Đọc truyện Mê Thần Ký – Chương 22
Mấy ngày nay tâm tình Đinh tướng quân không được thoải
mái cho lắm.
Ông ta
cảm thấy triều đình không coi mình ra gì, quan lại địa phương cũng chẳng coi
mình ra sao, chỉ trừ có binh sĩ dưới trướng là không kẻ nào dám không coi ông
ra gì.
Vì một
câu bộp chộp lỗ mãng mà lão đã đắc tội với tể tướng, bị một đạo thánh chỉ đẩy
tới tận miền tây bắc.
Bởi thế
lão phải trèo đèo lội suối, vượt Phượng Tường, qua Lan Châu, tới cái xứ chó ăn
đá gà ăn sỏi, tây hơn cả phía tây, bắc hơn cả mạn bắc này!
Ông ta
lĩnh binh từ kinh thành xuất phát vượt ngàn dặm, còn chưa đi được nửa đường đã
lại có một đạo thánh chỉ rót xuống, bắt ông ta thuận đường tiễu trừ thổ phỉ.
Nói là
tiễu trừ thổ phỉ nhưng cũng chẳng phải phỉ gì lớn lắm, đã không phải thổ phỉ ở
Thái Hành căn cơ thâm hậu, cũng không phải nghĩa quân chấn động triều cương gì,
chỉ là mấy cái sơn trại nho nhỏ, một lũ ô hợp, thế mà định bắt đại quân của lão
dừng ngang đường, lấy dao mổ trâu đi giết gà?
Trong
lời kể sống động như thật của đám quan lại địa phương, sơn phỉ ở Thanh Lĩnh sơn
cực kỳ hung hãn, ẩn nấp trong dãy núi hùng vĩ mây mù bao phủ, ra vào xuất quỷ
nhập thần. Quan phủ đã bó tay, nhiều lần tiễu trừ mà không làm sao thành được.
Đã có lúc một đám nhân mã vào núi, còn chưa dò ra được tung tích của sơn phỉ thì
đã đầu một nơi mình một nẻo, hoặc là toàn bộ biệt tích.
Đương
nhiên, đối với chuyện này, quan lại địa phương cũng chẳng phải là không cố gắng
hết sức. Mười năm trước, bọn họ từng tập kết binh mã đánh giết lên Thanh Lĩnh,
đại chiến một trận chín ngày chín đêm với sơn phỉ. Quan quân thương vong trầm
trọng, sơn phỉ cũng chết không biết bao nhiêu mà kể. Sau một trận ấy, ai ai
cũng cho rằng Thanh Lĩnh sơn từ đây đã trở thành mảnh đất yên bình rồi, để kỷ
niệm công lao của mình, quan địa phương còn bỏ một khoản lớn sửa sang quan đạo
trong núi, đặt sáu trạm, mỗi trạm đều có quân đồn trú. Con đường bộ thông đông
tây bờ nam Trường Giang cuối cùng đã được khôi phục.
Đáng
tiếc việc tốt thường không bền. Ba năm sau, Thanh Lĩnh lại thành ổ của cường
đạo. Sự hung tàn lang độc so với sơn phỉ năm xưa chỉ hơn không kém. Quân binh
đồn trú năm nào cũng giảm, lương thảo thì bị cướp, không sao sống được, binh sĩ
được phái đi đều biết chuyến này là công tác một chiều có đi không có về, chẳng
ít người dứt khoát vứt giáp lên núi, gia nhập thảo khấu.
Cho
nên, Đinh tướng quân cầm quân đánh giặc tới nay cũng xem như thường thắng,
nhưng tiễu phỉ lần này thì lại rất không thuận lợi.
Dùng
hết mọi thủ đoạn, cuối cùng hắn cũng bắt được kẻ kia.
Mười
cái sơn trại trên Thanh Lĩnh là mười nhóm sơn phỉ, mỗi cái đều có thủ lĩnh và
cờ hiệu riêng, thường ngày ít khi qua lại, tới mùa làm ăn thì gầm gừ nhau như
sói như hùm, chớ có nói gì tới tương trợ. Kẻ hắn muốn bắt lần đầu là lĩnh sơn
phỉ ở Thần Thủy trại mạn nam Thanh Lĩnh. Dải đó địa thế cao dốc hiểm trở, sơn
cốc thâm sâu, dã thú ẩn hiện, dễ thủ khó công, trong mười trại có tới bốn trại
đều đặt sào huyệt của mình ở đây. Vì chỗ này mà các nhóm thổ phỉ đã nhiều lần
động can qua với nhau.
Cho dù
là gốc gác khác nhau, nhưng đám đầu lĩnh đều là những nhân vật thành danh trong
giới lục lâm. Trong số đó, danh tiếng vang dội nhất chính là “Ngân đao Tiểu
Sái”.
Tiểu
Sái xuất đạo cực sớm, thành danh cũng rất nhanh. Trong mười tám vị đao khách
nổi tiếng miền tây bắc, gã là lão đại, hồi trẻ từng dựa vào một thanh loan đao
sắc bạc độc bá một phương. Khi đó gã làm ăn theo đường chính đạo, giết mã tặc,
hộ thương đoàn, một chuyến trót lọt cũng kiếm được không ít ngân lượng. Dưới
tay còn có mười mấy vị huynh đệ cốt cán, ai cũng là tay thiện nghệ. Về sau
không biết tại sao lại lưu lạc tới trung nguyên, rồi đi hành nghề thảo khấu,
trở thành trại chủ Thần Thủy trại.
Khi ấy
Tiểu Sái đã chẳng “tiểu” nữa, tuổi đã hơn bốn chục nhưng hào khí chẳng thua năm
xưa.
Tiểu
Sái có nguyên tắc của Tiểu Sái.
Tiểu
Sái không đi cướp phá làng mạc, cũng không động tới người đi đường hay thương
đội nhỏ mà chỉ làm lớn. Thông thường làm một vụ nghỉ một năm.
Hắn
chuyên môn cướp bạc trắng trên quan đạo. Quan ngân là mục tiêu chủ yếu, ví dụ
như thuế đất, thuế muối, thuế quan áp tải lên kinh thành, gã còn xưng là bản
thân làm thế để cướp của người giàu chia cho kẻ bần cùng.
Bách
tính đói khổ xung quanh đúng là cũng nhận được từ hắn không ít điều tốt. Những
người ăn không no, sống không nổi lũ lượt kéo nhau lên núi, coi Thần Thủy trại
là nơi thiên đường.
Thế lực
của Thần Thủy trại càng ngày càng lớn, các thủ lĩnh chín trại kia dần dần ngầm
thừa nhận địa vị lão đại của hắn. Phàm là thứ Ngân đao Tiểu Sái xem trúng,
những kẻ khác thường sẽ không động tâm.
Mặc kệ
Ngân đao Tiểu Sái ở vùng tây bắc danh tiếng lừng lẫy một phương, trên Thanh
Lĩnh sơn nói một là một, nói hai là hai thì tên hắn cũng tuyệt đối chẳng đủ
vang dội tới mức có thể kinh động tới bước tiến của Đinh tướng quân, mà cũng
chưa tới mức chuốc lấy cái họa bị diệt tuyệt. Nhưng mà, hắn đã làm một chuyện
không nên làm.
Ba
tháng trước, triều đình điều động mười tám vạn lượng quân lương từ trong kho của
Lưỡng Chiết, sai Bổ Khố đại sứ Vệ Đông Thăng áp tải lên miền tây bắc dùng làm
quân phí tu bổ vùng biên cương. Năm chục binh lính theo xe áp tải, dọc đường
bình an vô sự. Không ngờ vào tới vùng Thanh Lĩnh, còn chưa qua núi đã bị Ngân
đao Tiểu Sái đem người tới cướp sạch. Không những chín chục rương bạc trên chín
cỗ xe ngựa bị lấy hết mà cả năm chục vệ binh cho tới chính bản thân Vệ Đông
Thăng cũng bỏ mạng đương trường.
Sau khi
xảy ra chuyện, quan viên địa phương từng phái quân vào núi, ý đồ muốn đoạt lại
mười tám vạn lượng bạc đó, kết quả là bị Thần Thủy trại biết tin, chặn đánh nửa
đường, giết cho tơi bời giáp trụ. Không biết làm sao, quan địa phương đành viết
một bản tấu gửi về triều đình.
Đinh
tướng quân chính vì thế mà nhận được ý chỉ “Thuận đường tiễu trừ thổ phỉ”.
Ông ta
phái người tới kiểm tra di vật của Vệ Đông Thăng, phát hiện trên người hắn có
một tờ giấy, bên trên viết“Núi này do ta mở, cây này do ta trồng,
nếu muốn đi qua đây, phải lưu tiền mãi lộ”, bên dưới vẽ hình loan
đao màu bạc.
Giữa tờ
giấy còn có một cái lỗ do đao xuyên qua.
Ấn
tượng đầu tiên của Đinh tướng quân là, gã Tiểu Sái này quá dung tục. Làm sơn
phỉ bao nhiêu năm như thế, cướp được rồi thì cũng nên màu mè ra vẻ một chút, ai
ngờ vẫn còn chơi trò cũ rích găm đao lưu thư, lại còn để lại bốn cái câu cổ lỗ
ai nghe cũng ghét kia.
“Ài,
hai năm trước, Tần tướng quân cũng từng xuất binh tới đây tiễu phỉ một trận,
chỉ đáng tiếc cường long bất áp địa đầu xà[1]. Đám sơn phỉ mười trại
ấy, ngày thường chẳng có chuyện gì còn xông vào đánh nhau, lần ấy bỗng dưng lại
liên kết cùng nhau chống đối”, quan địa phương nhìn sắc mặt, biết ngay ông ta
trong lòng buồn bực, không thích thú gì chuyến tiễu phỉ này, bèn cố ý nói.
[1]
Cường long bất áp địa đầu xà: Nghĩa là rồng dù mạnh cũng không thể địch nổi bọn
rắn địa phương, gần nghĩa với “phép vua còn thua lệ làng”.
Đinh
tướng quân nghe thế, biết ngay hắn khích tướng, trong lòng càng thêm bực bội.
Ông ta không tin nhất chính là cái câu “Cường long bất áp địa đầu xà” ấy, đấu
không lại địa đầu xà chỉ có thể chứng minh con cường long kia không đủ mãnh.
Thế nào cũng phải giở mấy chiêu lợi hại cho cái thằng quan nhép đầu hoẵng mắt
chuột này mở mắt.
Lần đó
tập kích nhanh như sét đánh không kịp bưng tai, ông ta vốn dự đoán sẽ phải khổ
chiến một trận, ai ngờ cả quá trình lại dễ dàng, nhanh chóng hơn nhiều so với
tưởng tượng.
Trong
trường huyết chiến ấy, quan quân của ông ta giết được hơn hai trăm tên, tiêu
diệt cả sơn trại. Trong tám mươi lăm người còn lại, trừ mấy tên đầu lĩnh cần
phải bắt sống đợi thẩm vấn ra, quá nửa là đàn bà và trẻ nhỏ.
Đinh
tướng quân tự mình đem người lên núi, lật tung cả cái Thần Thủy trại lên cũng
không tìm thấy quân lương bị mất. Chớ nói tới xe vận tiêu, mà ngay cả một cái
rương cũng chẳng thấy.
Tiểu
Sái đương nhiên không thừa nhận, Đinh tướng quân có cách của Đinh tướng quân.
Ông ta
chẳng nói nhiều, đem cực hình ra chiêu đãi.
Suốt
hai ngày nghiêm hình tra khảo, trên người Tiểu Sái đã không còn chỗ nào lành
lặn, nhưng gã vẫn nói không biết, thật sự không biết.
Đinh
tướng quân nổi cơn thịnh nộ.
Lão lôi
đứa con trái sáu tuổi của Tiểu Sái tới trước mặt hắn, đè bàn tay thằng bé lên
bàn.
“Nói!
Quân lương ở đâu?”
Đôi mắt
đỏ lừ của Tiểu Sái cuối cùng cũng lộ ra vẻ sợ hãi, nhưng vẫn cứ lắc đầu.
Đinh
tướng quân rút yêu đao, vung tay hạ đao. Ánh bạc loang loáng, ngón trỏ của đứa
bé đã bắn tung lên không trung, máu tươi bắn lên mặt, lên miệng Tiểu Sái.
“Oa…
cha ơi cứu con!!!”, đứa bé đau đớn giãy giụa, kêu khóc thảm thiết.
Gã liếm
sạch máu con mình, cúi thấp đầu, toàn thân run bần bật, nhưng vẫn không nói gì.
“Ngươi
nhận hay không?”, Đinh tướng quân híp mắt lại, mặt lộ sát khí.
“Tôi…
tôi thực không biết!”, giọng Tiểu Sái khàn đi bởi thống khổ, gã quỳ xuống đất,
mười ngón tay cào đến máu tươi ứa đầy.
Đao
quang lại loáng lên, một ngón tay nữa bị chặt xuống.
Gã
không còn dám nhìn mặt con, vội nhắm mắt lại.
Bản
thân Đinh tướng quân cũng có mấy đứa con trai, đương nhiên ông ta biết một
người cha trong tình cảnh này có cảm giác gì.
“Mọi
người nói ngươi là thiết hán. Ta muốn xem xem thiết hán nhà ngươi rốt cuộc cứng
rắn đến mức nào!”, hắn cười lạnh.
Tiểu
Sái quả nhiên vô cùng cứng đầu, gã vẫn không chịu thừa nhận.
Lúc
chặt tới ngón thứ ba, đứa nhỏ đã không còn sức khóc nữa, hai mắt trợn ngược,
đau quá mà ngất đi.
Đinh
tướng quân vẫn đè tay đứa bé, chẳng mảy may có ý định buông tha cho nó.
“Ngươi
có biết cách tốt nhất để cầm máu là gì không?”, lão cười nhạt, chỉ vào bàn tay
đầm đìa máu của đứa nhỏ: “Sắt nung. Dùng sắt nung đỏ đốt là máu sẽ ngừng chảy.
Người đâu…”.
“Đừng,
đừng! Tôi nhận! Tôi nhận! Xin ngày hãy tha cho nó đi!”
Tiểu
Sái sắt đá lúc này khuôn mặt đã đẫm lệ, cuối cùng cũng phải mềm ra rồi. Gã nói
gã đã nhờ một vị bằng hữu đáng tin đem quân lương giấu ở một chỗ tuyệt mật, đến
chính gã cũng chẳng biết là ở đâu. Vị bằng hữu kia lại hành tung bất định, muốn
tìm được cần có thời gian.
“Cần
bao nhiêu thời gian?”, Đinh tướng quân hỏi.
“Ít
nhất là một tháng.”
“Hạn
cho ngươi trong vòng mười ngày phải tìm được”, Đinh tướng quân âm trầm nói:
“Nếu không, ta xẻ con trai ngươi làm tám mảnh, đem toàn bộ tám mươi lăm người
này băm thành tương thịt”.
Lão phế
võ công của Tiểu Sái, cấp cho hắn một con ngựa rồi thả hắn ra. Sau đó sai người
chuyển lời cho quan địa phương: “Sau mười ngày nữa tới nhận quân lương”.
Quan
địa phương mừng ra mặt, tự mình tới cảm ơn, nói tướng quân ngài thật là thần
dũng vô địch, nhờ ngài tiện thể đem chín cái trại còn lại quét cho sạch luôn
đi.
Đinh
tướng quân thầm mắng trong lòng, bổn tướng quân lại do ngươi sai khiến sao?
Liền hừ lạnh một tiếng, kiêu căng nói: “Triều đình không có ý chỉ ấy”.
Ai ngờ
hai ngày sau có người bảo với ông ta, cái vị Tôn tri phủ này là cháu của Tôn
quý phi, ngàn vạn lần không thể đắc tội, đắc tội rồi, nửa đời còn lại của ông
ta xác định ở lại luôn tây bắc đi, chớ có mong quay về nữa.
Ông ta
hối hận, nhưng lời đã nói ra khó mà thu lại được. Cho nên khi Tôn tri phủ thông
báo Sơ An trấn trước mặt xuất hiện ôn dịch, cầu ông ta phái binh “chi viện”,
lão không dám cự tuyệt nữa.
“Cái
trấn ấy có bao nhiêu người?”, lão hỏi.
“Hơn
năm trăm người.”
“Chết
mất bao nhiêu rồi?”
“Hơn
hai trăm.”
“Hai
trăm bao nhiêu?”
“Không
rõ.”
“Không
rõ?”
“Ôn
dịch lan tràn cực nhanh. Có lẽ lúc tôi với ngài đang nói đây lại chết thêm mấy
người.”
“Hả?”
“Cái
trấn ấy ở không xa phía trước, cách thành Gia Khánh chỉ có hai chục dặm. Tôi đã
phái quân lính thắt chặt hai đầu ra vào trấn, người bên ngoài chắc chắn không
thể đi vào nhưng người trong ấy, bất luận có nhiễm bệnh hay chưa đều đang tìm
cách thoát ra ngoài… Cũng khó trách, trong trấn ấy toàn là nông bộ, bây giờ đã
thành một bãi tha ma. Ngoài đường, trong nhà toàn là người chết, không ai dám
động vào, cũng không dám chôn. Tôi đây là quan phụ mẫu nhìn mà đau lòng, nhưng
cũng không dám mạo hiểm sai người vào lo liệu, chỉ có thể đặt hai cái nồi lớn ở
hai đầu, nấu chút thảo dược cho người còn sống, sau đó đều đặn tiếp chút lương
gạo với nước sạch.”
“Thảo
dược có tác dụng không?”
“Để vỗ
an lòng người mà thôi. Lúc đầu tôi có mời một vị đại phu, ai ngờ hắn sống chết
gì cũng không chịu vào đó. Tôi dọa hắn mấy câu, hắn bèn nói phải về nhà tra
sách nghĩ phương thuốc, tới ngày hôm sau sẽ quay lại. Tôi cũng không chú ý,
biết đâu được ngày hôm sau phái người tới tìm hắn, hắn đã đem cả nhà chạy biệt
tăm biệt tích rồi.”
“Nói
như vậy, hơn hai trăm người còn lại chỉ có thể đợi chết thôi à?”
“Gần như
thế… Vào lúc thế này, không thể để bọn họ chạy loạn ra ngoài được. Chẳng may để
dịch bệnh lan vào thành thì phiền phức lớn rồi. Ài, đây cũng là vì chẳng có
cách gì”, Tôn tri phủ than thở.
“Nếu
như có người liều xông ra thì sao?”
“Đây chính
là lý do tôi phải mời tướng quân ngài giúp đỡ.”
Ý tứ
của câu nói, Tôn tri phủ đã dùng ánh mắt ngầm biểu đạt rõ rồi.
“Ừm,
hiểu rồi.”
Làm bậc
quan phụ mẫu, vào lúc nguy cấp thế này mà không đích thân tới nơi thị sát tình
hình dịch bệnh, an ủi vỗ về dân chúng đã là rất không ổn rồi, nếu lại xử lý quá
tuyệt tình, chỉ sợ người người nguyền rủa, cho nên mới phải nhờ tới người ngoài
ra mặt làm cứng.
Bởi
thế, việc quân lương đang không có manh mối, Đinh tướng quân căn dặn mấy thủ hạ
lưu lại đợi Tiểu Sái xong liền đem theo đội ngũ đi tới Sơ An trấn.
“Dù sao
thì cũng thuận đường, Đinh tướng quân, khó nhọc ngài đi chuyến này rồi”, tri
phủ nửa cười nửa không, rất khách khí ôm quyền vái lão.
Đinh
tướng quân có thể nhìn ra chút bỡn cợt trong đó. Với thế lực sau lưng tên tri
phủ này, lão chỉ có thể ôm giận vuốt râu, vuốt đứt mấy sợi râu của chính mình.
…
Đi tiệm
thuốc bốc thuốc xong, Quách Khuynh Quỳ vội vàng trở về Dụ Long khách điếm.
Cho dù
đã có Đường Hành ở đấy với Thẩm Khinh Thiền, hắn vẫn rất không an tâm. Hắn biết
nhân mã của Thẩm gia đã tới hết Gia Khánh, bọn họ đang lùng bắt Quách Khuynh
Trúc khắp nơi.
Hắn
cũng biết, hắn và Thẩm Khinh Thiền đều đang trong sự giám sát của họ.
Còn như
người nhà đó rốt cuộc có kế hoạch gì, vì sao tới giờ vẫn chần chừ chưa động
thủ, hắn lại chẳng rõ chút nào.
Bầu
trời đằng xa mây mù rợp mắt, một trận gió mưa sắp tới.
Trong
lòng hắn nghĩ thầm, cái gì nên tới thì để nó tới nhanh một chút đi! Cái gì nên
kết thúc cũng để nó nhanh nhanh kết thúc.
Xét cho
cùng, cuộc đời này ngoài thù hận, còn những chuyện khác nữa phải làm. Còn rất
nhiều, rất nhiều chuyện nữa.
Hắn
muốn nói với đại ca suy nghĩ này, nhưng trong lòng hiểu rõ đại ca sẽ không thấu
hiểu… Đại ca chỉ sống vì thù hận.
Đúng
vào lúc ấy, một bàn tay không biết từ đâu thò ra, giữ lấy chân hắn suýt nữa
khiến hắn ngã nhào.
Hắn cúi
đầu nhìn xuống, đó là một gã ăn mày lê lết bên vệ đường.
Khuôn
mặt người đó chẳng thể coi là mặt, khắp mặt mưng mủ máu me, trông rất đáng sợ.
Cho
rằng người này muốn xin ăn, hắn vội rút trong người ra một mẩu bạc.
Người
kia giọng khàn khàn, ú ớ hồi lâu mới thốt: “Lưu… Lưu đại hiệp?”.
Lâu lắm
rồi hắn không nghe thấy có người gọi mình như thế!
Trong
lòng chấn động, hắn nhìn kỹ lại người ăn mày, nhưng nhìn lâu lắm rồi mà vẫn
không nhận ra.
“Chúng
ta… có quen biết à?”, cuối cùng hắn hỏi.
“Ở tây
bắc từng gặp mặt một lần… Tỷ đao đại hội.”
“Thứ
cho tôi mắt kém…”
“Tôi là
Tiểu Sái”, người kia nói: “Ngân đao Tiểu Sái”.
Quách
Khuynh Quỳ giật mình biến sắc. Chỉ cần từng lăn lộn trong giới võ lâm tây bắc,
không ai là không biết Ngân đao Tiểu Sái. Nếu như người lăn lộn chốn ấy lại
tình cờ cũng luyện đao, thì chắc chắn không thể không nhận ra Ngân đao Tiểu
Sái.
Quách
Khuynh Quỳ kinh ngạc: “Ngân đao Tiểu Sái, huynh… huynh sao lại tới chỗ này?”.
“Nói ra
dài lắm, không nói thì hơn”, người nọ động tác cứng ngắc, rõ ràng đã bị trọng
thương, lúc nói chuyện cổ họng khò khè, giống như có đờm tắc lại: “Nể tình
chúng ta có quen biết, huynh có thể giúp tôi một chuyện chăng?”.
Quách
Khuynh Quỳ từng nghe nghe những truyền thuyết, thần thoại về nhân vật này. Ngân
đao Tiểu Sái, lão đại của tây bắc thập bát đao khách, năm xưa là một nhân vật
vang dội đến mức nào!
Hắn cúi
xuống đỡ Tiểu Sái lên: “Giúp chuyện gì? Nói đi!”
“Tôi…
không đi nổi, có thể phiền huynh đưa tôi tới chân núi Thanh Lĩnh không?”
“Yên
tâm, huynh định bao giờ thì đi?”
“Bây…
bây giờ được không?”
“Được.
Hay là tôi đưa huynh tới khách điếm một chuyến? Tôi muốn đưa bằng hữu của mình
cùng đi một thể?”, hắn đưa cho một gã bán hàng rong mấy đồng, nhờ hắn giúp gọi
một cái kiệu.
“Đa tạ!
Thanh Lĩnh sơn cách đây không xa.”
“Tôi
biết. Huynh có chuyện gì phải làm ở đó sao?”
“Tôi
muốn nhìn mặt con trai… lần cuối.”
Ăn một
bữa cơm no, uống hai bát rượu mạnh, tinh thần của Tiểu Sái xem ra đã khôi phục
không ít, chí ít thì đã không còn nói năng khàn khàn nữa. Đường Hành cười hỏi:
“Mười năm trước, Sái đại ca là một nhân vật hô mưa gọi gió trên đao bảng, khi
nào có thời gian rảnh chúng ta hẹn tỷ thí một trận chăng?”.
Chưa
dứt lời, Thẩm Khinh Thiền đã đưa chân đạp hắn một cái dưới gầm bàn: “Để Sái đại
ca kể cho chúng ta rốt cuộc xảy ra chuyện gì đã.”
Tiểu
Sái liền kể lại chuyện Đinh tướng quân xuất binh hủy diệt tận gốc Thần Thủy
trại, trên mặt ba người kia đồng thời lộ vẻ thương xót.
“Gã họ
Đinh kia nhất quyết cho rằng tôi đem người cướp mười tám vạn quân lương, thực
ra hôm đó bọn tôi vốn không hề xuống núi”, Tiểu Sái nói.
“Nhưng
mà rốt cuộc huynh có biết khoản tiền ấy đi qua đây không?”, Đường Hành hỏi.
“Nếu là
ngày trước tôi chắc chắn biết. Nhưng lần đó, trong trại bọn tôi có mấy người
không biết ăn phải cái gì, trong một đêm mắc phải bệnh lạ, toàn thân trên dưới
nổi đầy mụn đỏ. Tiếp đó là sốt cao, lở loét. Mười ngày đầu đã chết mất năm vị
huynh đệ. Dần dần người mắc bệnh càng lúc càng nhiều. Tôi vội vàng phái người
xuống núi mời đại phu. Đại phu tới cũng không biết là bệnh gì, chỉ nói có lẽ là
bệnh ngoài da. Cả tháng ấy tôi đang lo liệu chuyện này… Nếu không phải mọi
người đều lâm bệnh, họ Đinh kia há có thể một đêm diệt sạch Thần Thủy trại
sao?”, Tiểu Sái nện xuống bàn một quyền căm phẫn nói.
Quách
Khuynh Quỳ hỏi: “Liệu có phải người trại khác làm không?”.
Tiểu
Sái lắc đầu: “Trừ Thần Thủy trại, trong Thanh Lĩnh sơn chẳng ai có gan động tới
đồ quan phủ. Ngay cả bọn tôi cũng phải cân nhắc kỹ được mất mới hạ thủ… Nói cho
cùng cũng là số lượng lớn bạc nhà quan, quan phủ truy đến cùng ắt sẽ phái binh
đoạt lại. Cướp bạc đương nhiên sảng khoái, nhưng phiền phức phía sau không sao
lường hết. Huống chi muốn đem mười tám vạn lượng bạc thần không biết quỷ không
hay vận chuyển lên núi tuyệt đối không phải chuyện dễ dàng, ít nhiều gì cũng sẽ
bại lộ chút dấu vết”.
Đường
Hành nói: “Nói như vậy, trước mắt huynh chẳng có chút đầu mối nào rồi”.
Tiểu
Sái nói: “Một chút cũng không. Tôi chỉ đành thừa nhận là chúng tôi cướp, chẳng
qua là đã nhờ bằng hữu đem giấu ở chỗ bí mật. Đinh tướng quân mới thả tôi ra, cho
tôi mười ngày bắt tôi tìm bạc về”.
Thẩm
Khinh Thiền hỏi: “Còn bao nhiêu ngày nữa thì đến hạn chót?”.
“Năm
ngày.”
“Huynh
xoay được bao nhiêu bạc rồi?”
“Không
giấu mọi người, Đinh tướng quân đã chặt ba ngón tay đứa con trai sáu tuổi của
tôi, còn tuyên bố sẽ đem tám mươi lăm người đàn bà, trẻ con còn lại băm thành
tương thịt. Trong trại vốn còn mấy nghìn lượng bạc vụn sớm đã bị quan binh cướp
sạch. Trong cơn tuyệt vọng, tôi bèn xuống núi cướp chi phiếu của một thương nhân,
định đến Thiên Thuận tiền trang đổi ít bạc. Ai ngờ trong chi phiếu còn nhiều
tiêu ký bảo mật tiền không tới được tay, thiếu chút nữa là bị người ta tóm. Một
vị huynh đệ muốn giúp tôi, đêm đó một mình tới tiền trang ấy cướp bạc, bất hạnh
bị bảo tiêu một đao chém trúng, bỏ mạng tại chỗ! Ngày hôm sau tôi nghe được tin
ấy, muốn đi nhận lại xác”, hắn cười thảm: “Cho nên mới bị đánh thành ra thế
này. Không những không xoay được bạc, thiếu chút nữa mạng cũng mất luôn. Mười
tám vạn lượng bạc, con số lớn đến thế, muốn cướp cũng không cướp được, bảo tôi
đi đâu xoay được đây?”.
Quách
Khuynh Quỳ nghĩ một chút rồi nói: “Xem ra trước mắt chỉ còn một cách, chính là
lén lút cứu tám mươi lăm người kia ra”.
Tiểu
Sái cười khổ: “Ai giúp tôi cứu cơ chứ?”.
Quách
Khuynh Quỳ đáp: “Tôi”.
Thẩm
Khinh Thiền chỉ vào mũi mình nói: “Còn tôi nữa”.
Đường
Hành cũng nói: “Đệ cũng đi”.
Môi
Tiểu Sái máy động một lúc, rồi không nói gì, vành mắt đã ươn ướt, hồi lâu mới
nói: “Các vị vốn chẳng quen biết tôi, chớ có đi uổng mạng”.
Quách
Khuynh Quỳ vỗ vai gã, nói: “Ai nói là bọn ta sẽ uổng mạng? Chúng ta nhất định
sẽ sống quay về! Con trai huynh cũng sẽ sống sót trở về!”.
…
Lúc
bình minh lặng lẽ tới, Tô Phong Nghi vẫn chưa hề chợp mắt, nàng cứ đi miết về
phía trước.
Nàng đã
đi trọn một vòng thành Gia Khánh, hỏi thăm tung tích Tử Hân tứ xứ.
Đến chỗ
nào, nàng cũng hỏi cùng một câu: “Xin hỏi lão tiên sinh, người có nhìn thấy một
vị giang hồ lang trung đầu đội nón rộng vành, tay chống trượng không?”.
Có
người nói không thấy, có người nói từng thấy qua.
Lần
theo phương hướng vài người chỉ cho nàng, rôt cuộc nàng cũng tới được một ngã
rẽ, cứ tới ngã rẽ nàng thường chẳng biết theo đường nào. Sau đó nàng sẽ lại
giống như một con ruồi vo ve dò hỏi khắp nơi.
Trước
lúc đi, Đường Hành hỏi nàng có cần hắn đi cùng không, Tô Phong Nghi nhảy dựng
lên: “Không, không, không, không! Huynh chớ có đi cùng muội!”.
Đường
Hành lo lắng nhìn nàng, than thở: “Được rồi, ta không đi với muội. Có điều muội
có chịu nghe ta khuyên một câu không?”.
“Nói
đi!”
“Gặp
được Tử Hân thì đừng giải thích gì cả, cũng chớ có thừa nhận gì.”
“Nhưng
mà…”
“Tin ta
đi, như thế sẽ tốt cho muội hơn.”
“Được
rồi, có điều”, trong mắt nàng nước mắt long lanh: “Muội còn có thể gặp được Tử
Hân không? Huynh… huynh ấy vẫn sẽ… vẫn sẽ…”.
Đường
Hành chăm chú nhìn nàng, nói: “Huynh ấy sẽ”.
Lúc ra
đi tâm tình nàng hoảng loạn, vừa bước khỏi cổng thành, Vương Lộc Xuyên đã đuổi
theo đằng sau.
Tô
Phong Nghi mặt đầy nước mắt, nói: “Chớ có đi theo muội”.
“Muội
bỏ quên cái hũ”, hắn cười, tay nâng nâng cái hũ đồng đen sì sì: “Muội vốn là người
tỉ mỉ, sao bây giờ lại biến thành đãng trí thế?”.
Nàng bỏ
cái hũ vào bọc vải trên lưng ngựa, nói: “Đa tạ”.
“Muội
muốn đi đâu?”
“Huynh
hỏi làm gì?”
“Ta đi
cùng muội.”
“Đừng
đi theo muội.”
“Trời
tối rồi, bên ngoài rất loạn, ta không yên tâm”, hắn cười và nói tiếp: “Dù thế
nào, hiện muội vẫn là vợ chưa cưới của ta”.
“Đừng
đi theo muội! Không được đi theo muội!”, Tô Phong Nghi đột nhiên phát cáu, thét
vào mặt hắn: “Không được đi theo muội!”.
“Chớ có
nổi cáu lên thế”, hắn chẳng buồn nghe, cứ theo nàng như cũ.
Tô
Phong Nghi hỏi thăm người qua đường tung tích của Tử Hân, Vương Lộc Xuyên thì
đứng một bên lặng lẽ nhìn. Hỏi thăm xong xuôi, nàng lên đường, hắn liền theo
ngay phía sau.
“Hắn là
giang hồ lang trung, đi khắp giang hồ, muội làm thế nào tìm được hắn đây?”,
thấy Tô Phong Nghi cứ đi mải về phía trước, hắn không nhịn được mà bực bội.
“Không
liên quan tới huynh.”
“Sao
lại không liên quan tới ta? Muội không tìm được hắn, vậy thì hôn sự của chúng
ta có hy vọng rồi”, hắn đưa một bông xuân cúc lên ngậm vào môi, thoải mái nói:
“Ta hận hắn chẳng vĩnh viễn biến mất luôn cho xong”.
Tô
Phong Nghi ghì cương ngựa, quay sang nhấn từng chữ với hắn: “Chớ có hy vọng.
Cho dù Tử Hân vĩnh viễn biến mất, muội cũng sẽ không gả cho huynh. Huynh không
cần theo muội, muội sẽ không đổi ý đâu”.
Mặt
Vương Lộc Xuyên tái xanh giận dữ: “Vì sao chứ? Trừ việc không cổ quái bằng hắn,
huynh có chỗ nào không bằng thằng què ấy?”.
“Muội
thích huynh ấy!”, Tô Phong Nghi lớn tiếng: “Muội thích Tử Hân!”.
Vương
Lộc Xuyên quả thực muốn lôi nàng xuống ngựa, quăng xuống cống: “Muội thích cái
gì ở hắn? Nói huynh nghe xem”.
“Cái gì
cũng thích.”
“Thôi
đi, cái muội thích chẳng qua là do muội tự mình tưởng tượng ra thôi. Đợi những
thứ ấy biến mất hết, muội sẽ chán thôi.”
“Có lẽ
huynh nói không sai”, nàng lạnh lùng, nói: “Nhưng muội ở cùng với huynh chính
là thiếu thứ đó. Con người huynh không xấu, có điều dung tục không chịu nổi!”.
Vương
Lộc Xuyên dừng ngựa, trầm mặt nói: “Từ nhỏ tới lớn ta đều nhường muội, muội
càng ngày càng càn rỡ”.
“Ai cần
huynh nhường muội? Muội ghét nhất chính là lần nào huynh cũng giả tình giả
nghĩa nhường muội!”
Mặt
Vương Lộc Xuyên đã tức đến đỏ lựng, đột nhiên túm lấy Tô Phong Nghi lôi xuống
ngựa, gào lên: “Im miệng! Con đàn bà đáng chết này!”.
“Huynh
xem, lộ nguyên hình rồi nhé!”
“Không
sai!”, bàn tay to lớn của hắn nắm lấy cổ nàng, kéo mặt nàng tới sát mặt mình:
“Ta quên mất, ta còn chưa hôn tân nương của mình đấy. Muội cố ý chọc ta là vì
muội thích bị người khác ức hiếp, đúng không?”.
Nàng
ngửi thấy mùi rượu nồng nặc trong miệng hắn. Lần đầu tiên nàng phát hiện cánh
tay người này to lớn đến thế, cứ như hai cái chân gấu. Bàn tay cũng to tựa
chiếc quạt. Nàng lật tay tát cho hắn một bạt tay, giận dữ gào lên: “Không được
chạm vào tôi! Vương Lộc Xuyên, huynh chớ có nghĩ muốn ép tôi làm cái gì! Huynh
dám!”.
Khoảnh
khắc ấy, nàng tay đấm chân đạp, thét lên như điên: “Huynh không biết sao? Từ
nhỏ tôi đã bị ức hiếp quen rồi, đừng ai nghĩ tới chuyện ức hiếp tôi nữa!”.
Đột
nhiên nàng lại nhớ tới cái đêm ấy, dưới ánh nến mờ mờ, bàn tay trắng trẻo thô
lỗ, khuôn mặt gã, còn cái câu nói kia nữa:
Rót
trà cho ta.
Rót
trà cho ta. Rót trà cho ta. Rót trà cho ta…
…
“Này,
này, chớ có điên lên được không?”, Vương Lộc Xuyên giữ lấy tay nàng, trên mặt
hiện lên nụ cười khổ, khẩu khí hòa dịu lại: “Ai dám ức hiếp muội, huynh đánh
chết hắn! Huynh chỉ muốn dọa muội tí thôi. Muội nói xem, huynh từng ức hiếp
muội bao giờ chưa? Huynh sao dám chứ?”.
“Thế
thì huynh về nhà đi, đi đi! Đi đi! Chớ có đi theo muội nữa!”
“Muội
không biết trước khi hửng sáng chính là lúc trời đất tối nhất à? Hiện giờ trăng
tỏ gió lớn, chính là lúc giết người phóng hỏa. Ta vẫn phải đi theo muội.”
Nàng
không thèm nói lý với hắn, thấy trước mắt có người hái nấm bèn vung roi định
đuổi theo hỏi thăm tung tích Tử Hân. Vương Lộc Xuyên chợt gọi nàng lại:
“Vừa
rồi ta giúp muội hỏi thăm rồi… Hắn ở Sơ An trấn.”
…
Tiểu
trấn cực kì yên tĩnh nhưng đèn đóm sáng trưng.
Tới gần
xem, hóa ra chiếu sáng không phải là đèn mà là vô số đuốc. Không biết bao nhiêu
quan binh vây chặt một khu đất rộng với nhà cửa xung quanh tới mức một giọt
nước cũng chẳng thể lọt qua. Ở chính giữa khu đất đang đốt một đam 1ửa cháy
phừng phừng, rất xa mà vẫn nghe thấy tiếng củi cháy lách tách. Không gian nồng
nặc mùi khét khiến người ta khó thở.
Thấy
bên cạnh có một thôn dân đang thò đầu quan sát, Tô Phong Nghi vội xuống ngựa tả
lại hình dáng của Tử Hân. Quả nhiên, thôn dân kia gật đầu nói: “Người cô nương
muốn hỏi có phải là Diêu đại phu không?”.
Tô
Phong Nghi nghe thế mừng ra mặt: “Đúng rồi, đúng rồi! Đại thúc, người có biết
huynh ấy ở đâu không?”.
Thôn
dân chỉ vào giữa khu đất: “Vị ấy vào kia rồi… Đinh tướng quân mời đại phu khắp
nơi, dọc dải này chỉ có duy một vị đại phu thì sớm đã bỏ chạy rồi. Vừa hay có
vị giang hồ lang trung này ngẫu nhiên đi ngang qua, còn chẳng đợi Đinh tướng
quân phái người tới mời đã tự mình đi vào. Đúng là một người tốt! Không giấu gì
hai vị, từ khi ôn dịch phát tác tới nay, chỉ thấy người bên trong nghĩ cách
thoát ra, chứ chưa có ai bên ngoài muốn vào cả”.
Nụ cười
đông cứng trên mặt, Tô Phong Nghi kinh sợ hỏi: “Ôn dịch? Ôn dịch gì?”.
“Không
rõ nữa. Đã chết hơn ba trăm người rồi. Những người còn lại phân nửa cũng sắp
không xong”, thôn dân lắc đầu than thở: “Đều là nông dân thật thà lương thiện,
cũng không biết kiếp trước gây ra nghiệp gì mà giờ mắc phải cái họa này…”.
“Đại
thúc người có thấy Diêu đại phu đi ra chưa?”
“Cái gì
mà đi ra?”
“Đi từ
trong đó ra.”
“Cô
nương tìm vị Diêu đại phu ấy có chuyện gì?”
“Cháu…
cháu là bằng hữu của huynh ấy.”
“Diêu
đại phu không thể đi ra đâu.”
Tô
Phong Nghi trong lòng lạnh toát, vừa định hỏi tại sao thì chợt nghe trong đám
người có tiếng xáo động, bên tai có tiếng tên bay vun vút, kiễng chân lên ngó
thì thấy một người mình bận áo vải xanh trúng tên ngã dưới đất, máu chảy lênh
láng, trong tay người đó còn nắm cây cuốc, đang chửi bới bằng tiếng địa phương.
Hắn liều mạng muốn từ trong khu đất xông ra ngoài, sắp tới được rào chắn bao
quanh thì bị binh sĩ thủ vệ bắn ngã. Mắng được một lúc, tiếng người nọ dần dần
yếu đi, chân hướng lên trời đau đớn giãy vài cái rồi không cử động gì nữa.
Nước mắt
Tô Phong Nghi bất tri bất giác trào ra, nàng đã hiểu tại sao Tử Hân không thể
đi ra rồi.
Chân
trời vỡ ra mấy chùm nắng.
Vầng
dương vẫn đẹp đẽ như xưa.
Bình
minh ở Sơ An trấn thì lại khói đen cuồn cuộn, không khí bức bối. Giếng nước khô
cạn, mặt đất nứt nẻ, lửa hỏa táng người chết cháy ngày cháy đêm. Mặc kệ Đinh
tướng quân đã ra lệnh người còn sống phải mau chóng đem thân nhân đã chết hỏa
táng, không ít thôn dân vẫn tin theo tục thổ táng truyền lại từ xưa, thà để
người chết trơ trọi giữa đường cũng không muốn ném họ vào lửa. Huống chi người
chết toàn là do mắc bệnh, trừ người thân ra, chẳng ai dám động vào.
Dưới
mặt trời đầu hè thiêu đốt, thây người biến chất sộc vào mũi không chỉ là mùi
khói khét lẹt mà còn cả mùi thây người thối rữa.
Vậy mà
lại có một nữ nhân còn sống đang nằm giữa đám thi thể thối rữa đó!
Mọi
người nói, nàng tên là A Trân, một trinh nữ trong trấn này, mười lăm tuổi đã
bắt đầu ở góa thủ tiết, tới nay hơn ba mươi. Từ khi người trong thôn chết đi
quá nửa, nàng đã mất hết thân nhân nhưng bản thân lại không hề mắc bệnh.
Năm năm
nay, nàng yên ổn trong phòng của mình, lấy nghề thêu thùa mưu sinh, cựu kỳ ít
ra ngoài.
Nàng là
một nữ nhân mỹ lệ, thần thái điềm đạm, dung mạo đẹp đẽ, thân hình mảnh khảnh,
tuy không tới mức khuynh quốc khuynh thành nhưng cũng xứng để cả thôn lấy thế
làm kiêu ngạo. Mọi người bảo vệ nàng như bảo vệ phúc thần của mình. Nhưng, lúc
ôn dịch tràn đến, trong thôn hỗn loạn, người chết lia lịa, ai cũng tránh mặt
nhau, sống chết mặc bây, thân nhân vứt bỏ thân nhân, bằng hữu chẳng ngó ngàng
bằng hữu, nên cũng chẳng ai phiền tới nàng. Nam nhân trẻ tuổi mặc kệ có mắc
bệnh hay chưa đều tầm hoan hưởng lạc thâu đêm, bọn họ cuồng hoan, hưởng lạc,
tìm nữ nhân, muốn tận hưởng hết thời gian cuối cùng của đời người.
Vào cái
ngày trận ôn dịch trầm trọng nhất, A Trân đột nhiên xuất hiện ở giữa khu đất,
trước mắt chúng nhân cởi bỏ y phục, trần truồng nằm dưới đất.
Bất kể
thôn dân khuyên thế nào, nàng cũng cự tuyệt mặc y phục, thà cứ thế này mà chết
đi.
Sương
đêm xuống, có người đưa cho nàng một tấm chăn liền bị nàng quẳng ra xa.
Nàng
thậm chỉ còn tỏ rõ, nếu có người muốn tìm nàng hưởng lạc, nàng sẽ vui vẻ bồi
tiếp. Nàng không ngại mắc bệnh, cũng chẳng sợ chết, càng không thèm để ý tới
danh tiết.
Mọi
người hỏi nàng rốt cuộc muốn gì, hoặc làm thế cuối cùng là vì cái gì, nàng nói:
“Tôi
chẳng muốn gì, cũng chẳng vì cái gì.”
Nàng
ngây thơ vô tội như một đứa trẻ, chỉ một ý nghĩ thoáng qua cũng có thể làm tổn
thương nàng.
Lúc Tô
Phong Nghi nhìn thấy A Trân, nàng đã trong cơn hấp hối. Có nam nhân tìm tới
nàng, nàng theo hắn vào phòng mình, cuối cùng, lúc trở ra nàng cũng đã bị lây
ôn dịch.
Vết ban
đỏ từng nốt, từng nốt lan trên da nàng, ban đầu chỉ ở cổ, ở bụng, dần dần liền
thành một mảng, sau đó mưng mủ lở loét.
Giang
hồ lang trung kia đưa cho nàng thuốc giảm đau, nàng cự tuyệt uống, cũng từ chối
trị bệnh. Sau đó nàng dần dần không nói được nữa, chỉ đưa đôi mắt đăm đăm nhìn
vào bầu trời xanh trên đầu.
Nàng
giữ tư thế ấy, nằm bất động đợi cái chết.
Phía
đông khu đất chỗ lối ra vào có hai nồi lớn. Một nồi nấu cháo, một nồi đun
thuốc. Mỗi khi tới giờ ăn, người còn sống từ trong nhà đi ra, Đinh tướng quân
sẽ sai người nhân đó đếm người còn sống.
Trong
một ngày, đây là lúc duy nhất Tô Phong Nghi có thể nhìn thấy Tử Hân.
“Vị
lang trung này thật là lợi hại! Ngày đầu tiên đến, không biết làm thế nào đã
thuyết phục được Đinh tướng quân đưa hơn chín chục người chưa mắc bệnh tới tăng
xá của Tuệ An tự phía tây thôn. Nói là sau ba ngày sẽ kiểm tra lại một lượt,
nếu thân thể những người này vẫn không có ban đỏ thì bọn họ hoàn toàn an toàn,
có thể thả ra.. Bây giờ người trong đó đều nói Diêu đại phu là ân nhân cứu mạng
của họ, còn nói muốn lập sinh từ[2] cho vị
ấy đấy”, thôn dân tán tụng nói.
[2]
Lập đền thờ sống để tỏ lòng kính trọng, biết ơn ai đó.
Từ buổi
sáng, Tô Phong Nghi nhìn thấy từng thôn dân lần lượt đi ngang qua rào chắn,
bưng về một bát đầy cháo loãng. Một mạch tới bữa tối nàng vẫn không thấy Tử
Hân. Rào chắn đó và thôn dân ngoài này được ngăn cách bởi mấy hàng binh sĩ,
thôn dân mắc bệnh mặt mày tiều tụy, ánh mắt đờ đẫn, Tô Phong Nghi ở bên kia rào
chắn hỏi thăm bọn họ, một người trong số đó nói, Diêu đại phu bận chăm sóc
người bệnh, không rảnh tới nhận bữa sáng. Cháo của đại phu đều do người khác
lấy hộ.
Ngừng
một chút, người kia lại hỏi: “Cô nương là bằng hữu của Diêu đại phu?”.
Tô
Phong Nghi gật đầu.
“Xin
hỏi, Diêu đại phu có phải thần tiên chăng?”
Tô
Phong Nghi nói: “Không phải”.
“Sao
đại phu rất ít ăn uống?… Đại phu gần như chẳng ăn gì cả, chỉ uống nước.”
Tô
Phong Nghi hỏi: “Hôm nay phát cháo gì thế?”.
“Cháo
lạc.”
“Hôm
qua thì sao?”
“Bữa
nào cũng là cháo lạc. Ở đây lạc rẻ.”
“Huynh
ấy không ăn lạc.”
Người
kia cảm thấy rất kì lạ: “Trên đời này còn có người không ăn lạc à? Chẳng trách
trông vị ấy không còn sức lực, chăm sóc bệnh nhân mệt mỏi như thế, bản thân lại
chẳng ăn thì làm sao được?”.
Tô
Phong Nghi nghe thế liền cưỡi ngựa quay đầu phi đi, lúc quay lại bên người đã
có thêm một cái làn trúc.
Vương
Lộc Xuyên luôn lặng lẽ đi bên nàng, mi mày nhăn tít lại, chẳng nói năng gì.
Được một lúc, cuối cùng cũng mở miệng: “Muội định vào sao?”.
Tô
Phong Nghi gật đầu.
“Muội
nhìn thấy cái người trúng tên kia chưa?”
“Thấy
rồi.”
Mặt
Vương Lộc Xuyên tái đi: “Bên trong rất nguy hiểm, rất có khả năng muội sẽ nhiễm
bệnh”.
Tô
Phong Nghi đáp: “Muội không sợ”.
Vương
Lộc Xuyên trầm mặc nhìn nàng, lầm rầm hỏi: “Muội thích hắn đến thế sao?”.
Tô
Phong Nghi cắn môi gật đầu.
Vương
Lộc Xuyên đưa tay giữ lấy nàng: “Đưa cái làn cho ta, ta đưa vào giúp muội”.
“Không”,
nàng kiên quyết lắc đầu, sau đó ôn hòa nhìn hắn nói: “Bảo trọng nhé, muội đi
đây”.
Nói rồi
thúc mạnh ngựa, phóng vọt qua đầu mọi người mà phi vào trong.