Đọc truyện Mật Mã Da Vinci – Chương 48
Chiếc máy bay cánh quạt thuê đang bay ngang qua những ánh đèn sáng lấp lánh của Monaco khi Aringonosa chấm dứt cuộc nói chuyện điện thoại với Fache lần thứ hai. Ông lại với lấy cái túi nôn nhưng cảm thấy quá kiệt sức đến không còn buồn nôn nữa.
Thôi thì cứ để nó xong béng đi!
Tin tức cập nhật nhất của Fache dường như khôn lường nổi, đêm nay hầu như chẳng có gì ra sao cả. Chuyện gì đang diễn ra? Mọi thứ rối tinh rối mù lên ngoài tầm kiểm soát. Mình đã đẩy Silas vào việc gì thế này? Mình đã đẩy bản thân vào cái gì thế này?
Đôi chân run rẩy, Anngarosa đi tới buồng lái: “Tôi cần thay đổi nơi đến”.
Người phi công ngoái nhìn qua vai và cười: “Cha đang nói đùa phải không?”.
“Không. Tôi phải với London ngay lập tức”.
“Thưa Cha, đây là chuyến bay thuê theo hợp đồng, không phải taxi”.
“Tất nhiên, tôi sẽ trả thêm. Bao nhiêu? London chỉ quá lên phía bắc một giờ đồng hồ và hầu như không đòi hỏi đổi hướng, cho nên… “.
“Không phải vấn đề tiền bạc, thưa Cha, còn có những vấn đề khác nữa”.
“Mười ngàn euro. Ngay bây giờ”.
Người phi công quay lại, đôi mắt mở to vì kinh ngạc: “Bao nhiêu? Loại tu sĩ nào có thể mang theo từng ấy tiền mặt?”.
Aringarosa quay lại chỗ chiếc cặp da đen, mở nó và rút ra một trong những tờ séc. Ông đưa nó cho người phi công.
“Cái gì đây?”, Người phi công hỏi.
“Tờ séc mười nghìn euro rút từ nhà băng Giáo hội Thiên Chúa Giáo Vatican”.
Người phi công có vẻ hoài nghi.
“Nó có giá trị như tiền mặt”.
“Tiền mặt là tiền mặt”, người phi công nói, trả lại tờ séc.
Aringarosa cảm thấy yếu lả đi khi dựa mình vào cửa buồng lái. “Đây là vấn đề sống còn. Anh phải giúp tôi. Tôi cần tới London”.
Người phi công nhìn chiếc nhẫn vàng của vị Giám mục:
“Kim cương thật à?”.
Aringonosa nhìn chiếc nhẫn: “Đây là vật bất ly thân”.
Người phi công nhún vai, quay lại và tập trung về phía ngoài kính chắn gió.
Aringonosa cảm thấy một nỗi buồn sâu sắc. Ông nhìn chiếc nhẫn. Dù sao đi nữa, Gám mục cũng sắp mất hết mọi thứ mà nó đại diện cho. Sau một lúc lâu, ông tháo chiếc nhẫn khỏi ngón tay và đặt nó nhẹ nhàng lên bảng điều khiển.
Aringonosa lách mình ra khỏi buồng lái và quay về chỗ ngồi xuống. Mười lăm giây sau, ông cảm thấy người phi công điều chỉnh thêm vài độ bay về hướng bắc.
Dù vậy, giây phút vinh quang của Aringonosa vẫn cứ là tan vỡ.
Tất cả đã bắt đầu như là một sự nghiệp thiêng liêng. Một kế hoạch được xây dựng xuất sắc. Bây giờ, thì giống như ngôi nhà bằng quân bài, nó đang tự sụp đổ… và đoạn kết còn mù mịt chưa thấy đâu cả.
Có thể thấy Sophie vẫn còn run rẩy do việc kể lại trải nghiệm của mình với nghi lễ Hieros Gamos. Về phần ông, Langdon cũng ngạc nhiên về những gì nghe được. Sophie không chỉ chứng kiến toàn bộ nghi lễ đó mà còn thấy ông mình là người chủ tế… Đại sư của Tu viện Sion. Đó là những người thông minh sáng láng. Da Vinci, Botticelli, Isaac Newton, Victo Hugo, Jean Coccau,…và Jacques Saunière.
“Tôi không biết mình có thể nói gì thêm với cô”, Langdon nói nhẹ nhàng.
Cặp mắt Sophie lúc này xanh thăm thẳm, đẫm lệ “Ông tôi đã nuôi dạy tôi như con gái ruột”.
Bây giờ Langdon mới nhận ra nỗi xúc động trào dâng trong đôi mắt cô trong khi họ nói chuyện. Đó là sự hối hận. Xa xôi mà sâu sắc. Sophie Neveu đã xa lánh ông cô và giờ đây, cô đang nhìn ông dưới ánh sáng hoàn toàn khác.
Bên ngoài, bình minh đang lên nhanh, quầng sáng đỏ thắm tập trung bên mạn phải máy bay. Trái đất vẫn một màu đen bên dưới họ.
“Thức ăn đồ uống đây, các bạn thân mến?”. Teabing quay trở lại hoan hỉ, chìa ra một vài lon Coca và một hộp bánh quy giòn.
Vừa phân phối, ông vừa xin lỗi rối rít vì thức ăn có hạn. “Người bạn của chúng ta – gã thầy tu vẫn không nói gì”, ông nói, “Nhưng hãy cho anh ta thời gian”. Ông cắn một cái bánh quy và liếc nhìn bài thơ. “Này, bạn yêu quý, có tiến triển chút nào không?”. Ông đưa mắt nhìn Sophie. “Ông cô đang cố gắng nói với chúng ta điều gì ở đây? Tấm bia ấy đang ở nơi quỉ quái nào? Tấm bia được các Hiệp sĩ Templar ca ngợi ấy”.
Sophie lắc đầu và vẫn yên lặng.
Trong khi Teabing lại chúi vào bài thơ, Langdon bật nắp một lon Coca và quay mặt về phía cửa sổ suy nghĩ của ông miên man với những hình ảnh về nghi thức bí ẩn và mật mã chưa được giải đáp. Một tấm bia Templar ca ngợi là chìa khóa. Ông uống một hơi dài lon Coca. Một tấm bia Templar ca ngợi. Nước Coca thật ấm.
Màn đêm dường như tan biến nhanh chóng và khi quan sát sự thay đổi đó, Langdon thấy đại dương lung linh trải rộng bên dưới họ. Eo biển anche. Không còn lâu nữa.
Langdon mong ánh sáng ban ngày sẽ mang đến một sự rọi sáng mới, nhưng bên ngoài càng sáng lên thì ông càng cảm thấy mình xa sự thật hơn. Ông nghe thấy nhịp điệu của thể thơ năm ngũ bộ iambic và tiếng tụng ca, nghi lễ Hieros Gamos và các nghi lễ thiêng liêng khác lẫn với tiếng ầm ì của máy bay phản lực.
Một tấm bia Temlar ca ngợi.
Máy bay lại bay trên đất liền khi một tia sáng loé lên trong đầu ông. Langdon đặt lon Coca xuống: “Chắc các vị không tin đâu ông nói, hướng về phía những người khác, “Tấm bia Templar… tôi đã đoán ra”.
Teabing tròn xoe mắt: “Anh biết tấm bia ở đâu?”.
Langdon cười: “Không phải ở đâu mà là cái gì”.
Sophie rướn người lên để nghe.
“Tôi nghĩ tấm bia – hetone – phải hiểu theo nghĩa đen của từ stone head nghĩa là đầu đá”, Langdon giải thích, thường thức niềm phấn khích quen thuộc trước mỗi đột phá về học thuật.
“Không phải là cái để đánh dấu mộ”.
“Một đầu đá?”, Teabing hỏi.
Sophie có vẻ cũng bối rối.
“Leigh”, Langdon nói, quay lại, trong Toà án dị giáo, Giáo hội đã kết tội các Hiệp sĩ Templar về đủ mọi thứ tà đạo, đúng không?”.
“Chính xác. Họ bịa đặt ra tất cả mọi tội. Tình dục đồng giới, tiểu tiện lên thánh giá, thờ cúng quỷ ác, cả một danh sách dài”. Và trong danh sách đó có cả việc thờ cúng ngẫu tượng, đúng không? Đặc biệt hơn, Giáo hội đã kết tội các Hiệp sĩ Templar vì đã bí mật tiến hành nghi lễ cầu nguyện trước một cái đầu đá được đẽo… vị thần ngoại giáo…”.
“Baphomet!” Teabing buột mồm. “Trời, Robert, anh đã đoán đúng! Một tấm bia Templar ca ngợi?”.
Langdon nhanh chóng giải thích cho Sophie rằng Baphomet là một vị thần ngoại giáo tượng trưng cho sự phồn thực, gắn với sức mạnh sáng tạo trong sinh sản. Cái đầu của Baphomet được thể hiện như đầu cừu đực hay đầu dê, một biểu tượng chung cho sự sinh sôi nảy nở và sự mắn đẻ. Các Hỉệp sĩ Templar tôn vinh Baphomet bằng cách đi vòng quanh mô hình cái đầu bằng đá của ông ta và hát kinh cầu nguyện.
“Baphomet”, Teabing cười gằn, “nghi lễ này tôn vinh điều sáng tạo kì diệu của việc hợp nhất giới tính, nhưng Giáo hoàng Clement lại thuyết phục mọi người rằng cái đầu của Baphomet trên thực tế là quỷ dữ. Giáo hoàng sử dụng chiếc đầu này như chứng cớ chủ chốt trong vụ án các Hiệp sĩ Templar”.
Langdon đồng tình. Tín ngưỡng hiện đại nhằm vào một con quỷ có sừng gọi là Satan có thể truy nguyên từ Baphomet và từ những mưu toan của Giáo hội nhằm bóp méo vị thần phồn thực có sừng thành một biểu tượng của cái ác. Rõ ràng Giáo hội đã thành công tuy chưa phải là hoàn toàn. Trên những bàn ăn trong ngày lễ Tạ ơn truyền thống ở Mỹ vẫn có những thứ mang sừng, biểu tượng ngoại giáo của sự phồn thực. Chiếc sừng dê kết hoa quả, được gọi là “sừng sung túc”, là một biểu hiện tôn kính đối với tính phồn thực của Baphomet, nó bắt nguồn từ câu chuyện Zeus bú sữa một con dê thế rồi sừng nó gẫy ra và đầy ắp hoa quả bởi phép mầu. Baphomet cũng xuất hiện trong các bức ảnh chụp chung khi những kẻ thích đùa giơ hai ngón tay sau đầu bạn mình theo hình chữ V tượng trưng cho sừng, chắc chắn rất ít người hay đùa như vậy biết rằng những cử chỉ chế nhạo của họ trên thực tế là quảng cáo cho sự dồi dào t*ng trùng của nạn nhân.
“Phải, phải”, Teabing nói với vẻ thích thú, bài thơ ắt phải nhằm ám chỉ Baphomet. Một cái đầu bằng đá được các Hiệp sĩ Templar ca ngợi!”.
“Được”, Sophie nói, “nhưng nếu Baphomet là cái đầu đá được các Hiệp sĩ Templar ca ngợi thì chúng ta lại rơi vào một tình thế khó xử mới”, Sophie chỉ vào những cái đĩa của hộp mật mã, “Baphomet có tám chữ cái. Hiện nay chúng ta chỉ có chỗ cho năm chữ cái!”.
Teabing cười toác miệng: “Bạn thân mến, đấy chính là chỗ mật mã Atbash phát huy tác dụng”.
——————————————————–