàn toàn hiểu được sách của Mộ Dung Vô Phong
thì ắt phải nhờ tới sách chú của Mộ Dung Tử Hân. Còn Mộ Dung Tử Hân thì có thói
quen khiêu chiến với quan điểm của Mộ Dung Vô Phong trong chú thích của mình.
Bởi thế, xem xong chú thích của Mộ Dung Tử Hân, người ta đâm ra lại nảy sinh
hoài nghi với sách của Mộ Dung Vô Phong, chẳng rõ đôi phụ tử này rốt cuộc ai có
đạo lý hơn.
“Quan
điểm của phụ thân tôi và tôi đều không sai, chỉ có điều của tôi thì rõ ràng hơn
thôi”, đây là lời giải thích của Tử Hân.
Nghe
nói câu này truyền tới tai Mộ Dung Vô Phong đã khiến người bừng bừng nổi giận.
Tử Hân hiếm khi về thăm phụ thân được một lần, mà phụ tử hai người cứ gặp mặt
là phải tranh cãi to một trận. Chỉ vì một chú thích nho nhỏ trong sách mà hai
người cãi vã tới đỏ mặt tía tai, cả đêm không ngủ.
Cứ như
thế mà hết hai năm, Tô Phong Nghi quyết tâm không cố đi gặp Tử Hân nữa.
Nàng
vẫn tới tảo mộ nhưng vẫn sáng sớm đi, quá trưa tới nơi. Lúc tới nơi tất sẽ thấy
một đóa xuân cúc vàng tươi.
Nàng
vẫn không hề gặp qua Tử Hân.
Trong
khoảng thời gian này, nàng lại đào hôn hai lần. Lần sau cùng nàng định gả cho
một thương nhân đồ cổ tính ôn hòa, là đồng nghiệp với nàng, có học vấn, nhân
phẩm tốt, có tiếng nói trong giới, nhưng vào trước ngày thành thân, nàng lại bỏ
trốn.
Cứ nghĩ
tới đêm tân hôn sẽ phải đối diện với nam nhân đó, nỗi sợ hãi xâm chiếm nàng.
Nàng cho rằng bản thân có thể khắc phục nỗi sợ hãi đó, nhưng theo thời gian
ngày càng tới gần, nàng vẫn cứ đứng ngồi không yên như cũ. Dần dần, tình hình
còn càng lúc càng nghiêm trọng, tâm tình nàng hỗn loạn, trong người nôn nao khó
chịu, cả đêm không ngủ được, tim đập như điên, cuối cùng nàng chỉ đành đào hôn
bỏ trốn.
Đường
Hành oán trách rằng, hắn đúng là đã uổng công may cho nàng hai bộ áo cưới tuyệt
mỹ.
“Làm áo
cưới phải hao tốn tâm huyết đấy, xin muội chân thành một chút có được không?”
Lúc ấy,
Đường Hành đã quay về Đường môn. Đường môn tuy cách Gia Khánh không xa nhưng
với tính tình lười biếng của hắn, mấy năm rồi cũng chẳng buồn gặp Tô Phong Nghi
lấy một lần. Chỉ mỗi khi nghe tin nàng kết hôn mới sai người đưa tặng một bộ áo
cưới tự tay mình làm.
Lần đào
hôn cuối cùng, Tô Phong Nghi chẳng biết tránh đi đâu liền trốn đến Đường môn.
Lúc tìm được Đường Hành, nàng mới kinh ngạc phát hiện, Đường Hành không chỉ đã
thành thân mà còn trở thành một ông bố trẻ!
“Muội
nhất định không ngờ đúng không?”, Đường Hành đích thân xuống bếp nấu cho nàng
cả một bàn tiệc.
“Bao
giờ thì được gặp phu nhân của huynh?”, nàng đưa mắt nhìn tới nhìn lui nhưng
chẳng thu được đầu mối gì.
“Nàng
đưa con tới bờ sông tản bộ rồi, chắc sắp về.”
Nàng
“A” một tiếng, có chút phấn khích. Đường Hành có thể thay đổi, vậy thì chuyện
gì không thể thay đổi được đây?
Nàng
luôn không chịu thừa nhận bản thân nhung nhớ chàng, nhưng nỗi nhớ không mời mà
đến, càng ngày lại càng nồng, càng ngày càng da diết, đến mức ngày giỗ của Lộc
Xuyên trở thành ngày nàng mong đợi nhất trong năm.
Nhất
định phải nhìn thấy đóa xuân cúc đó, thì năm ấy nàng mới có thể sống yên ổn.
Cách
nghĩ này chẳng có lý do, rất hoang đường nhưng nó đã bắt đầu ngày đêm giày vò
nàng.
Ngày
giỗ năm thứ sáu, nàng tới Thanh Lĩnh Sơn trước một ngày.
Một
phần đã bị cỏ hoang che lấp, dấu sỏi ngang dọc, hang cáo lỗ chỗ. Nàng cầm một
cái cuốc nhỏ, quỳ xuống đất, chăm chỉ thu dọn: phạt cỏ, cọ rửa bia mộ, lát lại
gạch mộ, đắp lại chỗ đầu mộ bị sụt lún. Sau đó, nàng thắp hương, cắm đóa xuân
cúc tươi mới bắt mắt vào lọ hoa.
Nàng
hoài niệm sâu sắc một người, đồng thời đang chờ đợi một người khác. Cả tới sau
khi chết, Lộc Xuyên vẫn còn giúp nàng, một phần của hắn trở thành nơi duy nhất
nàng có thể gặp được Tử Hân.
Đêm hè
chốn sơn cốc cực kì yên ắng. Nàng màn trời chiếu đất, nằm bên cạnh mộ. Trên
trời muôn vì sao lạnh lẽo, lấp lánh ánh sáng cô độc. Đến nửa đêm có thể nghe
thấy tiếng dơi bay vụt qua đầu, rồi lại chuyển hướng giữa trời, bay xuống vách
núi.
Nàng
chăm chăm nhìn ba chấm đỏ đầu nén hương, lặng lẽ cầu khấn.
Từ nửa
đêm cho tới sáng sớm, rồi lại từ sáng sớm tới hoàng hôn, mỗi một âm thanh phát
ra trong rừng đều khiến nàng kích động.
Cho đến
khi nàng nhận ra, đó chẳng qua chỉ là tiếng gió thổi qua kẽ lá mà thôi.
Không
có xuân cúc, cũng chẳng thấy Tử Hân.
Nàng
cho rằng ngựa xe không tiện nên chàng tới muộn, bèn đến Sơ An trấn tìm một
khách điếm ở một mạch mười ngày.
Mỗi
sáng sớm nàng lại tới đợi bên mộ.
Tử Hân
vẫn không hề xuất hiện.
Nàng
lưu lại đầu mộ một túi da trâu nhỏ, bên trong có ghi địa chỉ của nàng, bảo Tử
Hân đọc được thư thì nhất định phải tới tìm nàng. Sau đó, nàng như kẻ mất hồn
mà trở về Gia Khánh.
Những
ngày tiếp theo, nàng ảo tưởng nửa đêm chợt có tiếng gõ cửa.
Nhưng
tiếng gõ cửa không hề vang lên.
Đã qua
ba tháng, chẳng thấy tin tức gì của Tử Hân.
Có lẽ
Tử Hân đã nhận được phong thư đó nhưng vốn không muốn gặp nàng. Có lẽ chàng đã
an cư yên ổn ở nơi nào đó, không còn lãng du. Có lẽ chàng đã tìm thấy tình yêu
của mình, cưới vợ sinh con…
Có lẽ,
vô số có lẽ.
…Có lẽ
chàng đã gặp chuyện chẳng lành, không còn trên đời này nữa.
Nàng
bắt sống trong những ngày với vô số có lẽ, bị muôn vàn có lẽ ấy đày đọa.
Năm ấy
trôi qua thật chậm chạp.
Nàng
bắt đầu liều mạng cắm đầu ăn uống, càng ngày càng béo. Tới cuối năm, y phục đều
không mặc nổi nữa.
Nàng
vùi đầu làm ăn, khiến bản thân bận rộn bù đầu. Nàng kiếm được rất nhiều tiền mà
vung tiền cũng thật bừa bãi.
Lúc sắp
sang năm mới, nàng quyết định không nghĩ tới Tử Hân nữa, dự định vĩnh viễn quên
chàng đi. Nàng không thể để cái người căn bản chẳng thể tìm thấy ấy làm lỡ dở
chính mình, càng không thể để những suy nghĩ vô căn cứ kia cuốn lấy mình.
Nàng
vẫn phải sống, ngày tháng vẫn cứ trôi, đầu óc nàng không thể lúc nào cũng lơ
đãng, đêm đêm thao thức.
Quên
chàng đi! Nếu Lộc Xuyên có thể yêu, nàng cũng có thể quên!
Không
phải sao? Nàng là một nữ nhân dũng cảm, tuyệt đối sẽ không vì tình cảm, không
có nơi gửi gắm mà phí phạm cuộc đời này.
Sau khi
hạ quyết tâm, nàng cảm thấy nhẹ nhàng. Đây là tác phong nhất quán của nàng,
chuyện không thể tháo gỡ, nàng liền tháo gỡ đầu óc mình. Suy nghĩ càng dễ biến
chuyển hơn so với cuộc sống. Vì sao nhất định cứ phải là Tử Hân? Chàng tính
tình cô độc, tính khí cổ quái, thân thể yếu ớt, nghèo kiết xác. Tô gia nếu mà
biết nàng gả cho một nam nhân như thế không cười chết nàng mới lạ! Dù sao thì
nàng cũng là thiên kim tiểu thư nhà danh giá. Nàng quyết định sau khi qua năm
mới sẽ đi liên lạc với vị đồng nghiệp trong giới đồ cổ nọ. Sau khi nàng đào hôn,
người đó vẫn độ lượng giữa mối quân tử chi giao với nàng, vẫn hay tới thăm
nàng, mỗi dịp năm mới đều tặng lễ vật. Hai người vẫn là bằng hữu, trên phương
diện làm ăn vẫn hỗ trợ lẫn nhau. Còn nhớ có lần, vì một vụ làm ăn liên quan tới
sinh tồn của cái tiệm đồ cổ nhỏ của nàng, nàng đã mặt dày mày dạn tìm tới người
ta, muốn hắn giúp đỡ: “Nhân nghĩa không thành, việc làm ăn còn đó mà!”.
“Nàng
chịu gả cho ta chứ?”, người đó cũng không nản lòng hỏi nàng.
“Không”,
nàng dứt khoát cự tuyệt.
“Được
rồi”, người đó thở vắn than dài, nhưng vẫn dốc sức giúp nàng.
Nàng
luôn cảm thấy người này không tệ, qua lần đó lại càng cảm kích hắn.
Bất kể
có sợ hay không, nàng nhất định phải thử một lần nữa.
Sau đó,
nàng hạ quyết tâm gửi cho Đường Hành một phong thư, sau khi hàn huyên thì nhờ
hắn một lần nữa may cho nàng bộ áo cưới, vì năm nay nàng “nhất định sẽ đem bản
thân gả đi”, lại còn đảm bảo với hắn đây là lần sau cùng hắn phải làm áo cưới
cho nàng.
Nhận
được thư, Đường Hành đột nhiên tới gặp nàng.
Hôm ấy
là mùng Ba Tết. Đường Hành nói, hai người mấy năm không gặp, nên hắn phải đích
thân đến đo đạc cỡ người nàng.
Trước
giờ nàng chẳng giấu giếm gì với Đường Hành, bởi thế liền kể cho hắn nghe phiền
não của bản thân.
Sau khi
nghe xong, Đường Hành hỏi: “Sao muội không đi tìm huynh ấy?”.
“Muội
làm sao biết được huynh ấy ở đâu?”
“Sao
muội không hỏi ta?”
Tô
Phong Nghi cứng lưỡi: “Huynh?… Huynh biết à?”.
“Ta
không biết nhưng có một người chắc chắn biết.”
“Ai
chắc chắn biết?”
“Phụ
thân huynh ấy.”
Lúc bấy
giờ nàng mới biết phụ thân của Tử Hân chính là Mộ Dung Vô Phong, vị thần y vang
danh thiên hạ. Vân Mộng cốc rất giàu có, chàng không những là truyền nhân nhận
y bát của thần y mà còn là người thừa kế duy nhất của gia tộc.
Nghe
được tin này, tâm tình vui vẻ của nàng chuyển thành chán nản.
Nàng
không muốn biết thân phận ấy của chàng, thà rằng cứ nghĩ người mình yêu là
giang hồ lang trung xoàng xĩnh nay đây mai đó.
“Huynh
ấy là một giang hồ lang trung lang bạt khắp nơi”, Đường Hành nói: “Theo ta
biết, trừ cái nghề giang hồ lang trung ra, Tử Hân chưa từng làm gì khác”.
“Nhưng
mà, muội gặp huynh ấy rồi, huynh ấy liệu còn nhận ra muội không?”, Tô Phong
Nghi than thở: “Dù sao cũng đã sáu năm rồi”.
“Khó
nói lắm”, Đường Hành lắc đầu: “Nếu năm ngoái muội đi gặp huynh ấy, có lẽ huynh
ấy còn nhận ra. Bộ dạng muội bây giờ, ta cũng phải rất lâu mới nhận ra”.
Nàng
cười gượng ngắm nghía bản thân.
Hình
ảnh nàng trong gương béo tròn ba vòng, gương mặt vừa to vừa tròn trĩnh, mi mắt
dày cộp, cằm hai ngấn, đi lại một lúc thì phở phì phò, đeo tạp dề lên lại giống
hệt một đại tẩu lau dọn nhà bếp.
Nàng
tới Thần Nông trấn giữa cơn gió tuyệt, nhưng thế nào cũng không gom đủ dũng khí
tiến vào Vân Mộng cốc.
Sáu năm
qua rồi, nàng chẳng có chút liên lạc với người ấy, cũng chẳng rõ chàng còn sống
hay đã chết. Cho dù có gặp được chàng, nàng cũng chẳng tìm ra lý do hợp lý.
Huống
chi, ừ thì tìm được Tử Hân rồi thì sẽ sao đây? Gả cho chàng ư? Sau khi trốn
chạy bao nhiêu cuộc hôn nhân, nàng có thể đối mặt với Tử Hân không? Nàng có thể
đảm bảo vào cái ngày gả cho chàng sẽ không bỏ trốn sao?
Vả lại,
Tử Hân còn nhận ra nàng không? Còn thích nàng nữa không?
Rốt
cuộc, Tử Hân trước giờ chưa từng nói thích nàng.
Được
rồi, Tô Phong Nghi, mày lại tự đa tình rồi. Nàng cười nhạo bản thân.
Bởi
thế, khó khăn lắm mới tới được cửa Vân Mộng cốc, nàng nghĩ đi nghĩ lại bèn đứng
trước cửa thở dài rồi bảo phu xe quay đầu rời đi.
Nàng
tùy tiện tìm một khách điếm trong Thần Nông trấn ở tạm. Lúc đang ăn trong tiệm
cơm, nàng chợt nghĩ, thần y Mộ Dung Vô Phong đã nổi tiếng như thế, vậy thì hỏi
thăm tung tích Tử Hân trong trấn này chắc hẳn không khó. Nàng bèn gọi tiểu nhị,
hỏi thăm hắn.
“Cô
nương hỏi về công tử của Mộ Dung tiên sinh à, biết, biết chứ. Trước công tử
luôn lãng du bên ngoài, năm ngoái đột nhiên bị thương cho nên đã về cốc ở nửa
năm rồi.”
Giờ
nàng mới biết mấy năm nay Tử Hân luôn ở dưới trướng Đinh tướng quân làm quân y
tận miền tây bắc xa xôi.
Trong
một lần chiến sự, vai trái bị trúng tên, bởi trong quân chỉ có mỗi một vị đại
phu là chàng, y vụ quá bận bịu, không có thời gian xử lý, nên vết thương viêm
sưng, lan ra toàn thân. Đinh tướng quân thấy chàng bệnh tình trầm trọng, không
cơ khỏi bệnh, liền phái một đội nhân mã vượt ngàn dặm đưa chàng về Vân Mộng
cốc. Tuy dưới sự chăm sóc kỹ lưỡng của phụ thân, chàng đã dần dần khôi phục
nhưng do kinh mạch tổn thương, trị liệu lại chậm trễ nên tay trái của Tử Hân đã
để lại di chứng, tới tận bây giờ cử động vẫn cứng nhắc, rất không thuận tiện.
Nghe bảo, trước khi bệnh, Tử Hân luôn dùng tay này để thăm mạch, sau khi bị
thương, chàng đã không có cách nào khám chữa cho người ta nữa.
“Vị
công tử này tính tình cực kỳ cổ quái, sáu năm trước rời cốc hành nghề lang
trung rồi thì từ đó không nhận một đồng nào của phụ thân, tới tận bây giờ vẫn
thế”, tiểu nhỉ nói.
“Vậy
chàng… còn ở trong cốc không?”
“Vừa
khỏe lên đã chuyển ra ngoài rồi. Công tử ở một trấn khác. Cô nương bảo có lạ
không, vị ấy đã không hành được nghề y, cũng không chịu mở lớp nhận học trò mà
lại chạy lên chùa kiếm sống bằng cách chép kinh cho người ta. Một nghìn chữ mới
kiếm được năm đồng, ấy thế mà vẫn vui vẻ không nản. Phương trượng chùa ấy nói,
tiểu khải vị ấy viết ra thanh tú đẹp đẽ, bản thảo trả về trước giờ không sai
lấy một chữ. Một bận, có người phát hiện công tử sao thiếu một chữ, liền bảo
với công tử là không thành vấn đề, bổ sung chữ ấy vào bên cạnh là được rồi.
Người lại không chịu, đem bản thảo ấy về cặm cụi chép lại một lượt. Ngay cả
phương trượng cũng bảo, người như thế đốt đuốc ban ngày cũng khó tìm, trả cho
ít tiền công như vậy, mà vẫn làm tỉ mỉ kỳ công đến lạ.”
“Nhưng
mà, từng ấy tiền huynh ấy có đủ sống không?”, trong đầu hiện lên khuôn mặt
trắng trẻo mà ngang ngạnh của Tử Hân, Tô Phong Nghi biết chàng là người như
thế, thà chết đói cũng giữ vững nguyên tắc của mình tới cùng, nghĩ tới đây
trước trán nàng không khỏi túa mồ hôi lạnh.
“Công
tử ở trong một gian nhà nhỏ, chỉ có một giường, một bàn, một cái ghế băng, cả
ngày ăn mì suông rẻ tiền. Tới phụ thân công tử nhìn thấy cũng buồn rầu. Ài,
cũng chẳng biết trúng phải tà gì, nhà có tiền như thế…việc gì phải chịu khổ như
vậy chứ?”
Tô
Phong Nghi kinh nhạc.
Tử Hân
vẫn là Tử Hân. Chàng chẳng hề thay đổi, vẫn khiến người ta khó hiểu như xưa.
“Huynh
có biết huynh ấy ở trấn nào không?”, cuối cùng nàng hỏi.
“Không
rõ”, tiểu nhị lắc đầu, thấy nàng thất vọng bèn nói: “Để tôi đi hỏi giùm cô
nương”.
Hắn
chạy ra sau nhà hỏi một vòng rồi quay lại bảo nàng: “Ở Đông Đường trấn”.
Trong
lòng nàng chấn động, đặt phắt tách trà xuống, nhảy lên ngựa vội vã phi đi.
Khoảng
trời đấy tuyết lớn rơi vô tận. Con đường nọ mười hai năm trước nàng từng đi
qua, bây giờ trong trận tuyết lớn đã trở nên hoàn toàn lạ lẫm.
Có mấy
lần nàng đã hoài nghi bản thân đi nhầm đường, đang đi vào một thôn làng xa lạ
nào đó.
Người
đi đường thưa thớt, vó ngựa phi trong tuyết cuộn lên từng đám hoa tuyết. Hoàng
hôn xuống, tiểu trấn trong cơn gió tuyết yên bình nhường ấy. Ánh đèn vàng nhập
nhoạng như trong mộng, khói bếp nghi ngút, thổi dạt tuyết bay đầy trời.
Gió bấc
gào thét, khí lạnh buốt xương, con đường lát đá xanh đã bị tuyết phủ kín. Người
bán rong vẫn cần mẫn đứng bên đường chào bán bó rau cải cuối cùng trong sọt,
đấu gạo cuối cùng trong bao. Hắn rao gọi bằng giọng run run, thi thoảng lại đưa
đôi tay lạnh sưng đỏ lên miệng, sưởi ấm bằng hơi thở của mình.
Tô
Phong Nghi đi dọc theo dãy bảng hiệu ngắm nhìn, chúng to nhỏ khác nhau, chẳng
có gì đặc biệt, nàng không sao nắm chắc nơi đâu là chốn hai người đã gặp gỡ
mười hai năm trước.
Nàng
đánh phải gõ bừa cửa của một tiệm, định hỏi thăm chủ nhân nơi Tử Hân ở.
Thời
khắc cánh cửa mở ra, nàng chợt sững người!
Nàng đã
gặp được Tử Hân!
Tử Hân
cũng thoáng sững ra nhưng rồi khẽ mỉm cười với nàng.
Thoắt
cái mặt Tô Phong Nghi đã đỏ bừng, bẽn lẽn nhìn chàng. Nàng biết bản thân thay
đổi quá nhiều, có lẽ Tử Hân đã chẳng còn nhận ra nữ nhân to béo trước cửa nhà mình
là ai. Đang định mở miệng, Tử Hân đã tranh chào trước:
“Phong
Nghi, xin chào.”
“Muội…
muội… xin chào.”
“Bên
ngoài lạnh lắm, vào trong này ngồi”, chàng hé một góc cửa đợi nàng vào rồi đóng
cửa lại.
Quả
nhiên đó là căn phòng rất nhỏ, trừ mấy món đồ đạc đơn giản nhất ra thì chẳng
còn gì nữa. Có điều căn phòng được thu dọn sạch sẽ, ở giữa có một chậu sưởi giữ
ấm, than cháy leo lét, giấy dán cửa sổ mỏng dính chẳng ngăn nổi khí lạnh bên
ngoài, chàng đang khoác chiếc áo da cũ mèm, ngón tay đã lạnh tới thâm đi.
Tử Hân
pha cho nàng một tách trà nóng nhưng không làm sao bưng cho nàng được, bởi một
tay chàng đã bị thương, tay kia còn phải chống trượng.
Nhận ra
chàng đang rất lúng túng, nàng khẽ cười, nhấc tách trà trên bàn, nhấp nhẹ một
ngụm.
“Muội
đang lo huynh chẳng còn nhận ra muội nữa”, nàng ngẩng đầu, nhìn vào khuôn mặt
chàng.
Từng ấy
năm đã qua, nàng vẫn dễ dàng rung động bởi khuôn mặt chàng, đôi mắt xa xôi mà
tha thiết ấy của chàng.
“Sao
thế được?”, chàng chăm chú nhìn nàng nói: “Ta vĩnh viễn nhận ra muội”.
Mặt tự
dưng lại đỏ lên, nàng ôm tách trà, cúi đầu không nói.
Tử Hân
cười, chợt nghĩ ra gì đó, liền nhấc sọt trúc dưới đất lên, nói: “Muội ngồi đây nhé,
ta ra ngoài mua ít than rồi về… Trong phòng lạnh quá”.
Nàng
vội vàng đứng dậy, giằng lấy sọt trúc, nói: “Muội đi với huynh”.
“Không
cần đâu, bên ngoài đang có tuyết lớn…”
“Muội
vừa mới từ ngoài vào mà.”
“Thôi
được rồi.”
Chàng
đi tới ngồi cạnh cửa, lấy ra một đôi giày định thay. Tay trái chàng không linh
hoạt, loay hoay mãi mới đi xong một chiếc, Tô Phong Nghi bèn quỳ xuống, gạt tay
chàng ra, nói: “Để đấy cho muội”.
Nói
rồi, chẳng thèm tranh cãi, cứ thế giúp chàng đi nốt chiếc còn lại.
Chàng
định nói “đa tạ” nhưng lại cảm thấy như thế xa lạ, nên lời đã tới môi nhưng
không nói ra miệng.
Ra khỏi
cửa, đi trên đường tuyết, chàng chợt nắm lấy tay nàng, hỏi: “Phong Nghi, mấy
năm nay muội sống có tốt không?”.
“Rất
tốt, huynh thì sao?”
“Cũng
ổn.”
“Lên
ngựa đi, dưới đất trơn quá”, nàng dắt ngựa, nói với chàng.
“Không,
không, không”, chàng lập tức nhớ tới Tiểu Mi, đời này kiếp này, chàng tuyệt đối
không thể để nữ nhân nào dắt ngựa cho mình nữa: “Chợ họp cách đây không xa, đi
bộ một chút là đến mà”.
Tô
Phong Nghi chỉ đành đi bộ cùng chàng tới chợ.
Dọc
đường, chàng vẫn một mực lặng lẽ dắt tay nàng. Nàng cảm nhận được cánh tay trái
bị thương của chàng không còn sức lực như trước, nhưng vẫn rất ấm áp, thậm chí
nàng còn cảm thấy bộ dạng chàng dắt tay mình rất ngây thơ, rất ỷ lại, cứ như
một đứa bé vậy. Tử Hân vẫn gầy guộc như xưa, nhưng lại cố chấp đi phía trước,
chắn gió tuyết trước mặt đang ập tới nàng.
Tìm tới
cửa tiệm bán than, chàng bỗng hỏi: “Muội định ở lại đây mấy ngày?”.
Nàng
tức giận dừng bước, hung hăng trợn mắt nhìn Tử Hân.
“Không,
không, ta không phải có ý đó”, chàng vội vàng giải thích: “Nếu muội ở lại ít
ngày, ta sẽ mua ít than một chút, cho bớt khói. Nếu muội ở lâu, ta đành phải
mua như thường vậy… Tiền của ta không nhiều”.
Chàng
có chút lo lắng, có chút phiền não, sao mới mở miệng đã lại đắc tội với nàng
rồi.
Tô
Phong Nghi nói: “Muội ở lâu nhưng cũng không muốn có khói”.
Tử Hân
nhìn nàng than thở: “Phong Nghi, bao nhiêu năm rồi, muội vẫn khó chiều như
thế”.
Nàng
lập tức nhảy dựng lên: “Muội chẳng khó chiều chút nào, có huynh mới khó chiều,
huynh là khó chiều nhất! Mấy năm nay huynh đi đâu? Sao không cẩn thận lại bị
trọng thương tới mức này? Hẵng may là còn giữ được cái mạng, nếu không… nếu
không… chẳng phải muội phải xuống tận âm tào địa phủ mới tìm được huynh sao?”.
Tử Hân
vội vàng ngậm miệng, đưa tiền trong tay ra mua loại than tốt nhất, rồi để cho
Tô Phong Nghi ôm bịch than nặng nề theo chàng quay về.
Cho
thêm than, lửa trong chậu sưởi đã cháy mạnh hơn, căn phòng cũng theo đó mà ấm
dần lên.
Căn
phòng nghèo nàn, nghĩ tới việc chàng phải sống đạm bạc nhường này, nàng không
khỏi sinh lòng thương cảm.
Hai
người trầm mặc không nói, nhìn nhau hồi lâu.
Trong
ánh nến đung đưa, Tô Phong Nghi đột nhiên hạ thấp giọng, nhẹ nhàng hỏi chàng:
“Tử Hân, huynh còn gặp được Trúc Ân không?”.
Chàng
lắc đầu: “Không”.
Đúng là
không hề. Kể từ cái ngày chia tay với Tô Phong Nghi, Trúc Ân không còn xuất
hiện nữa.
“Huynh
không cần phải trừng phạt bản thân”, Tô Phong Nghi nắm lấy tay chàng, dịu dàng
nói: “Đấy không phải lỗi của huynh”.
Tay của
Tử Hân khẽ động: “Ta không biết muội ám chỉ điều gì”.
“Đường
Hành đã kể cho muội nghe chuyện Tiểu Mi.”
Tử Hân
bất an nhìn nàng, trong mắt chợt hiện vẻ thống khổ: “Không, là ta giết muội
ấy!… Ta không nên hẹn muội ấy ra ngoài, không nên học cưỡi ngựa, ta không nên
sơ ý đãng trí đánh rơi trượng… Là ta hại muội ấy, là ta giết muội ấy! Muội ấy
còn nhỏ thế, mới mười một tuổi…”.
Nhắm
mắt vào, chàng lại trông thấy Tiểu Mi, nghe thấy tiếng sấm hôm ấy. Cô bé ngã
dưới đất, máu đen từ sau đầu tràn ra… Cô bé mở to mắt nhìn chàng, tựa như còn
chưa rõ đã xảy ra chuyện gì. Đúng vậy, cho tới tận khi chết, cô bé vẫn không
biết sinh mệnh hóa ra có thể dễ dàng biến mất như thế.
Muội
buồn ngủ rồi, ngày mai lại dạy huynh.
Tô
Phong Nghi dùng móng tay găm vào tay chàng, nhìn vào mắt chàng: “Cho nên huynh
mới chọn cách bỏ chạy, chọn lang bạt, nghĩ rằng mình không xứng đáng được sống
tốt đẹp, đúng không?”.
Đúng
không?
Chàng
tự hỏi, là thế sao?
Mỗi khi
quyết ý đi gặp Tô Phong Nghi, tới thời khắc sau cùng chàng lại từ bỏ. Chàng
biết vì sao mình lại lảng tránh nàng.
Giống
như Vương Lộc Xuyên từng oán trách nàng, Tô Phong Nghi này quả thật khiến người
ta lộn ruột, sắc bén tới mức khiến người khác khó chịu. Cái nhìn của nàng lại
còn lấp loáng như điện, chẳng chịu bỏ qua cho người khác chút nào.
Chàng
không chịu đối diện với nội tâm của bản thân, bởi thế cũng không dám đối diện
với nàng.
“Đấy
không phải là lỗi của huynh!”, nàng to tiếng nhắc lại: “Xin đừng khiến cho
những người thương yêu huynh cũng phải chịu tội nữa!”.
Đúng
thế, bao nhiêu năm rồi chàng không về thăm phụ thân? Nếu lúc Tử Duyệt xảy ra
chuyện mà có chàng bên cạnh, có lẽ nàng đã không coi nhẹ mạng sống như thế
chăng?
Khuôn
mặt tái nhợt của chàng nở nụ cười: “Được rồi, đấy không phải là lỗi của ta”.
“Vậy
thì huynh tha thứ cho bản thân đi”, nàng ngồi tới bên chàng, nghiêng đầu sang,
ngọt ngào thủ thỉ: “Nhân tiện cũng tha thứ cho muội”.
Tử Hân
có chút không hiểu: “Tha thứ cho muội cái gì?”.
“Phàm
là chỗ nào ở muội huynh không thích thì đều phải tha thứ”.
“Chỉ
cần muội là chính bản thân muội, ta đều thích hết.”
Chàng
vuốt ve mái tóc dài mềm mại của nàng, sau đó cầm gậy trúc khều than trong chậu
sưởi, nói: “Bữa tối muốn ăn gì, ta sẽ nấu cho muội”.
“Phu
thê phế phiến[1], thịt viên tứ hỷ, củ cải sào”, nàng không chút
khách khí nêu thực đơn.
[1]
Một món ăn nấu từ tim bò, lưỡi bò, dạ dày bò, thịt bò nhưng không hề dùng phổi
bò.
Tử Hân
đứng dậy, rầu rĩ đi vào bếp, đi được nửa chừng bỗng nhiên vòng lại, tới trước
mặt nàng, hít một hơi thật sâu, nhìn vào mắt nàng, nói: “Phong Nghi, gả cho ta
đi”.
Thoáng
cái mặt Tô Phong Nghi đã đỏ rực: “Sao bây giờ huynh mới nói!”.
Chàng
lập tức hồi hộp: “Giờ nói đã muộn mất rồi sao?”.
Nàng mở
to mắt nhìn chàng hồi lâu rồi cười rạng rỡ: “Không muộn, không muộn chút nào”.
Đêm hôm
đó, cuối cùng bọn họ cũng ở bên nhau.
Không
có nến đỏ, không có áo cưới.
Nàng
cho rằng bản thân sẽ sợ nhưng tất thảy đều diễn ra tự nhiên.
Bây giờ
nàng mới hiểu, trước mặt Tử Hân, những nỗi sợ hãi chôn giấu bao nhiêu năm không
hề tồn tại.
Nếu yêu
một ai đó sâu sắc, nỗi sợ hãi nào cũng có thể khắc phục.
Ngày
thứ ba, Tử Hân tới chùa khước từ việc sao kinh.
“A”,
phương trượng có chút tiếc rẻ: “Quá mệt mỏi hả? Sao này cậu cứ lui tới sao
chép, sao ít đi một chút cũng được… Tiền công không đổi”.
“Không,
không, không”, chàng nói: “Phương trượng, con thành thân rồi”.
“Chúc
mừng, chúc mừng!”, phương trượng vui thay cho chàng.
“Thê tử
con kiếm được nhiều tiền hơn con nhiều”, Tử Hân cười nói: “Nàng bảo, con cứ ở
nhà mà tĩnh tâm viết sách, không cần chép kinh nữa”.