Mật Mã Da Vinci

Chương 54


Đọc truyện Mật Mã Da Vinci – Chương 54

Lò sưởi trong phòng khách của Château Villette đã lạnh ngắt nhưng Collet vẫn đi tới đi lui trước cưa lò, vừa đọc những tờ fax từ Interpol.

Tuyệt nhên không phải điều anh mong đợi.

André Vernet, theo như hồ sơ chính thức, là một công dân kiểu mẫu. Không hề có hồ sơ hình sự, thậm chí một phiếu phạt đỗ xe trái phép cũng không. Học ở trường dự bị và ở Sorbonne, ông ta đã tốt nghiệp loại ưu trong ngành tài chính quốc tế.

Interpol nói rằng tên của Vernet thỉnh thoảng mới xuất hiện trên báo, nhưng bao giờ cũng dưới một ánh sáng tích cực. Rõ ràng là ông này đã góp phần thiết kế nên những thông số an toàn khiến cho Ngân hàng Ký thác Zurich giữ vững ngôi vị hàng đầu trong thế giới tối tân của an toàn điện tử. Chi chép chi tiêu trong thẻ tín dụng của Vernet cho thấy ông ta có sở thích là sách nghệ thuật, rượu đắt tiền và những đĩa CD nhạc cổ điển – phần lớn là của Brahm – mà ông ta khoái nghe trên dàn âm thanh nổi kỹ thuật tinh vi và đắt giá mà ông ta đã mua cách đây vài năm.

Zero, Collet thở dài.

Điều đáng chú ý duy nhất đến từ Interpol đêm nay là một bộ dấu tay có vẻ như thuộc về người hầu của Teabing. Chánh giám sát PTS đang đọc bản báo cáo trên ghế ở bên kia phòng.

Collet nhìn sang: “Có gì không?”.

Giám sát viên nhún vai: “Dấu vân tay là của Rémy Legaludec. Bị truy nã vì tội vặt. Không có gì nghiêm trọng. Hình như hắn bị đuổi khỏi trường đại học vì tội mắc lại dây điện thoại để hưởng dịch vụ miễn phí,…sau đó là một số vụ ăn cắp vặt. Đập vỡ cửa kính và đột nhập. Một lần trốn chi trả viện phí bệnh cho một ca mở khí quản cấp cứu”. Anh ta ngước lên, cười tủm tỉm: “Dị ứng với lạc”.

Collet gật đầu, nhớ lại một cuộc điều tra ở một nhà hàng đã không ghi rõ trên thực đơn là trong thành phần tương ớt có cả dầu lạc. Một khách hàng vô tư đã chết vì sốc do dị ứng sau khi ăn có một miếng.

“Lagaludec có lẽ tá túc ở đây để tránh khỏi bị bắt”. Giám sát viên có vẻ thích thú. “Một đêm may mắn của hắn”.

Collet thở dài: “Được rồi, tốt hơn là anh cứ chuyển tiếp thông tin này đến đại uý Fache”.

Giám sát viên đi khỏi thì một nhân viên PTS khác chạy bổ vào phòng khách: “Trung uý! Chúng tôi phát hiện một thứ trong nhà để xe”.

Bằng vào vẻ lo âu trên gương mặt người nhân viên, Collet suy đoán: “Một xác người à?”.

“Không, thưa sếp. Một thứ còn…”. Anh ta ngập ngừng, “bất ngờ hơn”.

Rụi mắt, Collet theo người nhân viên đến nhà để xe. Khi họ bước vào cái khoảng ẩm mốc như hang động, người nhân viên chỉ vào giữa nhà, nơi có một cái thang gỗ bắc lên tận xà, tựa vào gờ một gác xép lơ lửng trên đầu họ.


“Lúc nãy cái thang đâu có ở đó”, Colle nói.

“Không, thưa sếp. Tôi đã dựng nó lên. Chúng tôi đang tìm dấu vân tay gần chiếc xe Rolls, thì tôi nhìn thấy cái thang nằm trên sàn. Tôi ắt đã không buồn nghĩ thêm về nó, song có điều các bậc thang đều mòn và lấm bùn, chứng tỏ thang này được sử dụng thường xuyên. Độ cao của gác xép khớp với cái thang, vì vậy tôi dựng nó lên và trèo lên để ngó qua một cái”.

Mắt Collet dõi theo chiều nghiêng của cái thang lên đến gác xép. Có người lên đó thường xuyên. Từ dưới này nhìn lên, căn gác xép có vẻ hoang vắng và phần lớn bị khuất tầm nhìn.

Một nhân viên cấp cao PTS xuất hiện ở đầu thang, nhìn xuống: “Chắc chắn anh muốn thấy cái này, trung uý à”, anh ta nói, giơ bàn tay đeo găng nhựa vẫy Collet lên.

Gật đầu mệt mỏi, Collet bước tới chân chiếc thang cũ kĩ và nắm lấy bậc dưới cùng. Cái thang được thiết kế thon nhỏ theo lối cổ và càng lên cao càng hẹp lại. Khi gần tới nơi, Collet suýt trượt chân trên cái bậc mỏng mảnh. Nền nhà như xoay tròn dưới chân. Giờ đây cảnh giác hơn, anh leo tiếp, cuối cùng cũng lên đến đỉnh. Người nhân viên phía trên chìa tay ra đỡ. Collet chộp lấy và vụng về bước lên sàn gác.

“Nó kia kìa”, nhân viên PTS nói, chỉ sâu vào căn gác xép rất sạch như lau như li. “Chỉ có một bộ vân tay trên này thôi.

Không bao lâu nữa chúng ta sẽ có một lý lịch”.

Collet nheo mắt hướng về bức tường phía xa qua ánh sáng lờ mờ. Cái quái quỉ gì thế này? Nép vào bức tường, là một trạm máy tính tinh vi – hai bộ xử lý trung tâm, một màn hình phẳng kèm theo loa, một dàn ổ cứng và một bảng điều khiển âm thanh nhiều kênh có thiết bị lọc riêng.

Tại sao trên đời lại có người làm việc tận trên này nhỉ? Collet đi về phía các máy móc thiết bị đó: “Anh đã xem kỹ hệ thống này chưa?”.

“Đó là một trạm nghe lén”.

Collet quay ngoắt: “Theo dõi ư?”.

Người nhân viên gật đầu: “Theo dõi rất tinh vi”. Anh ta chỉ một cái bàn ngổn ngang những linh kiện điện tử, sổ tay, dụng cụ, dây kim loại, que hàn và những bộ phận điện tử khác. “Một kẻ biết rõ mình đang làm gì. Rất nhiều thứ ở đây tinh vi chẳng kém gì thiết bị của chúng ta. Micrô mini, tế bào quang điện, thanh RAM có dung lượng lớn. Thậm chí hắn có cả những ổ biều thị tân tiến”.

Collet rất kinh ngạc.

“Đây là một hệ thống hoàn hảo”, người nhân viên nói, đưa cho Collet một thiết bị không to hơn một cái máy tính bỏ túi. Dính lủng lẳng vào dụng cụ này là một dây kim loại dài khoảng ba mươi centimet có gắn một mảnh kim loại bằng con tem mỏng dính ở đuôi. “Cái đế này là một hệ thống ghi âm dung lượng lớn với một bộ ắc quy có thể nạp điện. Lá kim loại ở cuối đây là một kết hợp gồm cả micrô và tế bào quang điện”.


Những thứ này, Collet biết rất rõ. Những cái micrô quang điện có kích thước như những mảnh kim loại là một bước đột phá lớn cách vài năm trở lại đây. Bây giờ, một máy ghi âm có thể được dán sau một cái đèn, ví dụ cái micrô mỏng như là kim loại được dán vào đường viền đáy và nhuộm màu cho phù hợp với cái đèn. Chừng nào micrô được định vị thì nó sẽ nhận được năng lượng ánh sáng mặt trời khoảng vài tiếng một ngày. Tế bào quang điện sẽ nạp điện cho hệ thống. Những “con rệp” (1) như thế có thể nghe vô kỳ hạn.

“Phương pháp nhận sóng ra sao?” Collet hỏi.

Người nhân viên chỉ một dây điện cách âm chạy từ sau máy tính lên bức tường và qua cái lỗ ở mái nhà: “Sóng vô tuyến đơn giản. Ăngten nhỏ trên mái”.

Collet biết những hệ thống ghi âm này thường được đặt trong các cơ quan, được khởi động bằng âm thanh để tiết kiệm chỗ trong đĩa cứng và ghi âm những mẩu tin của những cuộc đàm thoại trong ngày, truyền những file âm thanh nén vào buổi đêm để tránh bị phát hiện. Sau khi truyền đi, ổ cứng sẽ tự xoá và chuẩn bị tái hoạt động vào ngày hôm sau.

Lúc này, Collet lia mắt tới một cái giá, trên đó chồng đống hàng trăm băng cátxét ghi âm, tất cả các nhãn được ghi ngày tháng và số hiệu. Một người khá bận rộn. Anh quay về phía người nhân viên: “Anh có biết gì về mục tiêu của vụ nghe trộm này?”.

“Vâng, thưa trung uý”, người nhân viên nói, đi tới máy vi tính và hiển thị một bộ phận phần mềm, “và đây là điều lạ nhất…”.

Chú thích:

(1) Tiếng lóng chỉ micrô nghe trộm.

Langdon cảm thấy hoàn toàn kiệt sức khi ông và Sophie chạy vượt qua cái cửa quay ở ga xe điện ngầm Temple và lao sâu vào mê cung nhằng nhịt những đường hầm và sân ke đầy bụi bẩn. Cảm giác tội lỗi như xé lòng ông.

Mình đã kéo Leigh vào cuộc và bây giờ ông ta đang gặp nguy hiểm lớn.

Việc Rémy nhảy vào cuộc là một cú sốc, tuy nhiên, nó có thể hiểu được. Bất kỳ ai đang tìm kiếm Chén Thánh đều tuyển mộ một kẻ làm tay trong. Họ đến chỗ Teabing vì cùng một lý do như mình. Xuyên suốt lịch sử, những người biết tường tận về Chén Thánh bao giờ cũng là cục nam châm thu hút bọn trộm cắp cũng như các học giả. Việc Teabing vốn đã là một mục tiêu như vậy lẽ ra phải khiến Langdon đỡ cảm thấy có lỗi hơn trong việc làm Teabing liên luỵ, song lại không như vậy. Chúng ta cần phải tìm Leigh và cứu ông. Ngay lập tức.

***

Langdon theo Sophie tới sân ke tuyến District và Circle đi về phía tây, ở đó, cô vội vã đến một máy điện thoại công cộng, gọi cho cảnh sát, mặc dù Rémy đã cảnh cáo không được làm thế. Langdon ngồi ở một ghế băng gần đó, cảm thấy hối hận.

“Cách tốt nhất để cứu Leigh”, Sophie nhắc lại trong khi quay số là lôi các nhà chức trách ở London vào cuộc ngay lập tức.


“Tin tôi đi”.

Langdon thoạt đầu không tán thành ý kiến này nhưng khi họ bàn tính kế hoạch thì lô-gích của Sophie bắt đầu tỏ ra có lý.

Teabing hiện giờ vẫn còn an toàn. Thậm chí nếu Rémy và bọn kia biết được mộ của các Hiệp sĩ Templar nằm ở đâu, chúng vẫn cần sự giúp đỡ của Teabing trong việc giải mã những chỉ dẫn liên quan đến quả cầu. Điều lo lắng của Langdon là chuyện gì sẽ xảy ra sau khi bản đồ Chén Thánh được tìm thấy. Lúc đó Leigh sẽ trở thành gánh nặng lớn cho chúng.

Nếu Langdon muốn có cơ may cứu Leigh hoặc thậm chí thấy lại viên đá đỉnh vòm, điều cốt yếu là ông phải tìm ra ngôi mộ trước nhất. Khốn thay! Rémy lại có lợi thế xuất phát rất lớn.

Làm chậm bước tiến của Rémy trở thành nhiệm vụ của Sophie.

Tìm ra đúng ngôi mộ là nhiệm vụ của Langdon.

Sophie sẽ biến Rémy và Silas thành những kẻ phải chạy trốn cảnh sát London, buộc chúng phải lẩn trốn hoặc tốt hơn nữa, bắt giữ chúng. Kế hoạch của Langdon ít chắc chắn hơn – đi xe điện ngầm tới trường King s College gần đấy, một nơi nổi tiếng về cơ sở dữ liệu thần học điện tử. Phương tiện nghiên cứu tối hậu.

Langdon nghe nói vậy. Trả lời tức khắc cho mọi câu hỏi về lịch sử tôn giáo. Ông tự hỏi không biết cơ sờ dữ liệu này sẽ nói gì về “một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng”. Ông đứng dậy và đi bách bộ, mong sao tầu tới nhanh hơn.

Bên máy điện thoại công cộng, cuối cùng cú gọi của Sophie đã tiếp nối được với cảnh sát London.

“Đồn Snow Hill đây”, người điều phối nói, “tôi có thể chuyển tiếp cuộc gọi của cô đến bộ phận nào?”.

“Tôi báo cáo về một vụ bắt cóc”, Sophie nói ngắn gọn.

“Xin cho biết tên?”.

Sophie ngừng lại: “Nhân viên Sophie Neveu, Cảnh sát tư pháp Pháp”.

Danh hiệu đó có hiệu lực như mong muốn: “Có ngay, thưa cô. Để tôi kiếm một thám tử nói chuyện với cô”.

Trong khi chờ cuộc gọi được kết nối, Sophie bắt đầu băn khoăn liệu cảnh sát có tin vào sự mô tả của cô về những kẻ bắt cóc Teabing hay không. Một tên mặc xmôckinh. Một kẻ tình nghi có thể dễ nhận dạng hơn đến mức nào? Thậm chí nếu Rémy thay đổi trang phục, hắn vẫn phải cạ với một gã thầy tu bạch tạng. Không thế trật được. Vả lại, chúng có một con tin và không thể leo lên những phương tiện giao thông công cộng. Cô tự hỏi có bao nhiêu xe Jaguar thân dài ở London.

Sự kết nối của Sophie với viên thám tử dường như bất tận.


Cố lên nào! Cô có thể nghe thấy tiếng lạo xạo trên đường dây như thể cô đang được chuyển tiếp.

Mười lăm giây qua đi.

Cuối, cùng một người đàn ông tiếp máy: “Nhân viên Neveu?”.

Sững sờ, Sophia nhận ra ngay giọng nói cộc cằn đó.

“Nhân viên Neveu”, Bezu Fache hỏi, “cô đang ở chỗ quái quỷ nào thế?”.

Sophie không thốt nên lời. Đại úy Bezu Fache đã yêu cầu người điều phối của cảnh sát London báo động cho ông ta nếu Sophie gọi.

“Nghe này”, Fache nói bằng tiếng Pháp ngắn gọn, “đêm nay, tôi đã phạm sai lầm khủng khiếp. Rober Langdon vô tội. Tất cả những cáo buộc chống lại ông ta đã được huỷ bỏ. Tuy vậy, cả hai người đang gặp nguy hiểm. Hai người cần đến đây ngay”.

Hàm Sophia trễ ra. Cô chẳng biết trả lời như thế nào. Fache không phải là người sẵn sàng xin lỗi về bất cứ điều gì.

“Cô đã không cho tôi biết”, Fache tiếp tục, “rằng Jacques Saunière là ông của cô. Tôi hoàn toàn có ý định bỏ qua tội bất phục tùng của cô đêm qua, xét vì cơn stress tình cảm mà hẳn là cô phải trải qua. Vào thời điểm này, tuy nhiên, cô và Langdon cần đến ngay sở chỉ huy cảnh sát London gần nhất để ẩn náu”.

Ông ta biết mình đang ở London ư? Fachc còn biết được điều gì nữa? Sophie nghe thấy cái gì tựa như tiếng khoan hay tiếng máy móc là âm thanh nền ở đầu dây đằng kia. Cô cũng nghe thấy cả một tiếng lách cách kì lạ trong máy: “Ông đang truy tìm cuộc gọi này à, Đại uý?”.

Giọng Fache lúc này trờ nên cứng rắn: “Cô và tôi cần hợp tác, nhân viên Neveu. Cả hai chúng ta có nhiều thứ để mất ở đây. Đó là cách khống chế thiệt hại. Tôi đã phạm sai lầm trong nhận định đêm qua, nếu sai lầm đó lại dẫn đến cái chết của vị giáo sư người Mỹ và chuyên viên giải mật mã DCP sự nghiệp của tôi sẽ thất bại. Trong vài tiếng vừa qua, tôi đã cố gắng kéo hai người trở về nơi an toàn”.

Một ngọn gió ấm áp thổi qua sân ga khi một đoàn tàu ầm ầm tiến đến. Sophie dự định bằng giá nào cũng phải lên tàu.

Langdon hình như cũng có cùng ý định, lúc này ông cố trấn tĩnh và bước về phía cô.

“Kẻ ông muốn truy nã là Rémy Legaludec”, Sophie nói, “hắn là người hầu của Teabing. Hắn bắt cóc Teabỉng bên trong Nhà thờ Temple và… “.

“Nhân viên Neveu!” Fache hét khi con tàu lao ầm ầm vào sân ga: “Đây không phải là cái để thoả thuận trên điện thoại. Ngay bây giờ cô và Langdon phải đến đây. Vì sự sống còn của chính hai người? Đó là mệnh lệnh trực tiếp!”.

Sophie cúp máy và cùng Langdon lao lên tàu.

———————————————


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.